Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

(Luận văn thạc sĩ) biện pháp giải quyết việc làm cho thanh niên TP HCM đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.37 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
#"
TRẦN NGỌC PHƯƠNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành : KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Mã số : 5.02.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. PHẠM PHI YÊN

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2000


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ LỰC LƯNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM 5
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỰC LƯNG LAO ĐỘNG ................................... 5
1.1.1. Một số khái niệm ....................................................................................5
1.1.2. Vai trò, vị trí của lực lượng lao động trong phát triển kinh tế – xã hội. 9
1.1.3. Một số đặc điểm về lực lượng lao động thanh niên ..............................10
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ VIỆC LÀM ................................................... 11
1.2.1. Về chính sách giải quyết việc làm ........................................................11
1.2.2. Một số khái niệm về việc làm và thất nghiệp .......................................12
1.3. CÁC XU HƯỚNG VỀ NHU CẦU LAO ĐỘNG ...................................... 16
1.3.1. Xu hướng nhu cầu lao động tại các nước phát triển.............................16


1.3.2. Xu hướng nhu cầu lao động tại các nước đang phát triển ....................16
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG LỰC LƯNG LAO ĐỘNG
THANH NIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 17
2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH . 17
2.2. ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LỰC LƯNG LAO ĐỘNG. ........................ 21
2.2.1. Dân số..................................................................................................21
2.2.2. Số lượng lao động ................................................................................22
2.2.3. Cơ cấu lao động ...................................................................................22
2.2.4. Trình độ của lực lượng lao động ..........................................................23
2.2.5. Cơ cấu lực lượng lao động theo khu vực kinh tế ...................................25
2.3. THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG THẤT NGHIỆP - CHƯA VIỆC LÀM ...... 27
2.3.1. Đặc điểm về cư trú, giới tính, nhóm tuổi ..............................................28
2.3.2. Đặc điểm về trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn nghề nghiệp ...28
2.3.3. Phân loại theo nhu cầu tìm việc làm và đối tượng ...............................29
2.3.4. Đặc điểm của tình hình phân bố dân cư và lao động ở ngoại thành ....30


2.4. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA THÀNH PHỐ.................. 31
2.4.1. Tăng trưởng kinh tế tạo cho một bộ phận dân cư có việc làm và thu
nhập. ..............................................................................................................31
2.4.2. Những biện pháp của Thành phố trong việc tổ chức một số chương
trình giải quyết việc làm ................................................................................32
2.4.3. Chương trình xuất khẩu lao động.........................................................35
2.4.4. Một số chương trình giải quyết việc làm khác .....................................36
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2010
................................................................................................................................ 39
3.1. NHẬN ĐỊNH XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯNG LAO
ĐỘNG .............................................................................................................. 39
3.2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM MANG TÍNH ĐỊNH HƯỚNG ........................... 40

3.3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM HIỆN NAY.... 42
3.4. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHỦ YẾU ....................... 45
3.4.1. Phát triển thị trường lao động..............................................................45
3.4.2. Xây dựng hệ thống thông tin thống kê thị trường lao động ..................47
3.4.3. Hoàn thiện tổ chức, quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động .............48
3.4.4. Nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống dịch vụ việc làm..................50
3.4.5. Đổi mới công tác dạy nghề trên địa bàn Thành phố............................53
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 55
Tài liệu tham khảo.
Phụ luïc.


LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam sau một thời gian dài trải qua những diễn biến lịch sử trong quá
trình đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước, hiện nay Việt Nam là một quốc gia
đang phát triển trong quá trình hội nhập giao lưu với nền kinh tế thế giới. Quá
trình giao lưu hội nhập này đang đặt ra những thách thức to lớn trong tiến trình
phát triển nền kinh tế của nước ta. Hiện nay trên thế giới đã bước vào kỷ
nguyên mới, một kỷ nguyên mà trong đó khoa học kỹ thuật công nghệ đóng vai
trò rất quan trọng và là nhân tố quyết định sự thành công. Việc nắm bắt được
khoa học kỹ thuật công nghệ cần có một lực lượng lao động hiện đại, tiên tiến,
có trình độ đáp ứng được những nhu cầu mới trong quá trình sản xuất.
Đối với Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng hiện
nay, các vấn đề liên quan đến lực lượng lao động như nguồn lao động tăng
nhanh, tình trạng sử dụng lao động lãng phí còn phổ biến, tỷ lệ thất nghiệp còn ở
mức cao thì vấn đề giải quyết việc làm mang một ý nghóa hết sức to lớn, nó
không chỉ có ý nghóa về mặt kinh tế mà còn là điều kiện đảm bảo sự ổn định về
mặt chính trị xã hội.
Trong mối quan hệ chung của cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh là một
trung tâm kinh tế, thương mại, tài chính, giao lưu quốc tế, khoa học, văn hóa…

của khu vực Nam Bộ và của cả nước. Như vậy, lực lượng lao động của Thành
phố Hồ Chí Minh sẽ tạo nên một nội lực hết sức to lớn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua những vấn đề
liên quan đến lực lượng lao động của thành phố Hồ Chí Minh cũng là một vấn
đề phải quan tâm, có thể nói thực trạng lực lượng lao động của thành phố hiện

