Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

THỰC TRẠNG GIA NHẬP AFTA CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.71 KB, 23 trang )

THỰC TRẠNG GIA NHẬP AFTA CỦA VIỆT NAM
QUAN HỆ TM HOÁ VIỆT NAM – ASEAN:
1. Tình hình chung ASEAN
Tổng thư ký ASEAN, Rodolfo C. Severino nhận xét: nhờ cải cách sâu sắc
trong nội bộ để hội nhập, Đông Nam Á đã được củng cố vững chắc với viễn cảnh
tăng trưởng ổn định. Giờ đây Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đang là một thị
trường rộng mở đối với Đông Nam Á và Thái Bình Dương.
Ngày nay, điều mà chúng ta nhìn thấy ở ASEAN là một khu vực an toàn và
ổn định. Điểm nổi bật của nền kinh tế là sự hội nhập trong khu vực với một viễn
cảnh tăng trưởng ổn định do trong khu vực này đang diễn ra sự cải cách và hội
nhập một cách sâu sắc. Một nhà đầu tư nào đó mong muốn có một tài năng trong
lĩnh vực kỹ thuật cao, tính hiệu quả trong các loại hình dịch vụ, nhiều loại vật liệu
thô hay giá nhân công rẻ có thể tìm thấy ở một hay nhiều quốc gia khác trong
ASEAN. Có sự đầu tư thì toàn bộ Đông Nam Á là thị trường, bởi vì thị trường đó
ngày càng hội nhập. Đó là lý do tại sao khi nói thị trường ASEAN cũng là nói đến
nền kinh tế ASEAN. Khu vực thương mại tự do ASEAN (còn gọi là AFTA) về cơ
bản đã trở thành hiện thực với hơn 85% loại thuế nhập khẩu trong hệ thống AFTA
đã nằm trong danh mục loại thuế nhập khẩu tối thiểu. Số lượng hàng hoá nằm
trong danh mục tối thiểu này chiếm hơn 90% số hàng hoá được giao dịch trong các
nước ASEAN. Vào đầu năm 2002, phần lớn hàng hoá buôn bán trong ASEAN sẽ
chịu thuế nhập khẩu 5% hoặc được miễn thuế hoàn toàn. Cũng vào năm 2002 thuế
nhập khẩu trung bình áp dụng cho các mặt hàng buôn bán thuộc AFTA sẽ giảm từ
4,43% hiện tại xuống còn ít hơn 4%. 6 nước đối tác đầu tiên của hiệp hội AFTA dự
định bỏ hết các loại thuế nhập khẩu trong mậu dịch với nhau vaò năm 2010. Việc
bỏ hẳn hàng rào thuế quan đang được tháo gỡ dần dần Sự hội nhập của nền kinh tế
ASEAN đang tạo ra một thị trường với nửa tỉ dân gần bằng nửa số dân của Trung
Quốc và tổng sản phẩm nội bộ tương đồng với tổng sản phẩm của Trung Quốc.
Điều đó là một yếu tố quan trọng cho sự quyết định đầu tư vào ASEAN.
2. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam
Đánh gía hoạt động kinh tế , hợp tác quốc tế trong 10 năm qua (1992-2001)
Việt Nam đã có được những bước tiến cơ bản:


Về hợp tác quốc tế: Thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, mở rộng
quan hệ thương mại với hơn 155 nước, thu hút đầu tư trực tiếp các tập đoàn và
Công ty thuộc 70 nước và vùng lãnh thổ, tranh thủ viện trợ phát triển của 45 nước
và định chế tài chính quốc tế. Ngày 25/7/1995 gia nhập ASEAN, tham gia AFTA;
3/1996 là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM); 11/1998 trở thành
thành viên APEC, 13/7/2000 ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa kỳ – Hiệp định
có hiệu lực 10/12/2001, 12/1994 cho đến nay đang tiếp tục đàm phán gia nhập
WTO; Thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết với các nước và các tổ chức
kinh tế khu vực và quốc tế xoá bỏ từng bước các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan , phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam và pháp luật kinh tế quốc tế là
mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường quốc tế, tạo lập môi trường
pháp lý ổn định để phát triển kinh tế, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Về tình hình phát triển kinh tế:
Từ ổn định về thị trường, Việt Nam ta sẽ có điều kiện thuận lợi để xây dựng
những kế hoạch đầu tư, sản xuất, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế. Hoạt động
xuất nhập khẩu đạt được mục tiêu về quy mô và tốc độ tăng trưởng (kim ngạch
xuất nhập khẩu thời kỳ 1991 -1995 tăng gấp 2-2,5 lần so với 5 năm trước;năm
2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 14,45% tỷ USD, tăng 6 lần so với năm 1990 – 2,4 tỷ
USD. Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 18,4% /năm, nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng GDP khoảng 2,6 lần). Cơ cấu xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến (tăng từ 8% năm 1991 lêm 40% vào năm
2000). Nhập khẩu đã góp phần phục vụ sản xuất và đổi mới công nghệ (tư liệu sản
xuất hiện nay chiếm khoảng 95% kim ngạch nhập khẩu trong đó máy móc thiết bị
26-27%, nguyên nhiên vật liệu khoảng 60% , khoảng 4% còn lại là hàng tiêu
dùng), thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá. Tình trạng
nhập siêu đã giảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối. Chủ trương đa dạng hoá thị
trường và đa phương hoá quan hệ kinh tế được thực hiện tương đối thành công.
Có được những thành tựu trên là do công cuộc đổi mới thúc đẩy, lực lượng
sản xuất phát triển , cơ cấu sản xuất được chuyển dịch dần tạo điều kiện đẩy mạnh

xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất nhập khẩu.Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại. Cụ
thể là quy mô xuất khẩu còn nhỏ so với các nước trong khu vực . Cơ cấu hàng hoá
còn lạc hậu, tỷ trọng hàng thô, hàng sơ chế và hàng gia công còn cao. Khả năng
cạnh tranh hàng hoá còn thấp. Nhập khẩu chưa thay đổi được một cách cơ bản tình
trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành . Tình trạng nhập lậu vẫn khá nghiêm
trọng. Những tồn tại trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân khách quan, chủ quan
nhưng chủ yếu là do trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp , cơ cấu
chuyển dịch chậm.
Do vậy, cải cách thuế quan, tự do hoá thương mại là tất yếu và đã từng bước
phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của nước ta càng sớm càng tốt để tranh
thủ các cơ hội kinh doanh, tham gia vào quá trình hình thành luật kinh tế, thương
mại quốc tế có lợi cho mình. Nếu tham gia muộn sẽ phải chấp nhận nhiều quy định
đã rồi, các nghĩa vụ phải thực hiện sẽ lớn hơn và thời gian chuyển tiếp cũng ngắn
hơn và Việt nam phải vượt qua nhiều thách thức hơn.
Thực hiện chủ trương trên, từ 1/1/1996 Việt Nam bắt đầu thi hành nghĩa vụ
theo thành viên AFTA, thực hiện cải cách thuế quan theo CEPT, mở đầu có tính
chất đột phá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng tự do hoá thương
mại của Việt Nam: Tạo thị trường láng giềng ổn định, tăng sự hấp dẫn đối với đầu
tư nước ngoài, tạo vị thế quốc tế mới, thúc đẩy thêm quan hệ của nước ta với các
nước khác, kể cả các nước lớn.
Các nước ASEAN đánh giá việc Việt Nam thực hiện cải cách thuế quan theo
CEPT/AFTA có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu cho một giai đoạn mới đưa
ASEAN nhanh chóng trở thành tổ chức kinh tế chung . Sự thật về AFTA chứng
minh rằng các nước ASEAN đều đã mở cửa nền kinh tế, tiến tới mức độ tự do hoá
thương mại trên nền tảng như nhau của chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung.
Tuy nhiên, tham gia khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, nhìn chung có thể
nói xuất phát điểm của Việt Nam tham gia AFTA có mặt không thực sự thuận lợi:
quan hệ thương mại Việt Nam với các nước quốc gia ASEAN còn lỏng lẻo và mất
cân đối lớn, trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn quá thấp trong khi hầu hết

