Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH HÀ NAM GIAI ĐOẠN 1995- 1999

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.75 KB, 18 trang )

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH HÀ NAM GIAI ĐOẠN 1995- 1999
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA TỈNH HÀ NAM ẢNH
HƯỞNG ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ.
Đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới cơ cấu nền kinh tế nói chung và
cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam nói riêng. Chính vì vậy để nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà Nam
thì trước hết phải xem xét những thuận lợi và khó khăn do đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội đem lại.
1- Điều kiện tự nhiên.
Về vị trí địa lý, Hà Nam là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ, cách thủ đô Hà nội gần 60 km về phía nam,
tương lai sẽ trở thành thành phố vệ tinh của thủ đô. Tỉnh Hà nam có thuận lợi lớn vì nằm trên tuyến giao thông chính
quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Bắc- Nam. Trong tương lai khi tuyến hành lang kinh tế đường 21 nối Sơn Tây- Hoà
Lạc- Xuân Mai hình thành, cầu Yên Lệnh thông sang Hưng Yên, tuyến xa lộ Bắc Nam được xây dựng sẽ càng tạo
nhiều khả năng giao lưu hợp tác giữa Hà nam và các trung tâm kinh tế lớn trong cả nước. Không chỉ có lợi thế về
tuyến đường bộ, đường sắt, tỉnh Hà nam còn có một hệ thống đường thuỷ vô cùng tiện lợi. Các con sông lớn chảy
qua tỉnh bao gồm sông Hồng, sông Đáy, sông Châu và sông Nhuệ không những tạo thuận lợi cho giao thông đường
thuỷ mà còn đắc lực phục vụ tưới tiêu thuỷ lợi cho phát triển nông nghiệp.
Tỉnh Hà nam nằm giáp với các tỉnh Hà Tây ở phía Bắc, Hưng Yên, Thái Bình ở phía Đông, Nam Định ỏ phía
Đông Nam, Ninh Bình ở phía Nam và Hoà Bình ở phía Tây. Nhìn chung các tỉnh này có cầu rất lớn về xi măng, đá,
vật liệu xây dựng,... mà không có điều kiện sản xuất. Hà nam có thể đáp ứng và tận dụng thị trường rộng lớn này để
đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng của tỉnh nhà.
Hà nam nằm tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh. Tình hình đó đã
đặt Hà nam vào vị trí đối đầu và cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi tỉnh phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế để phát triển kinh tế sánh ngang với các tỉnh khác trong khu vực.
Về Địa hình, khí hậu, thuỷ văn, Tỉnh Hà nam có quy mô tương đối nhỏ với diện tích đất tự nhiên là 84.000
ha, có 6 đơn vị hành chính gồm 5 huyện là Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Lý Nhân, Bình Lục và một thị xã Phủ
Lý với 114 xã, phường, thị trấn.
Về cấu tạo địa hình, tỉnh Hà nam được chia thành hai vùng chính, vùng đồi núi phía Tây có nhiều đá vôi đầy
tiềm năng phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp hoá chất, bên cạnh đó vùng đồng bằng ven sông
Hồng và sông Châu có đất đai màu mỡ thích hợp với phát triển nền nông nghiệp đa dạng, phong phú, tạo điều kiện
cho công nghiệp phát triển.
Cũng như các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, Hà nam có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa.. Lượng mưa