1


nay vừa là một thế mạnh, vừa là một sức ép to lớn trong quá trình phát triển kinh
tế – xã hội.
Giải quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động của thành phố Hồ Chí
Minh cũng là mối quan tâm hàng đầu của các cấp lãnh đạo thành phố cũng như
của mọi tầng lớp dân cư. Vấn đề giải quyết việc làm có tầm quan trọng, và
mang ý nghóa rất to lớn trong phát triển kinh tế – xã hội hiện nay. Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay có một lực lượng lao động rất dồi dào, có nhiều tiềm năng,
tuy nhiên trình độ của lực lượng lao động này không đồng đều chưa đáp ứng
được nhu cầu của sự phát triển kinh tế, một phần là do trình độ văn hóa, trình độ
tay nghề, một phần là lực lượng lao động chưa có những sự lựa chọn nghề
nghiệp thích hợp với đặc điểm bản thân và xã hội …
Để có thể tạo được một động lực to lớn cho việc đưa thành phố nhanh
chóng đạt được những mục tiêu đã đề ra trong “Chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010” là duy trì tốc độ tăng trưởng của
thành phố cao hơn mức bình quân trong cả nước và phát triển một cách toàn
diện, cân đối và bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm vững chắc an
ninh quốc phòng. Vấn đề giải quyết việc làm cho lực lượng lao động thanh niên
Thành phố Hồ Chí Minh là hết sức quan trọng; nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế – xã hội của thành phố đến năm 2010; chúng ta cần có những giải pháp
đồng bộ từ trung ương đến địa phương, từ người chủ doanh nghiệp đến những
người lao động.

Những yêu cầu như vậy, với những kiến thức đã được học trong chương
trình Cao học Kinh tế phát triển vừa qua kết hợp với quá trình nghiên cứu, thu
thập tài liệu, số liệu trong thực tế, nhằm giúp tôi thực hiện đề tài “Một số biện
pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động thanh niên Thành phố Hồ Chí
Minh đến năm 2010”

2


Mục đích của đề tài là nghiên cứu vai trò của lực lượng lao động, đặc biệt
là lao động thanh niên đến phát triển kinh tế – xã hội Thành phố Hồ Chí Minh,
kết hợp với việc đánh giá tiềm năng lực lượng lao động thanh niên hiện nay, để
từ đó có thể đưa ra một số biện pháp giải quyết việc làm cho thanh niên Thành
phố Hồ Chí Minh đến năm 2010.
Đề tài sử dụng phương pháp luận nghiên cứu là duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, cùng với phương pháp trao đổi xin ý kiến chuyên gia, phương
pháp thống kê, phân tích và tổng hợp các thông tin trên cơ sở nguồn tài liệu từ
thu thập từ thực tế, các báo đài, các Sở ban ngành của Thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung của đề tài này bao gồm :
¾ Hệ thống hóa những vấn đề mang tính lý thuyết cơ bản về lực lượng
lao động và việc làm.
¾ Xem xét, đánh giá tiềm năng của lực lượng lao động thanh niên tại
Thành phố Hồ Chí Minh và xu hướng phát triển trong tương lai.
¾ Căn cứ vào tình hình thực tế và những phân tích để có thể đưa ra một
số biện pháp giải quyết việc làm cho lực lượng lao động thanh niên
Thành phố.
Với nội dung nêu trên, kết cấu của luận văn được chia ra như sau :
U LỜI MỞ ĐẦU
U Chương 1 : TỔNG QUAN VỀ LỰC LƯNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
U Chương 2 : THỰC TRẠNG LỰC LƯNG LAO ĐỘNG THANH NIÊN

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
U Chương 3 : MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
THANH NIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2010
U PHẦN KẾT LUẬN

3


Đối với Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung, vấn đề
giải quyết việc làm là một vấn đề đang được quan tâm rất nhiều, và đây cũng là
một bài toán khá nan giải đối với các cấp lãnh đạo Thành phố và Nhà nước.
Muốn giải quyết vấn đề này cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cấp, nhiều
ngành. Vì vậy trong phạm vi luận văn này, người viết không có tham vọng nêu
lên toàn bộ những vấn đề có liên quan đến giải quyết việc làm cho lực lượng lao
động của Thành phố Hồ Chí Minh, mà chỉ dừng lại ở những vấn đề cơ bản lý
thuyết, những ảnh hưởng của lực lượng lao động đến sự phát triển kinh tế – xã
hội của thành phố, nêu lên một số nhận định và biện pháp để giải quyết việc
làm cho thanh niên thành phố đến năm 2010.
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Quý
Thầy Cô và các bạn quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi trân trọng kính gửi đến Quý Thầy Cô và các bạn lời cảm ơn
chân thành nhất.

4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ
LỰC LƯNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỰC LƯNG LAO ĐỘNG


1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Sức lao động và các yếu tố ảnh hưởng đến sức lao động

Sức lao động: là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong
một cơ thể mỗi con người đang sống và được con người đem ra vận dụng mỗi khi
sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
1.1.1.1.1. Những nhân tố cấu thành sức lao động

Sản xuất xã hội là quá trình con người sử dụng tư liệu sản xuất tác động
vào đối tượng sản xuất để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cần thiết cho sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nhân tố con người mà đặc biệt là
nhân tố sức lao động có đặc trưng thể hiện khả năng phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất xã hội, có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của xã
hội loài người. Như vậy, sức lao động là một phạm trù kinh tế – xã hội tổng hợp
bao gồm các thành tố sau :
− Hệ thống nhân tố thể lực
Trong điều kiện nền kinh tế mở, việc phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa và hiện đại hóa không thể chỉ dựa vào lao động thủ công, cần cù
chịu khó mà phải là lao động thông minh, sáng tạo, có trình độ văn hóa, khoa
học kỹ thuật cao, thích ứng với công nghệ hiện đại, có kỹ năng giỏi. Nhưng trước
hết, để đạt được một trình độ lao động như vậy con người phải có sức khỏe, sức
khỏe là cái gốc để con người phát triển. Vì vậy đầu tư cho sức khỏe là đầu tư

5


cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đồng thời nâng cao chất lượng cuộc
sống cho mỗi cá nhân và gia đình.
Người khỏe mạnh không chỉ không có bệnh mà còn có khả năng thích
nghi nhanh chóng với những điều kiện thường xuyên thay đổi của môi trường,

