Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ DỂ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THÔNG QUA CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.51 KB, 20 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ DỂ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
THANH TOÁN QUỐC TẾ THÔNG QUA CÁC PHƯƠNG THỨC THANH
TOÁN QUỐC TẾ HIỆN NAY.
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
NHTHCP. PHƯƠNG NAM
* ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHUNG TRONG TOÀN HỆ THỐNG CỦA
NGÂN HÀNG CỔ PHẦN PHƯƠNG NAM.
. Định hướng hoạt động chung của chi nhánh:
-Mức doanh số thanh toán quốc tế đạt: 20 triệu USD
-Mức tăng huy động vốn: 20-22%.
-Mức tăng trưởng dư nợ tín dụng: 15-16%.
. Giải pháp cơ bản của chi nhánh Ngân hàng Hà nội cho thanh toán quốc
tế trong ngoại thương.
-Ngân hàng cần phải đảm bảo rằng các ngân hàng tham gia vào hệ thống
thanh toán phải lành mạnh về mặt tài chính. Điều này có thể thực hiện thông qua
các quy định phù hợp về điều kiện tham gia hệ thống thanh toán đối với Hội sở
chính của Ngân hàng.
-Tư cách người giám sát hệ thống thanh toán, Hội sở chính của Ngân hàng
cần đảm bảo rằng bất kỳ rủi ro có liên quan đến hệ thống thanh toán nào đều
được kiểm soát chặt chẽ,về hệ thống thanh toán phải hoạt động một cách an
toàn.
-Đẩy mạnh việc thanh toán bằng (L/C), tiền điện tử… các phương tiện có
tính ưu việt, mang lại hiệu quả cho việc trao đổi và đầu tư.
-Tăng cường cơ sở pháp lý, mở rộng quan hệ tín dụng thanh toán giữa các
hệ thống liên Ngân hàng đa quốc gia.
-Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ lành nghề về nghiệp vụ thanh toán qua
Ngân hàng để tránh rủi ro không hiểu biết.
Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu chiến lược giai đoạn 2001-
2005 và cụ thể năm 2002 của Hội sở chính chỉ đạo, chi nhánh Ngân hàng TMCP
Phương Nam Hà Nội đã có những bước đi cụ thể của mình.


II GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
2.1
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
Tăng các dịch vụ thanh toán quốc tế đặc biệt hoàn thiện thêm về phương
thức thanh toán L/C nên:
-
Tăng nguồn ngoại tệ
-
Giảm các biểu phí (Lệ phí và điện phí)
-
Tăng hệ thống khách hàng.
-
Mở rộng quan hệ khách hàng.
-
Tham gia hệ thống thanh toán SWIFT để tiện giao dịch.
-
Rút ngắn thời gian thụ lý hồ sơ.
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CHI NHÁNH NGÂN
HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM - HÀ NỘI.
Giải pháp mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu là một trong các giải pháp tốt
nhất để gián tiếp thúc đẩy vàphát triển dịch vụ thanh toán quốc tế. Do đó, chi
nhánh cần phải:
2.2.1 TĂNG TỔNG DƯ NỢ CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU.
Ta thấy tình hình nợ quá hạn, khó đòi đối với cho vay xuất nhập khẩu là
không đáng kể. Cho nên để tăng dư nợ cho vay xuất nhập khẩu chúng ta cần tập
trung vào quy trình, nghiệp vụ tốc độ của công tác cho vay.
Cần tách hẳn cho vay xuất nhập khẩu sang phòng kinh doanh ngoại tệ để
luôn luôn chủ động trong công tác ra quyết định cho vay. Hai phòng kinh doanh
phải liên kết chặt chẽ hơn để có thể đồng bộ trong việc ra quyết định, đồng thời