trung bình mỗi năm từ 1.700 đến 2.200 mm. Nhiệt độ trung bình năm là 23 độ C, độ ẩm tương đối là 84%. Đây là
điều kiện thuận lợi cho phát triển các cây lương thực ngắn ngày cũng như dài ngày.
Hà nam có một quỹ đất khá đa dạng, là tiềm năng để phát triển sản xuất nông nghiệp cũng như để mở rộng
các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Với hệ thống bốn con sông chảy qua làm cho đất đai thêm màu mỡ
và tạo một nguồn nước dồi dào cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp và phục vụ đời sống dân cư.
Như vậy, với nguồn đất có độ phì trung bình, hai loại địa hình là đồng bằng và đồi núi tạo cho Hà nam có thể
bố trí được nhiều loại cây trồng thuộc nhóm cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rừng
đa tác dụng với hệ thống canh tác có tưới hoặc không tưới. Đây là điều kiện tốt để Hà nam có thể chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá phục vụ thị trường trong nước nhất là khu đô thị, khu công
nghiệp và xuất khẩu. Vùng đồi và ven quốc lộ tương đối thuận lợi cho bố trí phát triển công nghiệp, nhất là công
nghiệp vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, gia công xuất khẩu.
Về Tài nguyên, tài nguyên khoáng sản đặc biệt là nguồn đá vôi, sét được phân bố tập trung ở phía Tây sông
Đáy thuộc hai huyện Kim Bảng và Thanh Liêm rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất vật liệu xây dựng, nhất là
xi măng, đá, gạch.
Đá vôi có hàm lượng canxi từ 95-100% và đôlômit 0-5% dùng để sản xuất xi măng và sản xuất bột nhẹ, còn
đá vôi có hàm lượng ngược lại canxi từ 0-5% và đôlômit từ 95-100% dùng làm đá xây dựng, vật liệu độn hoặc để
sản xuất hoá chất manhê. Ngoài ra đá vôi còn là nguyên liệu để sản xuất ra đất đèn dùng trong công nghiệp khí hàn,
công nghiệp tổng hợp hữu cơ, sản xuất sợi vinylon.
Nguồn sét Hà nam được kiến tạo từ hai nguồn gốc là gốc trầm tích và gốc phong hoá. Sét gốc phong hoá là
loại sét tốt, được dùng làm phụ liệu cho sản xuất xi măng trong tỉnh. Sét gốc trầm tích dùng làm nguyên liệu sản
xuất gạch ngói.
Như vậy, Hà nam có nguồn đá vôi và sét đủ khả năng cho công nghiệp sản xuất xi măng với trữ lượng 3-5
triệu tấn/ năm trong nhiều năm. Chất lượng đá vôi và sét khá tốt lại phân bố gần trục giao thông, dễ khai thác, gần
nơi tiêu thụ lớn.
Ngoài ra, Hà nam còn có nguồn than bùn được phát hiện tại Tam Chúc, thuộc huyện Kim Bảng, có thể dùng
làm nguyên liệu sản xuất phân hữu cơ vi sinh.
Về Tài nguyên du lịch, Hà nam là một tỉnh có tài nguyên du lịch khá phong phú, cả về tài nguyên du lịch thiên
nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Hà nam có các di vật khảo cổ như trống đồng, công cụ bằng đồng, các tác
phẩm nghệ thuật, điêu khắc mang dấu ấn của thời đại lịch sử. Hà nam có đền Trần Thương ở Lý Nhân thờ Đức
Thánh Trần, đình thờ Lê Đại Hành ở Thanh Liêm, đền Lảnh ở Duy Tiên, chùa Bà Đanh, Ngũ Động Sơn ở Kim