đáp ứng các nhu cầu hoạt động, khả năng hoàn thành các chức năng sinh học, xã
hội, nghề nghiệp ở mức đầy đủ nhất. Đó cũng là trạng thái cân bằng cực đại
giữa con người với môi trường thiên nhiên và xã hội.
Vấn đề sức khỏe đã vượt qua khỏi phạm vi của y học, y tế dù rằng đó là
lónh vực rất gần gũi, nó được hình thành như một kết quả tổng hòa của sự phát
triển kinh tế và xã hội và nó chịu tác động của nhiều ngành, nhiều lónh vực hoạt
động của xã hội. Có thể nói sức khỏe con người là biểu hiện tổng hợp của trình
độ phát triển kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia, mà trước hết là các điều kiện lao
động, mức sống, điều kiện y tế…
™ Các yếu tố chủ yếu tác động đến phát triển thể lực con người.
• Yếu tố sinh học : là các quy định đặc thù sinh học như giới tính, tuổi
tác, sự di truyền và thể trạng bẩm sinh. Yếu tố này gắn liền với sức
khỏe cá nhân mà để đánh giá tình trạng của nó người ta có thể kiểm
tra lâm sàng.
• Môi trường tự nhiên : là điều kiện để con người sống và phát triển.
Ngày nay vấn đề ô nhiễm môi trường là một vấn đề nổi cộm trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với tốc độ ngày càng
tăng. Tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, cân bằng sinh thái bị phá hủy
ảnh hưởng tác động xấu đến sức khỏe cả cộng đồng.
• Môi trường xã hội : là các mối quan hệ giữa người và người trong gia
đình, họ hàng, láng giềng, nơi làm việc và chung toàn xã hội.

6


• Giáo dục : giáo dục sức khỏe, kiến thức dinh dưỡng nhận thức về sức
khỏe mỗi người dân tự biết cách chăm sóc và giữ gìn sức khỏe cho bản
thân mình, cho gia đình, hướng dẫn mọi người nắm được những kỹ
năng cần thiết, đơn giản để họ có thể tự áp dụng cho mình trong việc
nâng cao sức khỏe và phòng bệnh, chữa bệnh, hạn chế bớt những

trường hợp bệnh tật hay tử vong chỉ vì thiếu hiểu biết.
• Chất lượng chăm sóc sức khỏe : là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp
đến việc bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho nhân dân, được thể hiện
thông qua các hoạt động y tế, dinh dưỡng, thể dục – thể thao, rèn
luyện thân thể…
• Phong cách sống, lối sống : là khía cạnh quan trọng của văn hóa tác
động đến sức khỏe con người.
− Hệ thống nhân tố trí lực – văn hóa
Hệ thống trí lực – văn hóa được xác định bởi các tri thức chung về khoa
học (khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội), trình độ kiến thức
chuyên môn, kó năng và kinh nghiệm sản xuất. Như vậy hệ thống trí lực – văn
hóa đối với mỗi con người được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài
một bộ phận nhất định (không nhỏ) của tri thức được thu nhận qua hệ thống giáo
dục, thì phần lớn tri thức (kỹ năng, kinh nghiệm) thu nhận được thông qua thực
tiễn cuộc sống lao động sản xuất.
− Hệ thống nhân tố ý thức xã hội
Hệ thống nhân tố này bao gồm một hệ thống những giá trị về đạo đức,
tinh thần của con người được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển
lịch sử lâu dài. Nó chứa đựng những nhận thức được khẳng định bằng những giá
trị về nhân cách, đạo đức… tạo nên sức mạnh tinh thần trong mỗi con người và
của toàn xã hội.
7


1.1.1.1.2. Xu hướng phát triển của những nhân tố

Theo đà phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ – kỹ thuật, thực tế
đòi hỏi con người phải sử dụng những kiến thức khoa học ngày càng nhiều hơn.
Khối lượng kiến thức chung, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp phải
tăng lên với mức độ ngày càng cao. Tương ứng với trình độ phát triển của xã

hội, mức sống của con người ngày càng được cải thiện và đạt được mức thỏa
mãn đáng kể về dinh dưỡng và sức khỏe. Tuy nhiên, tốc độ tăng lên của yếu tố
tinh thần, đặc biệt là nhân tố trí lực – văn hóa cao hơn gấp nhiều lần so với các
thành tố vật chất năng lượng (nhân tố thể lực) và ngày càng có ý nghóa quyết
định đối với người lao động trong quá trình sản xuất. Bên cạnh đó, nhân tố văn
hóa của sức lao động ngày càng được nâng cao làm cho giá trị của sức lao động
được tăng cao và nó có ý nghóa quyết định sự thành bại của mỗi cá nhân hay
cộng đồng trong cuộc tranh đua vào tương lai.
1.1.1.2. Khái niệm lực lượng lao động

Khái niệm lực lượng lao động đã được thống nhất ở hầu hết các quốc gia
và cũng là khái niệm mà tổ chức lao động Thế giới (ILO) đưa ra
Lực lượng lao động (tương đương với khái niệm dân số hoạt động kinh tế):
là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định (tùy thuộc từng nước) thực tế có
tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc
làm.
Điều khác nhau ở mỗi nước là độ tuổi quy định, về giới hạn độ tuổi tối
thiểu thì có một số nước là khác nhau : Mỹ : 16 tuổi, Australia : 15 tuổi, Brazil :
10 tuổi. Về giới hạn tuổi tối đa của lực lượng lao động cũng khác nhau : Đan
Mạch, Thụy só, Na uy, Phần Lan : 74 tuổi, Ai Cập, Malaisia, Mexico : 65 tuổi,
Việt Nam : 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ.

8


Tuy nhiên, cơ sở thực tế để xác định giới hạn tuổi tối thiểu và tối đa của
lực lượng lao động là : tuổi học sinh rời khỏi trường phổ thông để xác định độ
tuổi tối thiểu và tuổi cao nhất quy định cho người được nghỉ hưu để xác định giới
hạn tuổi tối đa. Song hiện nay ở nhiều quốc gia và Tổ chức lao động quốc tế đã
không quy định giới hạn độ tuổi tối đa và để mở ở độ tuổi này.