giảm thời gian làm hồ sơ cho khách hàng.
Hiện nay, khi một khách hàng đến ngân hàng xin vay bằng nội tệ để nhập
hàng, cần phải chuyển nội tệ đó sang ngoại tệ. Đầu tiên khách hàng phải làm
việc với phòng kinh doanh nội tệ để làm hồ sơ nhận nợ, sau đó lại phải sang
phòng kinh doanh đối ngoại để làm thủ tục mua bán ngoại tệ và nếu khách hàng
có nhu cầu chuyển lượng tiền đó để thanh toán thì lại mất công làm những hồ sơ
khác nữa, chính vì vậy đã gây khó khăn cản trở rất mất thời gian. Thường thì cán
bộ tín dụng của hai phòng tự đi lại để làm hồ sơ thủ tục nhưng vẫn mất thời gian,
mất chủ động và gây cho khách hàng cảm tưởng về sự không đồng nhất của
ngân hàng. Vấn đề này cần được xem xét để có những hướng giải quyết cụ thể.
Bằng cách chuyển hẳn mảng ngoại tệ sang phòng kinh doanh đối ngoại. Phòng
này sẽ chủ động hơn nguồn ngoại tệ vào ra của ngân hàng.
Tuy nhiên chưa có dư nợ nhưng không có nghĩa là không phát sinh nên
trong thời gian tới chúng ta luôn phải chú trọng đến chất lượng của khoản vay
mới để đảm bảo đó là những món vay tốt trong thời gian tới. Khi ngân hàng cho
vay, ngân hàng cần nghĩ đến trường hợp khách hàng trả nợ đúng hạn và đủ về số
lượng hơn là việc ỷ lại khách hàng đã có tài sản thế chấp và chỉ cần phát mại là
có thể thu được đủ vốn và lãi. Cách nghĩ đó là tiêu cực, cần phải xoá bỏ, chỉ có
vậy cán bộ tín dụng mới tích cực trong công việc của mình ngay từ những khâu
đầu tiên, thẩm định dự án.
Hiện nay chúng ta còn chịu quá nhiều luật lệ quy định về hồ sơ vay nợ và
ngày càng được quy định rõ ràng hơn trong những năm gần đây. Điều đó là hợp
lý để có được bộ hồ sơ có tính bảo đảm chắc chắn. Nhưng hiện nay chưa có sự
đồng bộ giữa các ngành. Trong trường hợp khách hàng là hộ cá thể thế chấp
bằng nhà ở yêu cầu phải có sổ đỏ, nhưng khu nhà đó chưa được các cấp có thẩm
quyền cấp sổ đỏ. Hoặc nếu khách hàng là đơn vị kinh doanh thuộc bộ quốc
phòng thì bất động sản thế chấp đó phải được sự đồng ý của bộ quốc phòng...
Chính sự không đồng bộ đó đã gây khó khăn các doanh nghiệp khi đến vay, đặc
biệt là các công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty tư nhân có năng lực nhưng
không thể vay nợ từ ngân hàng. Đồng thời chúng ta còn có tư tưởng là các đơn

vị này thường làm ăn không hiệu quả do đó cần xem xét kỹ hơn những hồ sơ hay
dự án khả thi mà họ trình nộp.
Trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng cần tính toán để có những quyết
định chính xác khi đồng ý cho vay. Ở đây xin nói về việc ra quyết định về kỳ
hạn của món vay. Thường thì khách hàng đề nghị về thời hạn cũng như giá trị
của món vay và ngân hàng chấp nhận trên những đề nghị đó. Cần có những
phương pháp được toán hoá để có thể tính toán được những chỉ tiêu này một các
cụ thể.
Về thời hạn: chúng ta có thể căn cứ vào thời gian của một chu kỳ sản xuất
đối với cho vay nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hay vay để sản xuất
hàng xuất khẩu. Đối với vay nhập khẩu hàng hoá để bán lại trên thị trường có thể
căn cứ vào thời gian sống của sản phẩm, các hàng hoá có chu kỳ sống ngắn như
các loại bánh kẹo, lương thực, đường sữa, hàng tươi sồng. Không thể cho vay 6
thàng đối với việc nhập khẩu hoa quả tươi vì nếu họ đã không trả được thì có
nghĩa họ mãi mãi không trả được vì hàng hoá đã bị hỏng không có khả năng thu
hồi trên số hàng nhập khẩu nữa.
Hiện nay để xác định thời gian cho một khoản vay, cán bộ tín dụng cắn cứ
vào nhiều chỉ tiêu, ở đây xin bàn về chỉ sổ vòng quay vốn lưu động của khách
hàng, chỉ số này được tính như sau:
Vòng quay vốn lưu động =
Doanh thu chưa tính thuế giá trị đầu kỳ + giá trị cuối kỳ Tài sản lưu động trung
bình
Tài sản lưu động trung bình của khách
hàng =
2
Như vậy chỉ số này thiếu chính xác và sẽ kém hợp lý khi dùng làm căn cứ.
Có những hợp đồng cho kết quả là 1,5 vòng trong 6 tháng thì có nghĩa là thời
hạn 6 tháng là quá dài. Đúng ra chỉ cần 4 tháng đã kết thúc một chu kỳ kinh
doanh, nếu để đến hết thời hạn 6 tháng không đúng thời hạn hết một chu kỳ tìi
khả năng thu hồi vốn khó hơn vì vốn lại đang nằm trong chu kỳ sản xuất.