Bảng, chùa Tiên, Kẽm Trống ở Thanh Liêm, đền thờ Nguyễn Khuyến ở Bình Lục, vườn tưởng niệm nhà văn Nam
Cao ở Lý Nhân,..Hơn nữa, Hà nam là một vùng quê giàu các lễ hội dân gian tuyền thống, với 56 lễ hội được tổ chức
trong năm trong đó có 20 lễ hội mang di tích lịch sử, 16 lễ hội mang tính tín ngưỡng và 20 lễ hội mang tính lễ tục
dân gian.
Các nguồn tài nguyên du lịch của Hà nam được phân bố tương đối tập trung lại nằm trong khu vực nối với
các vùng phụ cận như chùa Hương, Hoa Lư, Tam Cốc Bích Động, rừng quốc gia Cúc Phương, Hải Phòng, Quảng
Ninh,...đây là một điểm thuận lợi để hình thành những cụm du lịch lớn có sức thu hút khách cao.
Tóm lại, Hà nam có một điều kiện khá thuận lợi cả về vị trí địa lý, địa hình, thuỷ văn và tài nguyên để có thể
đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2- Đặc điểm kinh tế- xã hội.
Hà nam là một tỉnh mới được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1997. Với khoảng thời gian ngắn
lại phải trải qua nhiều khó khăn thử thách do mới chia tách, nhưng tỉnh đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nghị
quyết của Đảng bộ tỉnh về những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, tập trung khắc phục những khó khăn to lớn của một
tỉnh mới chia tách, góp phần làm cho tình hình kinh tế -xã hội của tỉnh có những chuyển biến tiến bộ trên một số mặt
và đang đi vào thế ổn định. Nền kinh tế tăng trưởng khá, GDP giao thời tách tỉnh 1996-1998 tăng bình quân
7,4%/năm ( cả nước tăng 8,5%/ năm trong cùng thời kỳ). Hiện nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Hà Nam là 14,34%
và dự kiến năm 2000 là 10,85%. GDP/người đã đạt 2.685 nghìn đồng/ người và dự kiến đến năm 2000 đạt 3.000
nghìn đồng/ người theo giá so sánh năm 1994.
Do nền kinh tế tăng trưởng khá, thực hiện tốt các chương trình xoá đói giảm nghèo, khuyến khích cá nhân và
gia đình sản xuất kinh doanh giỏi nên đời sống của các tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ hộ đói nghèo
giảm chỉ còn 11% năm 1999. Các chương trình văn hoá, giáo dục, y tế được triển khai góp phần quan trọng thúc
đẩy các mặt hoạt động xã hội phát triển lành mạnh. Hà nam là một tỉnh dẫn đầu về phổ cập giáo dục tiểu học, các cơ
sở y tế được nâng cấp, y tá, bác sỹ được bổ sung, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững và tăng
cường, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm.
Tuy nhiên nền kinh tế Hà nam vẫn còn mang tính thuần nông, nông nghiệp chiếm 44% GDP, công nghiệp địa
phương nhỏ bé, thương mại dịch vụ phát triển chậm, thu ngân sách mới đáp ứng được 40% chi, chưa có đầu tư nước
ngoài. Điều đó đặt ra cho Hà nam một thách thức đòi hỏi tỉnh phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
để có thể phát triển ngang với các tỉnh khác trong khu vực.
Về dân số và nguồn nhân lực, nguồn nhân lực được xem như là một lợi thế phát triển quan trọng. Quy mô và
tốc độ tăng của nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng dân số. Theo số liệu điều tra gần đây nhất, dân

số Hà nam năm 1999 đã là 791.614 người, trong đó dân số ở tuổi lao động là 426.673 người, chiếm 53,9% dân số
toàn tỉnh. Số lao động ở khu vực nông thôn là 380.890 người, chiếm 89,27% và ở thành thị là 45.783 người, chỉ
chiếm 10,73%. Là một tỉnh mà thu nhập còn nặng về nông nghiệp, cơ sở vật chất yếu kém, với nguồn lao động như
trên đang gây sức ép về việc làm và cải thiện đời sống. Mặt khác, lao động nông nghiệp có 287.253 người chiếm
xấp xỉ 70%, lao động công nghiệp và dịch vụ có 126.087 người chiếm 30%, trong đó số được đào tạo ngành nghề là
58.008 người, chiếm 13,5%, như vậy số lao động ở nông thôn thiếu việc làm đang đi đến các khu vực khác làm dịch
vụ là rất lớn, chiếm gần 20% lao động nông thôn. Ở nông thôn, thời gian nhàn rỗi còn nhiều mà cơ hội gia tăng việc
làm ở khu vực nông nghiệp hầu như không đáng kể, có chăng chỉ là rải rác ở những nơi có ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp, với tay nghề gia truyền là chính, không được đào tạo cơ bản. Hơn nữa, lao động trong nông nghiệp với trình
độ trang bị kỹ thuật còn lạc hậu, người lao động sử dụng cơ bắp và sức súc vật kéo là chính. Tất cả những điều đã đề
cập ở trên cho thấy trình độ lao động của tỉnh nói chung còn thấp, và thực tế Hà nam có nguồn lao động khá dồi dào
nhưng lao động phổ thông chưa được đào tạo nghề là phổ biến và thiếu lao động được đào tạo kỹ thuật, nhất là lao
động có kỹ thuật cao.
Trong thời gian tới để chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hà nam
phải nhanh chóng đào tạo đồng bộ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Về cơ sở vật chất, trình độ khoa học công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật nhìn chung còn yếu kém, các trang
thiết bị cũ và lạc hậu do đó khả năng áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất công nghiệp, nông nghiệp là rất hạn
chế.
Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, hệ thống đường giao thông, đường sắt, đường bộ được xây dựng từ lâu đến
nay qua sử dụng lâu dài chưa được đầu tư nâng cấp kịp thời nên chất lượng thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội. Hiện nay, hệ thống thuỷ lợi, đường giao thông liên huyện liên xã đang được đầu tư nâng cấp,
quá trình điện khí hoá nông thôn đang được đẩy mạnh.
II. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH HÀ
NAM GIAI ĐOẠN 1995-1999.
1- Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Hà nam giai đoạn 1995-1999.
Kinh tế Hà nam sau 3 năm tái lập đã có sự chuyển biến rõ nét. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm
thời kỳ 1995-1999 là 10,71%, cao hơn tốc độ tăng bình quân của cả nước(7,74%). Các số liệu dưới đây chứng tỏ
điều đó.
Biểu 1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà nam so với cả nước.
Đơn vị : %