Như vậy, lực lượng lao động của một quốc gia trước hết phụ thuộc vào
quy mô dân số, số người trong độ tuổi lao động và mức cung cấp lao động (tỷ lệ
số người tham gia vào lực lượng lao động so với số dân). Ở các nước phát triển
mức tăng tự nhiên dân số rất thấp (có một số nước tăng tự nhiên dân số là âm).
Bên cạnh đó, lực lượng lao động còn phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế – xã hội
như : mức thu nhập, địa vị của người phụ nữ trong xã hội, mối tương quan giữa
nhu cầu làm việc và nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí… Ở những nước kém phát triển
ngoài sự tác động của các yếu tố trên, sự gia tăng lực lượng lao động còn là hệ
quả tất yếu của quá trình gia tăng dân số.
1.1.2. Vai trò, vị trí của lực lượng lao động trong phát triển kinh tế – xã hội.
Như chúng ta đã biết, tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên đều không
phải là vô tận. Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng công
nghiệp, về lâu về dài, từng bước giúp con người khai thác triệt để các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Nhưng xã hội loài người văn minh lại có một nguồn tài
nguyên vô tận, vô giá, quý báu nhất và ngày càng phát triển cùng với sự phát
triển của nền văn minh nhân loại. Đó chính là tiềm năng phong phú đa dạng của
con người.
Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, con người được coi như là một
đầu vào của quá trình phát triển. Lịch sử phát triển của xã hội qua các thời đại
đã cho thấy rằng con người là yếu tố chủ thể quyết định sự phát triển của xã hội
trên những bậc thang tiến hóa, đồng thời trong quá trình tạo ra của cải vật chất

9


và văn hóa không ngừng làm nảy sinh những nhu cầu mới của sản xuất cũng như
những kiến thức nhất định, những thói quen lao động và kinh nghiệm sản xuất
của con người. Vai trò của nguồn nhân lực trong các nguồn lực ngày nay được
xem như một yếu tố năng động nhất. Quản lý một tổ chức, một đất nước, như
kinh nghiệm của nhiều nước phát triển cho thấy trong thời đại ngày nay, nguồn

nhân lực là đảm bảo sự thành công chắc chắn nhất. Vì vậy, con người với tư
cách là lực lượng lao động sẽ là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội trong
hiện tại và tương lai.
Như vậy, có thể nói lực lượng lao động có vai trò hết sức quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội. Lực lượng lao động chính là nhân tố quyết định trong
sự phát triển kinh tế, một nước có lực lượng lao động dồi dào, trình độ của công
nhân lao động cao và có chất lượng thì nước đó sẽ có một lợi thế rất to lớn trong
việc phát triển kinh tế – xã hội. Ngày nay, không một nước nào là không chú ý
đến sự phát triển của lực lượng lao động trong nước, chính việc đầu tư cho sự
phát triển của lực lượng lao động sẽ là sự đầu tư có hiệu quả nhất trong tương lai
đối với quá trình phát triển của đất nước đó. Sự đầu tư cho lực lượng lao động sẽ
mang lại hiệu quả trong dài hạn và nó có tác động ảnh hưởng đến toàn bộ sự
phát triển của nền kinh tế.
1.1.3. Một số đặc điểm về lực lượng lao động thanh niên
Lực lượng lao động thanh niên hiện nay trong phát triển kinh tế – xã hội
có những ưu thế to lớn, đây chính là lực lượng lao động có sức phát triển mạnh
mẽ, là tiềm năng, là những chủ nhân của đất nước trong tương lai.
Lực lượng lao động thanh niên là những người có độ tuổi từ 15 – 30 tuổi,
đây chính là những thành phần lao động trẻ, có nhiều lợi thế trong lao động sản
xuất như :

10


♦ Thanh niên là lực lượng lao động có sức khỏe, thể lực tốt do đó họ có
thể đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của môi trường làm việc.
♦ Đối đầu với những cuộc ganh đua gay gắt với thế giới khoa học, thanh
niên có tinh thần học tập, sáng tạo. Thanh niên có khả năng học hỏi và
nắm bắt nhanh chóng những kỹ thuật, kiến thức mới cần thiết trong
quá trình lao động. Hiện nay những lãnh vực công nghệ kỹ thuật cao

được lực lượng lao động thanh niên học hỏi, nắm bắt và nhanh chóng
làm chủ được các kỹ thuật này.
♦ Lực lượng lao động thanh niên là một lực lượng lao động mới do vậy
họ thường có những hoài bão, chí hướng được ấp ủ trong suốt quá trình
học tập và họ sẽ cố gắng thực hiện những mơ ước này, do đó họ luôn
là những người dẫn đầu trong việc thực hiện cải tiến những cái mới, họ
sãn sàng bứt phá ngay chính trong công việc của mình, ứng dụng để
làm lợi cho cuộc sống của bản thân và cộng đồng.
Tuy lực lượng lao động thanh niên là thành phần lao động quan trọng
trong nền kinh tế và là thành phần nhạy cảm với xã hội, nhưng thanh niên là lực
lượng lao động trẻ mới bước vào tuổi lao động vì vậy kinh nghiệm việc làm
không có hoặc là chưa nhiều, còn nhiều thanh niên chưa có nghề nghiệp, vì vậy
thanh niên khó có thể kiếm được việc làm; và nếu như không có việc làm thì sẽ
dẫn đến tình trạng xuất hiện các tệ nạn xã hội (cướp giật, cờ bạc, ma túy, mại
dâm …). Do đó giải quyết việc làm là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay
của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ VIỆC LÀM

1.2.1. Về chính sách giải quyết việc làm
Chính sách việc làm là một loại chính sách xã hội liên quan đến một
trong những mặt sống còn của cuộc sống con người, là một trong những yếu tố

