Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRUNG VA DÀI HẠN TẠI NHN0 PTNT HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.12 KB, 7 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRUNG VA DÀI HẠN
TẠI NHN
0
PTNT HÀ NỘI
3.1 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ
ÁN ĐẦU TƯ TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NHN
0
& PTNT HÀ NỘI
Trong chương 2 qua việc xem xét tình hình hoạtđộng kinh doanh của NHN
0
& PTNT Hà nội, chúng ta thấy vai trò của công tác thẩm định dự án đầu tư trung
và dài hạn. Để đảm bảo trong công tác thẩm định và hạn chế những rủi ro cho
Ngân hàng cần phải có những giải pháp sau để giảm bớt những tồn tại cần giải
quyết.

* Khai thác sử dụng các thông tin trong quá trình thẩm định tránh tình
trạng thông tin một chiều.
Các nguồn thông tin số liệu về dự án đầu tư của doanh nghiệp xin vay vốn
rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn về việc xác định hiệu quả của dự án. Tuy vậy,
Ngân hàng được các Doanh nghiệp cung cấp các thông tin về tình hình hoạt đông
của mình hay nói cách khác, Ngân hàng thụ động trong việc cung cấp các nguồn
thông tin này. Do đó, để đứng về thế chủ động, Ngân hàng phải tự mình tìm kiếm,
khai thác các thông tin.
- Lấy thông tin bằng cách điều tra trực tiếp Doanh nghiệp vay vốn.
Đây là hình thức lấy thông tin cần thiết từ phía khách hàng. Mục đích của
phỏng vấn trực tiếp với khách hàng là để quan sát thái độ, phương pháp và nội
dung trả lời của khách hàng để phát hiện ra những mâu thuẫn và những vấn đề
không nhất quán hoặc không trung thực giữa hồ sơ vay vốn và nội dung trả lời
phỏng vấn. Bên cạnh việc kiểm tra lại thông tin mà khách hàng cung cấp, cán bộ
tín dụng còn phải phỏng vấn khách hàng để khách hàng giải trình những điểm chưa


rõ ràng hoặc còn mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Để làm được điều này cán bộ tín dụng phải chuẩn bị trước những câu hỏi
mình cần phỏng vấn, chi tiết những nội dung gì và sắp xếp theo một trình tự hợp
lý. Thông thường cán bộ tín dụng sẽ hỏi lướt qua nhưng vấn đề như :Tên doanh
nghiệp, chủ sở hữu của doanh nghiệp, thời gian thành lập doanh nghiệp, doanh
nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực gì, trình độ của các cán bộ công nhân viên
của doanh nghiệp... Còn các thông tin về tình hình tài chính của công ty thường ít
khi được giải trình đầy đủ, do đó cán bộ tín dụng cần phải phỏng vấn chi tiết:
Doanh nghiệp sẽ dùng những nguồn thu nào để trả nợ cho Ngân hàng, nếu gặp rủi
ro thì ngoài nguồn thu trên doanh nghiệp sẽ dùng nguồn nào để trả nợ cho Ngân
hàng và những khó khăn thuận lợi khi thực hiẹn phương án, đã có các biện pháp gì
khắc phục, hạn chế rủi ro. Để thu được kết quả cao từ cuộc phỏng vấn này thì cán
bộ tín dụng phải cởi mở, tạo ra bầu không khí thoải mái và quan trọng nhất là nghệ
thuật đặt câu hỏi để khuyến khích được khách hàng nói chuyện, từ đó khai thác
được những thông tin cần thiết.
- Thu thập thông tin từ bên ngoài.
Ngoài những thông tin có được từ phía doanh nghiệp xin vay cung cấp, cán
bộ tín dụng còn cần thu thập các thông tin cần thiết từ các nguồn bên ngoài như từ
cơ quan quản lý kinh tế, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật, các văn bản, tài liệu...
Các công ty kiểm toán có thể cung cấp những số liệu chính xác về hoạt động tài
chính của doanh nghiệp, các Ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với khách hàng sẽ
giúp cán bộ tín dụng biết được tình hình vay nợ của doanh nghiệp ra sao, có hoàn
trả được các tổ chức tín dụng đầy đủ và đúng hạn không; Trung tâm thông tin rủi
ro của Ngân hàng nhà nước có thể cung cấp thông tin về tình hình huy động đầu tư
cho vay, những thay đổi về chính sách kinh tế, những biến động về thị trường... Để
từ đó đánh giá xem nó ảnh hưởng như thế nào đến dự án.
Ngoài ra cán bộ tín dụng của Ngân hàng phải tự điều tra thu thập thông tin
trên thị trường như: dư luận của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, dư luận
của xã hội, báo chí, ý kiến của khách hàng có quan hệ mua bán với khách hàng
mua bán; tiến hành điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của