Tốc độ tăng GDP 1995 1996 1997 1998 1999
Cả nước 9,94 9,34 8,80 5,80 4,80
Hà nam 20,0 4,0 9,15 9,06 11,34
Nguồn : Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Như vậy trong 3 năm 1997, 1998, 1999 tốc độ tăng trưởng GDP của Hà nam đều vượt cao hơn so với cả
nước, nhất là vào năm 1999.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế thì GDP bình quân đầu người cũng tăng khá: 2,77% năm 1996 7,97% năm
1997, 7,82% năm 1998 và 10,02% năm 1999, bình quân thời kỳ 1996-1999 mỗi năm tăng 7,1%, nếu tính giá thực tế thì
GDP bình quân đầu người thời kỳ 1995-1999 là 2223 nghìn đồng VN/ năm tương đương 158,8 USD.
Tuy GDP bình quân đầu người của Hà nam tăng qua các năm nhưng còn ở mức thấp, chỉ bằng 60% so với cả
nước và 57,7% so với vùng đồng bằng sông Hồng. Hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm qua cao, chủ yếu
là do nhà nước tập trung xây dựng khu trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh mới, đồng thời từ quý III năm 1998, công
ty xi măng Bút Sơn đã đi vào sản xuất, giá trị tăng thêm của công ty năm 1998 khoảng 24 tỷ đồng, năm 1999
khoảng 139 tỷ đồng. Nếu không tính đến phần giá trị tăng thêm này thì tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1998 và 1999
cuả tỉnh chỉ đạt khoảng 7% và 3,9%.
Trong thời gian qua, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam theo các hướng sau:
Đối với công nghiệp, đầu tư vào những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, tạo giá trị lớn, có thị trường tiêu
thụ và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Ưu tiên những ngành nghề khai thác được tiềm năng tài nguyên, tạo ra
nguyên liệu và sản phẩm phong phú, giải quyết được nhiều việc làm cho dân.
Đối với nông nghiệp, phát triển nông nghiệp trong khả năng cho phép đảm bảo an toàn lương thực và tạo cơ
sở nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Đối với dịch vụ, phát triển mạnh ngành thương mại, đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu của tỉnh, phát triển du lịch trên
cơ sở khai thác đồng thời phát triển những loại hình dịch vụ khác như tài chính ngân hàng, thông tin viễn thông, giao
thông vận tải,..
Cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, điện khí hoá nông thôn, thực hiện kiên cố hoá kênh mương,
nâng cấp hệ thống đường giao thông nông thôn, những tuyến giao thông huyết mạch của tỉnh, xây dựng các trụ sở
làm việc cho tỉnh mới tách, nâng cấp hệ thống thông tin bưu điện,... nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển
kinh tế của tỉnh.
Xuất phát từ định hướng trên, trong thời gian qua cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Hà nam cũng có những
chuyển biến tích cực và tiến bộ.