11


cơ bản phát triển con người. Vì vậy, chính sách việc làm liên quan đến việc thỏa
mãn nhu cầu cơ bản của con người.
Chính sách việc làm có mục tiêu ổn định xã hội rất rõ nét, là một trong
những nội dung cơ bản của công bằng xã hội và góp phần nâng cao chất lượng,
cuộc sống. Cùng với các chính sách xã hội khác, chính sách việc làm góp phần

ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
Đối tượng của chính sách việc làm là mọi người lao động có khả năng lao
động và có nhu cầu việc làm. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, chúng ta
phải chấp nhận sự cạnh tranh tích cực trong lónh vực lao động trên thị trường lao
động, và do đó có người sẽ chưa có việc làm rơi vào cảnh thất nghiệp và thiếu
việc làm. Bởi vậy, chính sách việc làm mang tính trợ giúp, tạo điều kiện tăng
sức cạnh tranh cho người lao động để có cơ hội tìm kiếm việc làm.
Để việc thực hiện chính sách việc làm đến đúng mục tiêu, đối tượng và
hiệu quả thì chính sách việc làm không thể thực hiện theo kiểu hành chính, mà
phải có cơ chế và quy trình vận hành riêng. Theo kinh nghiệm của quốc tế và
tổng kết thực tiễn của nước ta trong những năm qua, chính sách việc làm được
thực hiện thông qua chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, với hàng loạt
dự án có mục tiêu, trọng điểm, đối tượng cụ thể; hình thành Quỹ quốc gia về
giải quyết việc làm từ nhiều nguồn; nhấn mạnh vai trò của cộng đồng và cơ sở,
nhất các tổ chức xã hội và phi chính phủ; phát triển mạnh hệ thống dạy nghề xã
hội và dịch vụ việc làm…
1.2.2. Một số khái niệm về việc làm và thất nghiệp
Lý thuyết kinh tế học vó mô của P.A Samuelson và W.D. Nordhaus1 đã có
các khái niệm: “Lực lượng lao động bao gồm những người có công ăn việc làm
và những người thất nghiệp”
1

Paul A. Samuelson và Wiliam D. Nordhaus, “Kinh tế học” tập 1, Viện Quan Hệ
Quốc Tế, 1989, trang 258

12


− “Những người có công ăn việc làm” là những người làm một việc gì
đó được trả công và những người có công việc nhưng nghỉ ốm đau,

đình công hoặc đang trong kỳ nghỉ.
− “Người thất nghiệp”: là người không có việc làm được trả công, và có
những cố gắng cụ thể để đi tìm một công việc trong 4 tuần qua, hoặc
bị cho thôi việc nhưng đang chờ được gọi làm việc trở lại, hoặc đang
chờ đợi đi làm trong tháng tới. Những người thất nghiệp là những
người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc hoặc đang chờ
đợi được trở lại làm việc.
P.A Samuelson và W.D. Nordhaus cũng đưa ra các khái niệm về thất
nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp:
− “Thất nghiệp tự nguyện” gồm những người có khả năng được tuyển,
họ muốn đi làm nhưng chỉ đi làm khi có mức lương cao hơn mức lương
bình quân phổ biến của ngành nghề mà họ có năng lực trên thị trường
lao động (mức lương thịnh hành)
− “Thất nghiệp không tự nguyện” gồm những người muốn làm việc với
mức lương bình quân phổ biến của ngành nghề mà họ có năng lực trên
thị trường lao động nhưng họ không được tuyển dụng, không có việc
làm.
− “Thất nghiệp tạm thời” gồm những người vì lý do nào đó họ chủ động
xin nghỉ việc (ở một nơi, vào một thời điểm, hoặc một ngành nghề nào
đó) và ngay sau đó họ tìm kiếm việc làm (ở một nơi, vào một thời
điểm, hoặc một ngành nghề khác).
− “Thất nghiệp có tính cơ cấu” gồm những người không có việc làm khi
tay nghề hoặc kỹ năng làm việc của họ nằm ngoài nhu cầu tuyển dụng
của các ngành nghề đang cần lao động; tức là ngành nghề của họ
không còn phù hợp với nhu cầu tuyển dụng trên thị trường lao động
nữa.
13


− “Thất nghiệp có tính chu kỳ” gắn với chu kỳ của ngành và của nền

kinh tế, gồm những người có nhu cầu làm việc với mức lương đang
thịnh hành nhưng không tìm được việc do mức cầu chung về lao động
của ngành và của kinh tế giảm thấp.
− “Tỷ lệ thất nghiệp” là tỷ lệ số người thất nghiệp chia cho toàn bộ lực
lượng lao động.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội nước ta, năm 1994 – 1996; đã có
nghiên cứu về việc làm và thất nghiệp; đã đưa ra một số khái niệm như sau:
− “Việc làm” là mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp
luật ngăn cấm; bao gồm các công việc được hưởng tiền công, tiền
lương dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật và những công việc tự
làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc thu nhập cho gia đình mình.
− “Người có việc làm” là những người từ 15 tuổi trở lên :
ƒ Đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận
bằng tiền hay hiện vật;
ƒ Đang làm công việc kinh doanh hay sản xuất nông nghiệp cho hộ
gia đình mình mà không nhận tiền lương, tiền công hay lợi nhuận;
ƒ Đã có công việc nhưng tạm thời nghỉ việc có hưởng lương, hoặc
không ăn lương trong thời gian chưa đến 4 tuần;
ƒ Tạm nghỉ việc trên 04 tuần và được hưởng lương suốt thời gian nghỉ
việc hoặc hưởng một phần lương trong thời gian nghỉ việc và sẽ trở
lại làm việc sau thời gian đó.
− “Người thiếu việc làm” là những người làm việc dưới 40 giờ/ tuần và
họ có nhu cầu làm thêm giờ.
− “Người thất nghiệp” là những người từ 15 tuổi trở lên, có nhu cầu làm
việc nhưng không có việc làm, và tính đến thời điểm hiện tại có đi tìm
việc trong 04 tuần lễ trước đó, hoặc không đi tìm việc trong 04 tuần lễ
14