Hiện nay, Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội cho phép mở rộng thời
hạn cho vay so với tình toán, nhưng lại không cho biết được phép mở rộng bao
nhiêu, khiến cho việc xác định thời hạn vay nợ trở nên tuỳ tiện, ngân hàng
thường đồng ý với những tính toán đề xuất của khách hàng.
Đồng thời, như trong “quy trình nghiệp vụ cho vay” của Ngân hàng TMCP
Phương Nam Hà nội đặt ra rất nhiều các chỉ tiêu phản ánh các mặt hoạt động của
doanh nghiệp. Tuy nhiên khi thẩm định dự án, cán bộ tín dụng thường không
tính toán hết các chỉ tiêu đó, chỉ tính toán một số chỉ tiêu thông thường. Thiết
nghĩ, tất cả những chỉ tiêu đó đều có những quan hệ nào đó tới tình hình tài
chính của doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá chính xác hơn tình hình của
doanh nghiệp. Do đó, đề nghị cán bộ tín dụng thực hiện đúng quy trình nghiệp
vụ đã quy định.
Các khoản vay xuất nhập khẩu của ngân hàng thường là trung và dài hạn
(trên 12 tháng). Mà các đơn vị vay ngân hàng hiện nay chủ yếu là các đơn vị
nhập khẩu nguyên vật liệu về để sản xuất, lại có thời hạn ngắn. Do đó cần rút
ngắn thời gian vay, cho vay dưới hình thức luân chuyển, vay theo hạn mức tối đa
là 6 tháng. Sau thời gian đó sẽ tiến hành thẩm định lại, quyết định lại về thời hạn
lãi suất cũng như hạn mức. Như chúng ta đã biết, nhiều món vay ngắn hạn gộp
lại thành một món vay dài hạn. Hình thức này có lợi cho cả đôi bên vì ngân hàng
thì tăng tính thanh khoản, quản lý vốn dễ dàng và tránh rủi ro cao hơn. Doanh
nghiệp thì được hưởng từ mức lãi suất ngắn hạn thấp đồng thời chỉ chịu trên số
phát sinh, không phải trên cả hạn mức một món như trước đây mặc dù chưa
dùng đến. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này giữa ngân hàng và khách hàng
phải có mối quan hệ tín nhiệm tin tưởng lẫn nhau bởi vì hạn mức ngân hàng đưa
ra thường ứng với mức cầu về vốn lớn nhất của khách hàng còn khách hàng thì
có thể sẽ rơi vào tình trạng bị ngân hàng từ chối cấp vốn khi thực sự cần đến
vốn.
Một cách để nâng cao doanh số dư nợ xuất nhẩp khẩu nữa đó là tăng các
giao dịch thanh toán cho khách hàng, đặc biệt là thanh toán bằng thư tín dụng.
Bằng hình thức này ngân hàng nhận mở thư tín dụng cho khách hàng dưới dạng

