Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY LỮ HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.46 KB, 24 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH VÀ
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY LỮ HÀNH
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH.
1.1.1. Khách du lịch.
Khách du lịch có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo Tổ chức Du Lịch
Thế Giới(WTO) định nghĩa khách du lịch như sau:
Khách du lịch là một người từ quốc gia này đi tới một quốc gia khác với một lý
do nào đó có thể là kinh doanh, thăm viếng hoặc làm việc gì khác ngoại trừ hành
nghề hay lãnh lương.
Định nghĩa này có thể áp dụng cho cả khách trong nước. Theo cách tiếp cận
này thì khách du lịch được chia làm 2 loại: du khách và khách thăm quan.
- Du khách ( Tourist )
Du khách là khách du lịch, lưu trú tại một quốc gia trên 24 giờ và không ở lại
qua đêm với lý do kinh doanh, thăm viếng hay làm việc gì khác.
- Khách thăm quan ( Excursionst )
Khách thăm quan là khách du lịch đến viếng thăm ở một nơi nào đó dưới 24
giờ và không ở lại qua đêm với lý do kinh doanh, thăm viếng hay làm việc gì khác.
Chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa về khách du lịch như sau:
Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến
một nơi nào đó, quay trở lại với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm công và
nhận thù lao nơi đến, có thời gian lưu trú ở nơi đến từ 24 giờ trở lên(hoặc có sử
dụng dịch vụ lưu trú qua đêm) và không quá một khoảng thời gian quy định tuỳ từng
quốc gia.
Khách du lịch có thể chia làm các loại sau:
1.1.1.1. Khách du lịch quốc tế ( Internation Tourist )
Khách du lịch quốc tế là khách du lịch mà có điểm xuất phát và điểm đến
thuộc phạm vi lãnh thổ của 2 quốc gia khác nhau.
Khách du lịch quốc tế bao gồm 2 loại:
- Khách du lịch quốc tế đi vào ( Inbound Tourist )
Khách du lịch quốc tế đi vào là khách du lịch là người nước ngoài và người
của một quốc gia nào đó định cư ở nước ngoài vào quốc gia nào đó đi du lịch.


- Khách du lịch quốc tế đi ra (Outbound Tourist).
Khách du lịch quốc tế đi ra bao gồm những khách du lịch là công dân của một
quốc gia và những người nước ngoài đang cư trú tại quốc gia đó đi ra nước ngoài
du lịch.
1.1.1.2. Khách du lịch trong nước (Domestic Tourist).
Khách du lịch trong nước là tất cả những người đang đi du lịch trong phạm vi
lãnh thổ của một quốc gia.
1.1.1.3. Khách du lịch nội địa (Internal Tourist).
Khách du lịch nội địa là những công dân của một quốc gia và những người
nước ngoài đang định cư của quốc gia đó đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia đó.
1.1.1.4. Khách du lịch quốc gia (National Tourist).
Khách du lịch quốc gia là tất cả các công dân của một quốc gia nào đó
đi du lịch(kể cả đi du lịch trong nước và nước ngoài)
Ngoài ra người ta còn phân khách du lịch ra thành các loại như khách du lịch
công vụ, khách du lịch thương gia…
1.1.2. Kinh doanh lữ hành .
Để hiểu được kinh doanh lữ hành là gì chúng ta có thể tiếp cận theo hai cách
sau đây dựa trên những nội dung của hoạt động kinh doanh du lịch.
Thứ nhất: Hiểu theo nghĩa rộng thì lữ hành bao gồm tất cả những hoạt động di
chuyển của con người cũng như tất cả các hoạt động liên quan đến hoạt động di
chuyển đó.
Theo cách tiếp cận này thì kinh doanh lữ hành là việc tổ chức các hoạt động
nhằm cung cấp các dịch vụ được xắp đặt từ trước nhằm thoả mãn đúng các nhu cầu
của con người trong sự di chuyển đó để thu lợi nhuận.
Thứ hai: Đề cập phạm vi hẹp hơn nhiều. Để phân biệt hoạt động kinh doanh
du lịch trọn gói với các hoạt động kinh doanh du lịch khác như khách sạn, vui chơi
giải trí, người ta giới hạn hoạt động lữ hành chỉ bao gồm những hoạt động tổ chức
các chương trình du lịch trọn gói.
Theo cách tiế cận này thì có hai định nghĩa sau đây của Tổng cục Du Lịch