trước đó với các lý do chờ việc, nghỉ thời vụ, không biết tìm việc ở

đâu...
− “Lực lượng lao động” là những người từ 15 tuổi trở lên đang có việc
làm hoặc đang thất nghiệp.
− “Những người không thuộc lực lượng lao động” là những người nằm
ngoài lực lượng lao động, không có nhu cầu làm việc vì đang đi học,
hiện đang làm công việc nội trợ, già cả, ốm đau, tàn tật hay không có
khả năng lao động
− “Tỷ lệ thất nghiệp” là số phần trăm những người thất nghiệp so với
lực lượng lao động.
Như vậy, về cơ bản các khái niệm nêu trên được thống nhất ở nhiều nước
và cũng là khái niệm mà Tổ chức lao động quốc tế (ILO) chính thức đưa ra :
Người có việc làm là những người làm một việc gì đó có được trả tiền
công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia
vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia
đình không được nhận tiền công hay hiện vật.
Người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tích cực
tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.
Điều khác nhau ở mỗi nước khi xác định khoảng thời gian không có việc
làm: ở Thái Lan : người thất nghiệp là người không có việc làm trong thời gian 7
ngày trước lúc điều tra; ở Australia quan niệm người thất nghiệp là những người
không có việc làm trong tuần lễ điều tra và đã chủ động tìm việc tại bất kỳ một
thời điểm nào trong trong 04 tuần.
Tóm lại, các khái niệm về việc làm và thất nghiệp nêu trên không nhất
thiết là giống nhau ở mỗi quốc gia, mà tùy điều kiện cụ thể, yêu cầu và khả
năng mà mỗi quốc gia có thể đưa ra khái niệm phù hợp với ý nghóa thực tế cho
nước mình. Nhưng cần phải lưu ý là các hệ thống số liệu thu được từ thống keâ

15



hoặc điều tra từ mỗi nước cũng phải tính đến khả năng so sánh với các nước
khác nhau, trước hết là với các nước có trình độ phát triển tương đồng.
1.3. CÁC XU HƯỚNG VỀ NHU CẦU LAO ĐỘNG

1.3.1. Xu hướng nhu cầu lao động tại các nước phát triển
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đã bước
những bước tiến dài trong việc đẩy nhanh ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công
nghệ mới trong sản xuất đã làm thay đổi cơ cấu ngành nghề. Nhiều ngành mới
xuất hiện, nhiều ngành cũ biến mất. Trong điều kiện đó, chỉ có lực lượng lao
động linh hoạt có khả năng đáp ứng nhanh mới đáp ứng được các nhu cầu phát
triển của sản xuất. Do đó nhu cầu về lực lượng lao động của các nước phát triển
hiện nay là một đội ngũ lao động có trình độ học vấn cao, có kỹ năng nghề
nghiệp để đáp ứng cuộc cạnh tranh trước thách thức của tiến bộ công nghệ mới.
1.3.2. Xu hướng nhu cầu lao động tại các nước đang phát triển
Hiện nay, các nước đang phát triển thường có dân số đông, lực lượng lao
động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động nông nghiệp (tỷ lệ lao động trong
ngành nông nghiệp từ 60 – 80% ) hoặc lao động phổ thông. Tuy nhiên, theo đà
công nghiệp hóa, thì cơ cấu lao động sẽ thay đổi, lao động trong công nghiệp và
dịch vụ tăng lên; cơ cấu lao động này sẽ thay đổi phụ thuộc rất nhiều vào mức
độ công nghiệp hóa của mỗi nước. Để có thể nắm bắt cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật và công nghệ thì các nước đang phát triển hiện nay cần có nhu cầu rất
lớn các công nhân lao động kỹ thuật có tay nghề và lao động có trình độ chuyên
môn cao. Như vậy, các nước đang phát triển phải thỏa mãn hai yêu cầu hiện
nay về lao động : vừa phải phát triển nhiều ngành nghề sử dụng nhiều lao động
để có thể giải quyết những lao động dư thừa (nhất là các lao động phổ thông, lao
động có tay nghề thấp), vừa phải đào tạo bồi dưỡng lao động có trình độ chất
xám, chuyên môn kỹ thuật cao để có thể ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất và bắt kịp trình độ phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ của thế giới.
16



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LỰC LƯNG LAO ĐỘNG
THANH NIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY
2.1.ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Hiện nay thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế,
văn hóa và khoa học kỹ thuật lớn nhất của đất nước với diện tích 2.094 km2.
Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi, nằm giữa vùng Nam
bộ giàu có và nhiều tiềm năng. Thành phố Hồ Chí Minh có chung địa giới hành
chính với các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng
Tàu. Thành phố trải dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, trung tâm thành phố
cách biển 50 km theo đường chim bay. Thành phố Hồ Chí Minh gồm 17 quận (1,
2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Thạnh, Gò Vấp, Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ
Đức) và 5 huyện (Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè và Cần Giờ).1
Theo niêm giám thống kê năm 1999, dân số thành phố đến ngày
01/07/1999 có 5.063.871 người. Mật độ dân số bình quân 2.418 người/km2. Có
khoảng 82% dân số phân bố ở nội thành, 18% dân số ở ngoại thành. Đây là một
trong 50 thành phố đông dân nhất thế giới.
Từ sau ngày được giải phóng, kinh tế thành phố Hồ Chí Minh có bước
phát triển mới, đặc biệt là những năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội
Đảng lần thứ VI, thứ VII và thứ VIII đề ra. Trong những năm 1991 - 1995 bình
quân mỗi năm tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố đã tăng 12,6%; năm 1996
tăng 14,6%, năm 1997 tăng 12,09%. Năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính, GDP trên địa bàn Thành phố chỉ tăng 9,2%, năm 1999 tăng
6,16% và năm 2000 tăng lên 9%. Tuy vậy, Thành phố vẫn là địa phương có tốc
1

“Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999”


17


độ tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất trong số 61 tỉnh và thành phố của cả
nước trong những năm qua.
Cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ
cấu vùng kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Từ một thành phố
tiêu dùng, đến nay thành phố đã xác lập được cơ cấu kinh tế dịch vụ – công
nghiệp – nông nghiệp với các tỷ trọng tương ứng của mỗi khu vực chiếm trong
tổng sản phẩm trên địa bàn lần lượt là 55,4%; 42,1% và 2,5%. Thành phố Hồ
Chí Minh là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp đổi mới nên đã
đạt được những thành tựu quan trọng trong việc khuyến khích các thành phần
kinh tế cùng phát triển. Kinh tế quốc doanh tạo ra 47% GDP vẫn bảo đảm được
vai trò chủ đạo của mình. Kinh tế ngoài quốc doanh với tỷ trọng 37% và khu vực
có vốn nước ngoài 16% đã đóng góp quan trọng vào việc đa dạng hóa sản phẩm
và dịch vụ, đáp ứng yêu cầu muôn vẻ của đời sống xã hội.
Cơ cấu vùng cũng đã có sự chuyển dịch nhất định. ở ngoại thành bước đầu
đã hình thành các vành đai xanh, cung cấp được một phần lương thực, thực phẩm
cho nội thành. Ngoài lúa, lạc, mía, trong những năm gần đây các huyện ngoại
thành đã đẩy mạnh trồng rau xanh, cây cảnh và chăn nuôi bò sữa.
Trong sản xuất công nghiệp cũng đang ngày càng có thêm những ngành
công nghiệp mũi nhọn như chế biến thực phẩm, dệt da và may mặc, hóa chất và
sản xuất đồ nhựa; hóa mỹ phẩm. Một số khu công nghiệp tập trung và khu chế
xuất đã và đang ra đời như Tân Thuận, Linh Trung, Hiệp Phước, Cát Lái, Vónh
Lộc, Bình Chiểu, Tân Bình, Tân Tạo... Hoạt động dịch vụ đang hướng tới hình
thành các trung tâm lớn với chất lượng dịch vụ cao. Hiện nay thành phố đã có 50
siêu thị, 160 khách sạn và trên 140 biệt thự cho thuê. Khu Đô thị Nam Sài Gòn
đang được khẩn trương xây dựng với những cao ốc và biệt thự lớn dành cho dân
cư và người nước ngoài.


18


Do có không gian kinh tế lớn và cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
hiệu quả, nên kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, ngày càng có vị trí lớn và đóng
góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển chung của kinh tế cả nước.
Hiện nay thành phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng 20% tổng sản phẩm quốc nội,
gần 30% tổng thu ngân sách Nhà nước, 35% khối lượng tiền tệ lưu thông toàn
quốc, 30% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước; 40% tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của cả nước, trên 1/3 tổng mức hàng hóa bán ra và 35% số dự án đầu
tư trực tiếp của nước ngoài.
Bên cạnh những thành công đạt được, tình hình kinh tế - xã hội thành phố
Hồ Chí Minh cũng còn không ít những mặt tồn tại cần tiếp tục xử lý. Mặc dù
kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao nhưng nhìn chung tiềm lực kinh tế vẫn
còn hạn chế. Sự phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng dịch vụ chưa
theo kịp xu thế đô thị hóa dẫn đến quá tải và đang trở thành một trong những
thách đố lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội
trước mắt cũng như lâu dài.
Trong các doanh nghiệp, trình độ thiết bị máy móc và công nghệ nhìn
chung còn thấp kém nên hàng hóa và dịch vụ làm ra thiếu sức cạnh tranh ngay
trên địa bàn thành phố và trong nước chứ chưa nói đến vươn ra xuất khẩu.
Những năm gần đây do thành phố đã triển khai nhiều chính sách và giải pháp
nhằm thực hiện xã hội hóa đời sống kinh tế – xã hội, giải phóng sức sản xuất
nên đã tạo thêm được nhiều việc làm cho người lao động nhưng số người chưa
có việc làm và thiếu việc làm vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao, theo kết quả cuộc
điều tra lao động và việc làm năm 2000 được Bộ Lao động và Thương binh xã
hội công bố mới đây, tại thời điểm 01/07/2000, thất nghiệp ở Thành phố Hồ Chí
Minh là 6,48%1, đang gây áp lực lớn đến việc giải quyết hàng loạt các vấn đề xã
hội khác. Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư vẫn còn khó
khăn, thiếu thốn, nhất là dân cư vùng ngoại thành xa trung tâm thành phố.


1

“Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 03/11/2000”

19


Để phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh cũng như những thành tựu đã
đạt được, đồng thời khắc phục những mặt hạn chế, thành phố Hồ Chí Minh đã và
đang soạn thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 với mục tiêu
tổng quát là "xây dựng thành phố trở thành một trung tâm kinh tế lớn, một đô thị
hiện đại và văn minh của đất nước, sánh vai với các thành phố lớn trong khu vực
Đông Nam Á". Nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược này, trong quy hoạch tổng
thể thành phố đến năm 2010 của UBND TP Hồ Chí Minh đã đề ra một số mục
tiêu cụ thể là:
Phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ đáp ứng quy mô dân số toàn thành phố
6,2 - 6,5 triệu người vào năm 2010, trong đó diện tích nội thành sẽ mở rộng từ
140 km2 hiện nay lên 440 km2 với số dân 4,5 - 5,0 triệu người. Việc quy hoạch
và xây dựng các cơ sở hạ tầng này phải được tiến hành đồng bộ và theo hướng
hiện đại, đặt nền tảng cho việc hình thành đô thị kiểu mới vào đầu thế kỷ 21.
Trong những năm tới, phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân
mỗi năm là 11%. Tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp để đến năm 2010 quan hệ tỷ lệ giữa ba khu vực này lần
lượt là 54%; 45% và 1%.
Phát triển kinh tế đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng
lớp dân cư và bảo đảm công bằng xã hội. Tập trung các biện pháp để trên địa
bàn thành phố sớm không còn hộ đói nghèo, đồng thời thu hẹp dần sự chênh
lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư. Phấn đấu đến năm 2002 phổ cập
giáo dục trung học cơ sở toàn thành phố, trong đó khu vực nội thành và các đô