các nước ASEAN có nền kinh tế phát triển, điều đó cũng chính là thách thức đối
với Việt nam khi gia nhập AFTA.
II. NỘI DUNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH THUẾ QUAN
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN AFTA Ở VIỆT NAM.
Hệ thống thuế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi và có nhiều cải
cách, đặc biệt bắt đầu thực hiện AFTA.
1. Hệ thống thuế Việt Nam trước khi thực hiện AFTA
Từ năm 1995, khi Việt Nam gia nhập ASEAN cam kết thực hiện chương
trình CEPT.AFTA, Nhà nước đặc biệt quan tâm điều chỉnh thuế nội địa, ban hành
và sửa đổi các sắc thuế nhằm hỗ trợ cải cách thuế xuất nhập khẩu theo cam kết
thực hiện CEPT/AFTA.
Các đặc điểm chủ yếu của hệ thống thuế Việt Nam trước khi thực hiện AFTA
Hệ thống thuế Việt Nam có 4 nét nổi bật sau:
- Các loại thế doanh thu và thuế lợi tức còn quá phức tạp, có nhiều chế độ
miễn, giảm thuế và quá nhiều mức thuế.
- Thuế tu từ các doanh nghiệp Nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn.
- Tính hệ thống giữa các chính sách thuế chưa chặt chẽ, vừa không bao quát
hết được các nguồn thu, thậm chí thất thu nghiêm trọng, chưa bảo đảm thuế là
nguồn thu chủ yếu, vừa có những điểm bất hợp lý, trùng lặp, thuế đánh trên thuế
nhưng doanh thu.
- Nhiều vấn đề còn chưa được công khai trong công tác hành chính và thu
thuế. Điều này cộng với tính quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đôi chút của các
cấp và các cơ quan khác dẫn tới thuế có tính chất “khoản đóng góp mang tính
thương lượng”. Chứ không mang tính khách quan.
Do đó, cần cải cách những mặt hạn chế của hệ thống thuế Việt Nam, Tránh
đánh giá thuế trùng lặp, giảm khả năng trốn thuế, lậu thế nằm thực hiện
CEPT/AFTA.. Sau đó dần dần hoàn thiện, làm hài hoà hệ thống thuế nước ta với
hệ thống thuế trong khu vực và trên thế giới, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
2. Cải cách thuế nội địa ở Việt Nam