Việt Nam (TCDL- quy chế quản lý lữ hành ngày 29/4/1995).
- Định nghĩa về kinh doanh lữ hành.
Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các hoạt động
nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch chọn gói hay từng phần,
quảng cáo và bán chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc
văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện các chương trình và hướng dẫn du lịch nhằm
mục đích thu lợi nhuận.
- Định nghĩa về kinh doanh đại lý lữ hành
Kinh doanh đại lý lữ hành(Travel-Agency-Business) là việc thực hiện các dịch
vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu chú, vận chuyển, hướng dẫn tham quan, bán các
chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp các thông tin du lịch
và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng.
1.1.3. Công ty lữ hành.
Đã tồn tại rất nhiều khái niệm về công ty lữ hành xuất phát từ nhiều góc độ
nghiên cứu khác nhau về công ty lữ hành. Mặt khác bản thân hoạt du lịch nói
chung và hoạt động lữ hành nói riêng có nhiều biến đổi theo thời gian. Ở mỗi một
giai đoạn phát triển của hoạt động này luôn có những nội dung và hình thức mới.
Trong thời kỳ đầu tiên, các công ty lữ hành tập chung vào các hoạt động trung
gian, làm đại lý bán cho các nhà cung cấp như khách sạn, hãng hàng không …khi
đó các công ty lữ hành được định nghĩa như một pháp nhân kinh doanh chủ yếu
dưới hình thức là người đại diện, đại lý cho các nhà sản xuất( khách sạn, nhà hàng,
hãng ôtô tầu biển…) bán các sản phẩm đến tay người tiêu dùng với mục đích thu
tiền hoa hồng.
Khi đã phát triển ở mức độ cao hơn so với việc làm trung gian thuần thuý,
các công ty lữ hành đã tạo ra các sản phẩm bằng cách tập hợp các sản phẩm riêng
lẻ như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, ôtô, tầu thuỷ, các phương tiện khác và các
chuyến tham quan thành một chương trình du lịch hoàn chỉnh và bán cho khách
với mức giá gộp. Ở đây, công ty lữ hành không chỉ dừng lại ở người bán mà còn
trở thành người mua sản phẩm của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch.
Ở Việt Nam theo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị Định 09/CP của chính

phủ về tổ chức và quản lý Doanh nghiệp du lịch TCDL-số715/TCDL ngày
9/7/1994 đã định nghĩa công ty lữ hành như sau:
“Doanh nghiệp lữ hành là một đơn vị có tư cách pháp nhân, hạch toán độc
lập, được thành lập với mục đích sinh lời bằng việc giao dịch, ký kết hợp đồng du
lịch và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch”
Theo cách phân loại của Tổng Cục du lịch Việt Nam thì các công ty lữ hành
được phân ra thành hai loại: Công ty lữ hành quốc tế và công ty lữ hành nội địa
(Theo quy chế quản lý lữ hành TCDL ngày 29/4/1995).
♦ Công ty lữ hành quốc tế:
Có trách nhiệm xây dựng và bán các chương trình du lịch chọn gói hoặc
từng phần theo yêu cầu của khách để trực tiếp thu hút khách đến Việt Nam và đưa
công dân là người Việt Nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương trình du
lịch đã bán hoặc ký hợp đồng uỷ thác từng phần, trọn gói cho các công ty lữ hành
nội địa.
♦ Công ty lữ hành nội địa.
Là một doanh nghiệp có trách nhiệm xây dựng, bán và tổ chức thực hiện các
chương trình du lịch nội địa, nhận uỷ thác để thực hiện dịch vụ chương trình du
lịch cho khách nước ngoài đã được các doanh nghiệp quốc tế đưa vào Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay nhiều công ty lữ hành có phạm vi hoạt động rộng
lớn mang tính toàn cầu và trong hầu hết các lĩnh vực của hoạt động du lịch. Các
công ty lữ hành đồng thời sở hữu các tập đoàn khách sạn, các hãng hàng không,
tầu biển, ngân hàng phục vụ chủ yếu cho khách du lịch của công ty lữ hành. Kiểu
tổ chức nói trên rất phổ biến ở các nước Châu Âu, Châu á và trở thành những tập
đoàn du lịch có khả năng chi phối mạnh mẽ thị trường du lịch quốc tế.Trong giai
đoạn này, công ty lữ hành không chỉ là người bán, người mua mà còn trở thành
người sản xuất trực tiếp ra các sản phẩm dịch vụ du lịch. Từ đó có thể định nghĩa
về công ty lữ hành như sau:
Công ty lữ hành là một loại doanh nghiệp du lịch đặc biệt kinh doanh chủ yếu
trong việc tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chương trình du lịch trọn gói cho
khách du lịch. Ngoài ra công ty lữ hành còn có thể tiến hành các hoạt động trung