Thứ nhất trong cơ cấu ngành kinh tế theo GDP:
Biểu2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo GDP
thời kỳ 1995- 1999.
Đơn vị : %.
Ngành 1995 1996 1997 1998 1999
Tổng GDP 100 100 100 100 100
1. Công nghiệp
16,26 18,83 19,11 20,06 25,54
2. Nông nghiệp
52,64 49,58 48,29 48,04 44,03
3. Dịch vụ
31,10 31,59 32,60 31,90 30,43
Nguồn : Cục thống kê tỉnh Hà nam.
Tỷ trọng ngành công nghiệp tăng đáng kể qua các năm từ 16,26% năm 1995 lên 25,54% năm 1999 và dự
kiến đạt khoảng 26,7% vào năm 2000. Như vậy có thể thấy rằng ngành công nghiệp ngày càng phát huy hơn nữa vai
trò đầu tàu của mình để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá của tỉnh, nổi bật lên trong công nghiệp là sự tăng nhanh
của công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, với tỷ trọng 25,54%
trong cơ cấu GDP thì công nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ và cần phải được nâng lên trong thời gian tới để giữ
vị trí chủ đạo trong nền kinh tế của tỉnh.
Tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm tương đối trong giai đoạn 1995-1999 từ 52,64% vào năm 1995 xuống
còn 44,03% vào năm 1999, đây cũng là xu thế tất yếu của quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá, tạo tiền đề cho
việc phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy vậy, với tỷ trọng 44,03% thì nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng
khá cao, gây trở ngại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của tỉnh.
Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP giai đoạn 1995-1999 có sự thay đổi không đáng kể từ 31,1%
năm 1995 xuống còn 30,43% năm 1999. Điều này không có nghĩa là ngành này không tăng trưởng, trái lại GDP của
ngành này liên tục tăng mạnh qua các năm nhất là hoạt động thương mại và các dịch vụ vận tải, khách sạn nhà hàng,
bưu chính viễn thông,...Bởi vì cùng với sự đi lên của các ngành công nghiệp thì các ngành thuộc khối dịch vụ cũng
có bước phát triển theo và nó sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Tóm lại, cơ cấu tổng sản phẩm trong tỉnh thời kỳ 1995-1999 có sự chuyển dịch theo xu hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Sau 5 năm tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng

8,61% . Đây là xu hướng tích cực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy vậy, cơ cấu ngành kinh tế của
tỉnh Hà nam năm 1999 vẫn là cơ cấu Nông nghiệp- Công nghiệp- Dịch vụ.
Thứ hai, trong cơ cấu ngành kinh tế theo vốn đầu tư.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trên lãnh thổ tỉnh phần lớn là nguồn vốn tín dụng, bình quân thời kỳ
1995-1999 là 59,2% tổng vốn đầu tư. Số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ, bình quân cả thời
kỳ 1995-1999 khoảng 20,8% tổng vốn đầu tư. Phần vốn do dân đóng góp chiếm 15,7%.
Việc huy động và sử dụng vốn qua các năm tương đối phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh. Nguồn vốn từ ngân sách và nhân dân đóng góp chủ yếu sử dụng vào việc cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết
cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải, bưu điện thông tin, thuỷ lợi, các công trình phúc lợi công cộng, trụ sở làm
việc, các sở ban ngành...Nguồn vốn tín dụng chủ yếu đầu tư vào khu vực sản xuất công nghiệp, xây dựng.
Vốn đầu tư là yếu tố hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nó đảm bảo cho khai thác lợi thế áp dụng khoa
học kỹ thuật, đổi mới thiết bị công nghệ. Đi liền với sự chuyển dịch cơ cấu ngành thì cơ cấu vốn đầu tư cũng có sự
thay đổi tương ứng.
Biểu 3. Thực trạng cơ cấu vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Hà nam
giai đoạn 1995-1999.
Đơn vị : %.
1995 1996 1997 1998 1999 Tỷ trọng BQ 95-99
Tổng vốn đầu tư 100 100 100 100 100 100
1.Công nghiệp 62,11 69,48 69,46 70,54 47,23 63,76

×