thị khu vực ngoại thành đạt trình độ giáo dục phổ thông trung học. Xã hội hóa
công tác y tế tạo điều kiện cho mọi người dân, nhất là người nghèo đều được
chăm sóc sức khỏe và chữa trị bệnh tật. Đẩy mạnh hoạt động văn hóa, thông tin
phát thanh truyền hình, thể dục, thể thao nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng đời sống tinh thần cho dân cư, nhất là dân cư ngoại thành.1

1

“TP.HCM thời kỳ đổi mới – 1998” Lê Thanh Hải – Phó Chủ tòch UBND TP.HCM

20


Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên cần có nhiều giải pháp phù hợp
và đồng bộ, nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là con người, chính những công
dân của Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phải cố gắng không ngừng trong lao động,
học tập, không ngừng phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; trong đó
lực lượng lao động thanh niên cần phải chủ động trau dồi, học tập, lao động trở
thành một lực lượng đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng thành phố trở
thành một trung tâm kinh tế đa chức năng vào loại lớn của cả nước và khu vực
Đông Nam Á vào đầu thế kỷ 21.
2.2.ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG LỰC LƯNG LAO ĐỘNG.

2.2.1.Dân số
Để xác định tổng số lực lượng lao động trước tiên phải xem xét sự phát
triển dân số ảnh hưởng đến việc gia tăng lực lượng lao động như thế nào.
BẢNG 1 : DIỄN BIẾN DÂN SỐ THÀNH PHỐ TỪ 1991 – 1999
Năm
Dân số
(1000 người)

Tỷ lệ dân số
phát triển
bình quân (%)
Tỷ lệ tăng tự
nhiên (%)
Tỷ lệ tăng cơ
học (%)

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

4.210

4.326


4.442

4.547

4.647

4.748

4.852

4.958

5.063

3,02

2,76

2,68

2,36

2,21

2,17

2,19

2,18


2,14

1,58

1,55

1,53

1,50

1,48

1,42

1,40

1,38

1,35

1,44

1,21

1,15

0,86

0,73


0,76

0,79

0,80

0,79

Nguồn : Niên giám thống kê và Sở Lao động – Thương binh và Xã hội

Qua bảng trên ta thấy từ năm 1991 – 1999, dân số thành phố luôn luôn
tăng, tỷ lệ tăng trung bình khoảng : 2,53%/năm. Nếu năm 1991, thành phố có 4,2
triệu dân; năm 1995 có 4,647 triệu dân, đến nay có khoảng 5 triệu dân tăng 53%
so với năm 1976 và tăng 19% so với năm 1991. Từ năm 1991 – 1999 mỗi năm
dân số tăng trên dưới 100.000 người/năm trong đó gần 1/2 là tăng cơ học. Theo
“Báo cáo các số liệu chung về dân số lao động việc làm” của Sở Lao ñoäng –

21


Thương binh và xã hội, nếu đến năm 1985, số dân nhập cư chỉ tăng 135.000
người, thì 05 năm sau tăng tới 185.000 người và 1991-1995 là 213.000 người;
tính từ 1976 đến nay Thành phố hiện có 772.689 người là dân từ các tỉnh thành
khác chuyển đến đang đăng ký tạm trú dài hạn tại Thành phố.
2.2.2.Số lượng lao động
Việc gia tăng dân số nhanh đã tác động đến lực lượng lao động của thành
phố làm cho lực lượng lao động hàng năm tăng theo tương ứng.
BẢNG 2 : PHÂN TÍCH SỐ LƯNG LAO ĐỘNG THỜI KỲ 1991 –1999
Năm
Số lượng lao động

(1000 người)
Lao động tại chỗ tăng
hàng năm (người)
Lao động nhập cư tăng
hàng năm (người)

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2.463

2.507

2.604


2.675

2.773

2.848

2.905

3.017

3.083

39.610

40.896

41.130

42.584

43.180

39.827

39.208

39.116

39.879


47.720

56.670

50.500

47.970

53.350

62.086

65.115

61.214

65.051

Nguồn : Sở Lao động – Thương binh và Xã hội

Với tốc độ tăng tự nhiên bình quân 1,6% tính từ 1991-1999 trung bình
hàng năm dân số thành phố tăng tự nhiên khoảng trên dưới 72.000 người, điều
đó cũng đồng nghóa có một lượng dân số ở thành phố đến tuổi lao động cần việc
làm, sau khi một lượng lao động được tiếp tục học lên ở bậc cao hơn hoặc tham
gia nghóa vụ quân sự số lao động tại chỗ bổ sung số lượng lao động tăng hàng
năm từ 39.116 đến 43.180 người (xem bảng trên). Đồng thời do lượng dân nhập
cư vào thành phố (hiện nay cứ 07 người cư trú thì có 01 người chưa có hộ khẩu,
bình quân 04 hộ đang cư trú thì có 01 hộ có người nhập cư cư trú) đã tạo ra
nguồn cung ứng lao động qua nhập cư khá lớn điều đó tác động mạnh mẽ đến
vấn đề công ăn việc làm, nhà ở, đi lại …

2.2.3.Cơ cấu lao động
Theo báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và xã hội, lực lượng lao
động thành phố năm 1999 có 3,098 triệu người, số người có khả năng lao động
chiếm 96% tổng số lao động; lao động Nữ năm 1999 chiếm tỷ lệ 52,40% tăng so
22


×