gian bán sản phẩm dịch vụ của các nhà cung cấp du lịch hoặc thực hiện các hoạt
động kinh doanh tổng hợp khác đảm bảo thực hiện phục vụ các nhu cầu của khách
du lịch từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.
1.1.4. Hệ thống sản phẩm của công ty lữ hành.
Sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh du lịch là nguyên nhân chủ yếu dẫn
tới sự phong phú và đa dạng của các sản phẩm mà công ty lữ hành tiến hành cung
ứng cho khách du lịch. Ngoài ra nhu cầu của con người khi đi du lịch là một nhu
cầu mang tính tổng hợp, ngày càng cao cấp hơn cũng làm cho sản phẩm của công
ty lữ hành ngày càng phong phú và đa dạng hơn.
Căn cứ vào tính chất và nội dung có thể chia các sản phẩm của công ty lữ
hành ra thành ba nhóm cơ bản sau:
1.1.4.1. Các dịch vụ trung gian.
Sản phẩm dịch vụ trung gian chủ yếu do các đại lý du lịch cung ứng. Các đại
lý lữ hành không trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ trung gian mà các đại
lý lữ hành chỉ hoạt động như là một đại lý bán hoặc một điểm bán sản phẩm của
các nhà cung cấp du lịch.
Các dịch vụ trung gian chủ yếu bao gồm:
- Đăng ký đặt chỗ và bán vé máy bay.
- Đăng ký đặt chỗ và bán vé trên các phương tiện giao thông khác như: tầu
thuỷ, ôtô…
- Mối giới cho thuê xe ôtô.
- Môi giới và bán bảo hiểm.
- Đăng ký đặt chỗ và bán các chương trình du lịch.
- Đăng ký đặt chỗ trong khách sạn.
- Các dịch vụ môi giới,8 dịch vụ trung gian khác.
1.1.4.2. Các chương trình du lịch trọn gói.
Kinh doanh các chương trình du lịch trọn gói là hoạt động cơ bản của công ty
lữ hành. Các Công ty lữ hành liên kết các sản phẩm của các nhà sản xuất riêng lẻ
thành một sản phẩm hoàn chỉnh và bán cho khách du lịch với mức giá gộp. Khi tổ
chức các chương trình du lịch trọn gói các công ty lữ hành có trách nhiệm đối với

khách du lịch và với nhà cung cấp sản phẩm ở mức độ cao hơn nhiều so với các
dịch vụ trung gian.
1.1.4.3. Các hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành tổng hợp.
Ngày nay các công ty lữ hành hoặc tập đoàn lớn thường hoạt động rất nhiều
lĩnh vực có liên quan đến du lịch. Họ không những là người bán, người mua các
sản phẩm dịch vụ của nhà cung cấp du lịch mà họ còn là người trực tiếp sản xuất ra
các sản phẩm du lịch.
Các hoạt động kinh doanh lữ hành tổng hợp trong du lịch bao gồm:
- Kinh doanh khách sạn nhà hàng.
- Kinh doanh các dịch vụ vui chơi giải trí.
- Kinh doanh vận chuyển du lịch.
- Các dịch vụ ngân hàng phục vụ khách du lịch.
Như vậy, hệ thống sản phẩm của công ty lữ hành rất phong phú và đa dạng.
Trong tương lai nó còn phong phú và đa dạng hơn do sự phát triển mạnh mẽ của
nhu cầu du lịch khi đời sống kinh tế xã hội ngày càng cao hơn.
1.2. CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY LỮ
HÀNH.
1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh.
Tại sao một số nước lại có sức cạnh tranh cao, còn số khác lại thất bại trong
cạnh tranh và tại sao một số doanh nghiệp thành công còn một số doanh nghiệp
khác lại không? Đây là câu hỏi mà nhiều nhà lãnh đạo đất nước và doanh nghiệp
thườnh đặt ra trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cạnh tranh đã và đang trở
thành vấn đề được quan tâm nhiều nhất của các cấp lãnh đạo quốc gia và doanh
nghiệp.
Khái niệm về cạnh tranh được định nghĩa như thế nào cho phù hợp và chính
xác nhất trong nền kinh tế hiện nay? Cho đến nay chưa có một khái niệm về cạnh
tranh của tổ chức hay cá nhân nào đưa ra mà được nhiều người chấp nhận rộng rãi.
Nguyên nhân chủ yếu là do thuật ngữ này được dùng để đánh giá cho tất cả các
doanh nghiệp hay quốc gia. Nhưng mục tiêu cơ bản lại đặt ra khác nhau phụ thuộc
vào sự xem xét trên góc độ của từng doanh nghiệp hay từng quốc gia. Trong khi