ký quỹ hoặc cho vay ký quỹ hoặc cho vay để thanh toán đúng theo hợp đồng.
Hình thức tín dụng này có hiệu quả vì thời gian vay nợ ngắn, khả năng trả nợ của
khách hàng cũng cao vì còn nhiều ràng buộc về mặt pháp luận hơn. Hơn nữa ở
nước ta hiện nay, hay hẹp hơn là ở Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội thì
cho vay để mở thư tín dụng có ký quỹ để phục vụ xuất nhập khẩu tương đối lớn
do đó cần tăng cường hoạt động này.
Để bảo đảm chất lượng của các khoản vay nợ này chúng ta cũng cần có
những quy định cụ thể về tỷ lệ trích lập quỹ xử lý rủi ro. Đối với cho vay xuất
nhập khẩu, ngoài các loại rủi ro thương gặp trong hoạt động cho vay như rủi ro
tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất.... thì cho vay xuất nhập khẩu còn
phải đối mặt với rủi ro hối đoái – rủi ro do biến động tỷ giá ngoại tệ. Rủi ro ở
đây thường là khi nhận nợ bằng nội tệ rồi chuyển sang ngoại tệ, nhưng đến khi
khách hàng hoàn trả bằng nội tệ, vì giá ngoại tệ tăng đối với nội tệ nên với số
tiền đó không thể chuyển sang lượng ngoại tệ như trước đây, như vậy là ngân
hàng đã bị lỗ. Mặc dù biến động tỷ giá thường nhỏ trên mối đơn vị tiền tệ, nhưng
vì xuất nhập khẩu thường với giá trị lớn nên khi xẩy ra rủi ro thì cũng rất lớn, do
đó cần một quỹ để xử lý riêng cho loại rủi ro này. Điều này càng cần thiết đối
với các ngân hàng của Việt Nam vì VNĐ là một đồng tiền yếu, chịu tác động của
các ngoại tệ mạnh khác, đặc biệt là USD, và gần đây là ECU .
Nói tóm lại, trong các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với xuất nhập
khẩu thì việc tập trung vào nâng cao tổng dư nợ là một biện pháp trực tiếp nhưng
không hiệu quả bằng các biện pháp gián tiếp dưới đây.
2.2.2. Chủ động tìm bạn hàng
Như chúng ta thấy, khách hàng của TMCP Phương Nam Hà nội rất ít và
kém đa dạng, chủ yếu là các đơn vị quốc doanh. Do đó việc đa dạng hoá khách
hàng là rất cần thiết nhằm giảm bớt rủi ro.
Thực tế, hiện nay đối với quốc doanh không có rủi ro là vì các đơn vị đang
còn được Nhà Nước đỡ đầu, trợ giá... thực tế cũng có những đơn vị kinh doanh
không có hiệu quả bằng một số đơn vị ngoài quốc doanh khác, cho nên đến khi
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước sẽ có những khó khăn phát sinh và tình

hình trả nợ sẽ không thể như trước được.
Mở rộng khách hàng, vươn tới các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Đây
chính là khu vực có tiềm năng nhất đối với lĩnh vực cho vay xuất nhập khẩu.
Hiện nay khu vực này thường tập trung vào các ngân hàng nước ngoài do họ áp
dụng một cơ chế thoáng hơn, và thực tế là khả năng về ngoại tệ của họ là cao
hơn.
Khi đến với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu cán bộ tín dụng phải
chứng tỏ được ngân hàng có thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu của khách hàng
từ cho vay theo nhiều hình thức khác nhau, thanh toán với tất cả các đối tác của
khách hàng ở mọi nước, lập hợp đồng, tư vấn về hình thức vay nợ thanh toán, trợ
giúp tính toán hiệu quả của dự án......
Mở rộng hơn nữa địa bàn hoạt động của ngân hàng, nghĩa là có thêm nhiều
khách hàng ở các địa bàn khác nhau, có thêm nhiều khách hàng ở các lĩnh vực
ngành nghề kinh doanh. Đối với đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu thì mở rộng
cho vay đối với các đơn vị sản xuất các mặt hàng khác ngoài các mặt hàng thế
mạnh từ trước đến nay.
Nâng cao tính cạnh tranh của ngân hàng bằng việc cải tiến kỹ thuật công
nghệ, chế độ lãi suất, thái độ phục vụ.... Trong lĩnh vực cho vay xuất nhập khẩu,
yêu cầu về tốc độ là rất cao, ngoài ra còn cần độ chính xác để tránh những tranh
chấp về hợp đồng do hiểu lầm giữa các đối tác ở hai quốc gia khác nhau.
Thực hiện chiến lược khách hàng, quan tâm cả đến thái độ của cán bộ tín
dụng, lời nói cử chỉ thái độ hành động. Tạo cho khách hàng một sự thoải mải
trong vay nợ, tránh tình trạng là khách hàng đi vay nhưng lại có cảm giác như
chịu ơn từ ngân hàng, từ cán bộ tín dụng trực tiếp làm việc. Ngược lại ngân hàng
cần khách hàng, thêm một khách hàng là thêm thu nhập cho ngân hàng cho từng
cá nhân trong ngân hàng.

×