người vay vốn để trực tiếp đánh giá khả năng, hiệu quả quản lý, trình độ kỹ thuật,
chất lượng và uy tín sản phẩm; các hình thái hiện vật và chất lượng của tài sản cố
định, sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp.
Việc thu thập thông tin từ bên ngoài đòi hỏi khá nhiều thời gian và chi phí
nhưng để nâng cao chất lượng của thẩm đinh dự án đầu tư của NHN
0
& PTNT Hà
nội thì việc thu thập này rất thiết thực vì các nguồn thông tin này đa dạng và khách
quan.
Tóm lại thông tin là vấn đề quyết định quan trọng đến chất lượng công tác
thẩm định. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay, các điều kiện của nền kinh tế nhiều
khi đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của người vay, của cán bộ tín dụng cũng như
Ngân hàng. Do đó cán bộ thẩm định hay cán bộ tín dụng phải là những người có
khả năng dự đoán kinh tế thì mới có thể thu thập được thông tin liên tục về giá cả,
những biến động của thị trường trong nước cũng như ngoài nước về nghành, lĩnh
vực sắp thẩm định, dự án có phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội hay không... để từ đó nguồn vốn đầu tư sử dụng có hiệu quả và đúng định
hướng và như vậy, để nâng cao chất lượng công tác thẩm định không thể tách rời
với nâng cao chất lượng thông tin. Muốn chất lượng thông tin được nâng lên, các
số liệu sử dụng được chính xác, cán bộ tín dụng phải tận dụng triệt để các nguồn có
khả năng cung cấp chúng. Có như vậy số liệu thu được mới mang tính khách quan,
không bị bóp méo vì mục đích của doanh nghiệp xin vay vốn.
* Cán bộ tín dụng phải thẩm định quyền sở hữu của các tài sản thế chấp.
Trong quá trình xác định quyền sở hữu các tài sản làm vật thế chấp bảo đảm
cho các khoản vay, các cán bộ kỹ thuật cần chú ý:
- Tài sản thế chấp phải có đầy đủ tính pháp lý và phải chứng minh được nó là sở
hữu hợp pháp của người vay (đối với đất đai là quyền sử dụng đất).
- Tài sản thế chấp phải không thuộc đối tượng pháp luật cấm mua bán, chuyển
nhượng hoặc đang có tính tranh chấp hoặc đang được thế chấp của Ngân hàng
khác.

- Ngân hàng phải nắm giữ các giấy tờ gốc, chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp của
tài sản thế chấp. Trong trường hợp tài sản thế chấp thuộc đồng sở hữu của nhiều
người thì khi thế chấp phải có sự nhất trí bằng văn bản của tất cả các đồng sở hữu.
- Các cán bộ tín dụng phải kiểm tra chất lượng của tài sản thế chấp, khả năng dự
trữ lâu dài của tài sản, đồng thời phải căn cứ vào cung cầu về tài sản đó trên thị
trường tại thời điểm hiện tại cũng như xu hướng trong tương lai để tránh tình trạng
giảm giá tài sản thế chấp trên thị trường.
- Việc đánh giá tài sản tài chính thường rất khó khăn vì phần lớn các tài sản đã
dùng rồi, khó xác định giá trị còn lại của chúng. Trong trường hợp cụ thể Ngân
hàng sẽ đưa ra quyết định tự đánh giá hay nhờ các chuyên gia về lĩnh vực này.
* Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định dự án đầu