đối với doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở
cạnh tranh trên quốc gia hay quốc tế, thì đối với quốc gia mục tiêu này là nâng cao
mức sống và phúc lợi cho nhân dân.
Theo từ điển kinh tế của Nhà Xuất Bản Sự Thật Hà Nội năm 1979 trang 48 thì
“Cạnh tranh chính là cuộc đấu tranh giữa người sản xuất hàng hoá tư nhân nhằm
giành điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi hơn.” Hoặc “Cạnh tranh là cuộc đấu
tranh diễn ra nhằm giành thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu, khu vực đầu tư có
lợi nhằm giành địa vị thống trị trong một ngành sản xuất nào đó, trong nền kinh tế
đất nước hoặc trong hệ thống kinh tế thế giới.”
Theo diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) thì định nghĩa về cạnh tranh như sau “Cạnh tranh là khả
năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và
thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.”
Từ những định nghĩa trên về cạnh tranh ta có thể đưa ra một định nghĩa về
cạnh tranh của các công ty lữ hành như sau:
Cạnh tranh của các công ty lữ hành là cuộc đấu tranh giữa các công ty lữ
hành nhằm mục đích tranh dành thị trường mục tiêu, khách hàng, để tăng doanh
thu, lợi nhuận cao hơn.
1.2.2. Phân loại cạnh tranh.
Như trên đã nói việc phân loại cạnh tranh quốc gia và cạnh tranh doanh
nghiệp là rất khó. Việc phân loại chỉ mang tính chất tương đối, nhiều khi cạnh
tranh doanh nghiệp lại đồng nghĩa với cạnh tranh quốc gia.
1.2.2.1. Cạnh tranh quốc gia.
Theo Uỷ Ban canh tranh công nghiệp của Tổng Thống Mỹ sử dụng định
nghĩa cạnh tranh cho một quốc gia như sau: “Cạnh tranh của một quốc gia là mức
độ mà ở đó dưới những điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các
hàng hoá dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế đồng thời duy trì và
mở rộng được thu nhập thực tế nước đó”
Theo báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa về cạnh tranh của một quốc
gia như sau :” Cạnh tranh của một quốc gia là khả năng của nước đó đạt được

những thành quả nhanh và bền vững về mức sống. Nghĩa là đạt được tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao được xác định bằng cách thay đổi tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) trên đầu người theo thời gian.
1.2.2.2. Cạnh tranh doanh nghiệp.
Cũng giống như quốc gia các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế cũng
chịu sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp với nhau.
Cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể được định nghĩa như sau:
Cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó trong việc
tạo ra doanh thu và lợi nhuận cao hơn trong điều kiên cạnh tranh quốc gia và cạnh
tranh quốc tế.
1.2.2.3. Cạnh tranh sản phẩm.
Hiện nay, do nền kinh tế phát triển ngày càng nhiều sản phẩm mới được tung
ra thị trường và rất nhiều sản phẩm có thể thay thế nhau. Chính vì vậy, trên thị
trường còn xuất hiện sự cạnh tranh giữa các sản phẩm. Ta có thể định nghĩa cạnh
tranh sản phẩm như sau:
Cạnh tranh sản phẩm là việc các doanh nghiệp đưa ra thị trường các sản
phẩm cùng loại, có khả năng thay thế nhau.
Ở Việt Nam hiện nay, do điều kiện kinh tế chưa phát triển, các doanh nghiệp
chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ chưa có nhiều tập đoàn xuyên quốc gia. Chính vì
vậy, ở nước ta cạnh tranh doanh nghiệp đồng nghĩa với cạnh tranh quốc gia. Nghĩa
là khi quốc gia nâng cao được sức cạnh tranh của mình so với các quốc gia khác thì
doanh nghiệp mới có thể tạo ra những lợi thế cạnh tranh của mình.

×