Để phù hợp với cách đánh thuế của các nước trên thế giới và các nước
ASEAN, Chính phủ Việt Nam đang thực hiện cải cách thuế quan và đã vạch ra một
chương trình bao gồm những thay đổi về thuế sẽ được thực hiện trong 5 năm 1999
đến 2004 và những năm tiếp theo. Một trong những thay đổi này là việc cải cách
thuế nội địa: thay thuế doanh thu bằng thuế GTGT và thực hiện luật thuế thu nhập
thay thuế lợi tức từ 1/1/1999. Cùng với quyết định sửa đổi luật thuế TTĐB lần 3
ngày 20/5/1998 (có hiệu lực từ 1/1/1999) nhằm tách thuế TTĐB ra khỏi thuế nhập
khẩu để giảm thuế nhập khẩu theo cam kết thực hiện chương trình CEPT, điều này
đã tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia AFTA mà không bị thiệt thòi về kinh tế
trong quan hệ buôn bán với các nước cùng tham gia ký kết hiệp định CEPT/AFTA.
.2.1. Thay thế thuế doanh thu bằng GTGT
Theo luật số 02/1997/QH9, được Quốc hội khoá IX, thông qua trong kỳ họp
thứ 11, thuế GTGT sẽ được thực hiện bắt đầu từ 1/1/1999 thay thế thuế doanh thu.
Đặc điểm của thuế GTGT.
- Thuế GTGT đánh vào từng khâu sản xuất kinh doanh. Thuế suất đánh vào
các khâu đều bằng nhau và chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm. Thuế tính ở khâu
sau được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước nhưng phải căn cứ vào chứng từ
hoá đơn hợp lệ.
Sở dĩ phải thay thế thuế Doanh thu bằng thuế GTGT do:
- Thuế Doanh thu tính trên doanh thu đã có thuế doanh thu, còn thuế GTGT
tính trên gia bán hàng hoá dịch vụ chưa có GTGT. Như vậy, thuế GTGT khắc phục
được nhược điểm thu trùng lắp của thuế Doanh thu.
- Đối với hàng sản xuất để xuất khẩu không những không phải nộp thuế
GTGT mà còn được khấu trừ hay hoàn toàn GTGT đầu vào nên tạo điều kiện hạ
giá bán, nâng khả năng cạnh tranh trong trên thị trường quốc tế, góp phần đẩy
mạnh xuất khẩu mở rộng lưu thông hàng hoá. Đây là một yếu tố rất cần thiết khi
chúng ta tham gia AFTA.
- Tham gia AFTA, thực hiện cắt giảm thuế quan theo chương trình CEPT tất
yếu sẽ kéo theo việc giảm thu ngân sách. Một trong những biện pháp nhằm khắc
phục khó khăn này là hạn chế tối đa hiện tượng trốn thuế, lậu thuế. Do thuế GTGT

được thu tập trung ngay từ khâu đầu và việc thu thuế ở khâu csau còn kiểm tra
được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước nên hạn chế được tình trạng thất thu
thuế.
Mặt khác, trong thực tiễn kinh doanh, sổ sách chứng từ kinh doanh thường
không rõ ràng, nên chủ kinh doanh dễ trốn thuế, lậu thuế. Với thuế GTGT, việc
tính thuế ở đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện pháp, lậu thuế. Với thuế
GTGT, việc tính thuế ở đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện pháp kinh tế
góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán cùng thực hiện tốt hơn chế độ hoá
đơn, chứng từ, bảo đảm không trốn thuế, lậu thuế.
2.2.Thay thuế lợi tức bằng thuế thu nhập doanh nghiệp
Đặc điểm thuế thu nhập DN:
- Đối tượng thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, và thu nhạp khác kể cả thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ ở nước ngoài. Đây là một loại thuế trực thu, phụ thuộc và kết quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thuế suất thuế TNDN áp dụng chung đối với cơ sở kinh doanh trong nước
và tổ chức cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam là 32%. Cơ sở sản xuất, xây dựng, vận tải áp dụng thuế
suất mới cao hơn mức thuế suất cũ theo luật thuế lợi tức (25%), nếu có khó khăn sẽ
được áp dụng thuế suất 25% trong thời hạn 3 năm kể từ năm 1999. Thuế suất thuế
TNDN áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước
ngoài và bên nước ngoài tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định
trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định chế độ miễn, giảm thuế cho
các cơ sở kinh doanh trong nước mới thành lập hoặc di chuyển đến các vùng khó
khăn, các cơ sở kinh doanh mở rộng quy mô sản xuất,. Sử dụng nhiều nữ nhân
công và trong một số trường hợp các cơ sở kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài
và bên nước ngoài tham gia Hợp đồng hợp tác kinh tế kinh doanh cũng được
hưởng chế độ miễn dịch giảm thuế TNDN.
Thuế thu nhập từ doanh nghiệp thay thế cho thuế lợi tức từ1/1/1999 nhằm:

- Bao quát và điều tiết được tất cả các khoản thu nhập đã, đang và sẽ phát
sinh của cơ sở kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo định hướng
HXCN của Việt Nam.
- Thông qua việc ưu đãi về thuế suất, về miễn thuế, giảm thuế, khuyến khích
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, tạo điều kiện cho các cơ sở yếu
kém vươn lên, khuyến khích các tổ chức cá nhân trong nước tiến kiệm để dành vốn
cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh , nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm trong nước trên trước quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi chúng ta thực
hiện AFTA, tham gia tự do hoá thương mại khu vực và thế giới. Hệ thống hoá
những quy định ưu đãi về thuế trong các luật khác và Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp, bảo đảm sự rõ ràng, thống nhất trong việc thực hiện các chế độ ưu đãi về
thuế.
2.3. Cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
Đặc điểm:
- Thuế TTĐB là một loại thuế gián thu, được cấu thành và giá cả hàng hoá
và người mua là người chịu thuế.
- Thuế TTĐB thường có thuế suất cao nhằm điều tiết thu nhập của những
nhường tiêu dùng các loại hàng hoá, dịch vụ cao cấp.
- Thuế TTĐB chỉ thu một lần ở khâu sản xuất hay nhập khẩu đối với hàng
hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB.
- Các hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB khi xuất khẩu thì không phải nộp
thuế TTĐB.
Về sửa đổi của thuế TTĐB.
Luật thuế TTĐB được Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990, sửa đổi, bổ sung
lần thứ nhất ngày 5/5/1993, lần hai ngày 28/10/1995, lần ba ngày 20/5/1998.
Những thay đổi chính của luật thuế TTĐB.
- Áp dụng thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô nội địa ngang bằng ô tô nhập
khẩu, phù hợp với yêu cầu của chế độ đãi ngộ quốc gia đối với hàng hoá nhập khẩu
được ký kết giữa các nước tham gia AFTA. Tuy nhiên vẫn có sự phân biệt thuế suất
đánh giá vào thuốc lá nhập khẩu và thuốc lá được sản xuất từ nguồn nguyên liệu

trong nước.
- Sửa đổi thứ hai của luật TTĐB chủ yếu để hạn chế tiêu dùng các loại hàng
hoá, dịch vụ cao cấp ở Việt Nam. Đó là việc mở rộng phạm vi các mặt hàng và
dịch vụ chịu thuế TTĐB.
Hàng hoá:
* Điều hoà nhiệt độ công suất sừ 90.000 BTU trở xuống
* Bài lá
* Vàng mã, hàng mã
Dịch vụ:
* Kinh doanh vũ trường, mát xa, karaoke
* Kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe
* Kinh doanh Golf:Bán thẻ hội viên, vé chơi golf
- Ban hành điều khoản phép miễn và giảm thuế gồm:
* Cơ sở sản xuất bia có quy mô nhỏ nếu nộp đủ thuế TTĐB theo biểu thuế
TTĐB tương ứng với số lỗ trong năm, hời hạn xét giảm thuế không quá 5 năm đầu
kể từ khi luật có hiệu lực (1999 đến 2004)
* Đối với cơ sở lắp ráp, sản xuất ô tô trong nước có thể được xét giảm thuế
TTĐB từ 60 - 100% so với mức thuế của biểu thuế 1999 đến 2004. Nếu còn tiếp
tục bị lỗ thì có thể được xét giảm thêm từ 1 đến 5 năm nữa .
* Cơ sở kinh doanh Golf được giảm 30% số thuế TTĐB phải nộp theo Biểu
thuế suất thuế TTĐB trong vòng 3 năm kể từ năm 1999.
* Cơ sở sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB gặp khó khăn do
thiên tai, địch hoạ, tại nạn bất ngờ thi được xét miễn giảm thuế TTĐB. Mức giảm

×