Có thể nói rằng trình độ năng lực của cán bộ tín dụng là một trong những
yếu tố quan trọng nhất định ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư.Do
đó, ngân hàng phải luôn có chính sách đào tạo để nâng cao trình độ của đội ngũ
cán bộ công nhân viên ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng để cán bộ
tín dụng bắt kịp với sự xu thế phát triển của kinh tế thị trường. Từ đó nâng cao chất
lượng công tác thẩm định dự án, nhất là các dự án có vốn đầu tư lớn và kỹ thuật
phức tạp.
Trong thực tế, các dự án đầu tư đều thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà cán
bộ tín dụng không thể có được một hệ thống các kiến thức toàn diện để có thể phân
tích, đánh giá tất cả các dự án được, vì các cán bộ tín dụng chỉ được học kỹ về cách
tính toán các chỉ tiêu tài chính, còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá hiệu quả
dự án đối với toàn xã hội và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến kỹ thuật,rất ít khi
được đề cập mà trên thực tế quá trình thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi cán bộ tín
dụng phải vận dụng cả kiến thức ở trình độ tổng hợp về kinh tế pháp luật (trong và
ngoài nước ), về công nghệ, kỹ thuật, sản xuất kinh doanh, về thông tin thị trường,
kiến thức về quản lý tài chính - tín dụng, ngoại hối và thanh toán quốc tế, hải quan,
bảo hiểm, kiểm định, giám định có liên quan đến các phương diện của dự án.Để
làm được việc này, ngân hàng cần thường xuyên đào tạo lại cán bộ tín dụng, mở

các cuộc kiểm tra trình độ cán bộ một cách thường xuyên, tổ chức các buổi trao đổi
kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng và các ngân hàng khác,tìm các nguồn tài liệu
tham khảo của nước ngoài... Đây là những cách thức không mấy khó khăn, hoàn
toàn nắm trong khả năng thực hiện của ngân hàng.
4.Đối với các dự án lớn, có vốn đầu tư lớn,kỹ thuật phức tạp.liên quan đến nghiều
ngành, nhiều lính vực khác nhau thì ngân hàng không nên phân tích,đánh giá một
mình mà nên mời các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực đó và đặc biệt trong vấn
đề thẩm định dự án.Như vậy,Ngân hàng sẽ hạn chế được những hạn chế rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của mình.
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH
DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRUNG VÀ DÀI HẠN.
Hầu hết các lĩnh vực của kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, giáo dục....đều bị
ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống chính sách của Nhà nước.Vậy mà nước ta mới
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước cho nên các chính sách của Nhà nước chưa thể ổn định và
hoàn thiện, phải thường xuyên thay đổi.Và một sự thay đổi dù nhỏ hay lớn trong
các chính sách của Nhà nước thì ngay lập tức tác động đến toàn xã hội.Công tác
thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn của Ngân hàng cũng không ngoại lệ, nó
luôn bị chi phối bởi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước,ở các nước khác
nhau.Trong khuôn khổ chuyên đề này em đưa ra một số kiến nghị sau để nâng cao
chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn.Em hy vọng rằng những kiến
nghị đó sẽ góp phần giúp NHN
0
& PTNT Hà nội nâng cao chất lượng thẩm định
trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế cũng như quá trình phát triển nền kinh tế của
đất nước.
* Cần phải chỉ đạo các Doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện các chế độ kế
toán, thống kê theo đúng quy định của Nhà nước.
Hiện nay, để vay được vốn của Ngân hàng các Doanh nghiệp thường xuyên
phải đưa ra các bản báo cáo về tình hình tài chính không chính xác làm ảnh hưởng

đến chất lượng thẩm định.Do đó, để khắc phục tình trạng này Nhà nước phải có
chế độ thưởng, phạt thích hợp đối với các Doanh nghiệp lập 2 bản cân đối lỗ riêng,
lãi riêng và báo cáo không đúng sự thật.Bên cạnh đó các Doanh nghiệp phải thực
hiện chế độ kiểm toán bắt buộc và công khai quyết toán của Doanh nghiệp.
Mặt khác, Nhà nước phải luôn có chính sách đào tạo nhằm nâng cao trình độ
và năng lực của cán bộ kiểm toán.Để làm công tác kiểm toán tiến hành có hiệu
quả, khách quan.Nhà nước phải có biện pháp trừng phạt thích đáng đối với cán bộ
kiểm toán không trung thực, ăn hối lộ.Từ đó mới đánh giá đúng tình hình tài chính
cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tạo điều kiện cho
những cán bộ tín dụng trong việc phân tích hoạt động kinh doanh của Doanh
nghiệp,thẩm định các dự án được chính xác, qua đó hạn chế và phòng ngừa những
rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
* Cần xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ổn định.
Do tình trạng hệ thống các cơ chế chính sách luôn thay đổi nên tạo môi
trường bất ổn , bấp bênh cho các Doanh nghiệp,các Doanh nghiệp sẽ luôn thụ động
và khó thích ứng trong nền kinh tế thị trường.Do đó, Đảng và Nhà nước ta cần tạo
một hệ thống cơ chế chính sách ổn định, một mặt tạo điều kiện cho các Doanh
nghiệp hoạt động,mặt khác thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước
ngoài.Các cơ chế chính sách đó phải đưa ra luật đầu tư ổn định không chỉ có giá
trị hôm nay mà có hiệu lực ngày mai. Vì các nhà đầu tư nước ngoài không muốn
đầu tư ở một nước có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, pháp luật cho dù có sự
ưu đãi về thuế vì họ sợ đồng vốn của họ sẽ bị rủi ro.Chính vì vậy nhà nước cần
phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
* Xây dựng sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Có thể nói rằng cạnh tranh là một trong những động lực quan trọng nhất của
sự phát triển. Vì vậy, nhà nước cần phải tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh,
nghĩa là Nhà nước phải tạo ra một sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trên tất
cả lĩnh vực hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội.Chủ trương của Nhà nước là
thực hiện quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng trên thực tế Nhà
nước có nhiều quy chế rắc rối được đưa ra nhằm đặt các Doanh nghiệp quốc doanh

vào vị trí thuận lợi hơn các doanh nghiệp khác.Trong mọi việc, dù là đi vay tiền
hay xin cấp giấy phép hoạt động kinh doanh, làm việc với các cơ quan chức năng
nhà nước... Các Doanh nghiệp quốc doanh thường được thuận lợi hơn so với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Như vậy bằng luật pháp, chính sách của mình,Nhà
nước đã tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp quốc
doanh.Và chừng nào Doanh nghiệp quốc doanh còn được hưởng thuận lợi thế này
thì họ sẽ còn ỉ lại, thụ động và không lỗ lực để cải tiến sản phẩm hoặc phương án
sản xuất cũng như cải cách cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp.
Môi trường kinh doanh bất bình đẳng này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả công tác thẩm định của dự án đầu tư, bởi nó tạo tâm lý thiên vị cho các
Doanh nghiệp quốc doanh của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng cũng sẽ dễ dàng
duyệt cho vay đối với các Doanh nghiệp quốc doanh hơn là các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác.Vì các Doanh nghiệp quốc doanh là Doanh
nghiệp của Nhà nước được nhà nước cấp vốn hoạt động và nếu có rủi ro gì trong
hoạt động kinh doanh thì họ sẽ có thể xin tài trợ từ phía nhà nước.Để khắc phục

×