Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN - Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.06 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGUYỄN VIẾT XUÂN
--------------------

BÁO CÁO
KẾT QUẢ
NGHIÊN
CỨU, ỨNG
DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến:

BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN
BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Tác giả sáng kiến : Đào Thị Hằng
Mã sáng kiến : 22.51.01

Vĩnh Phúc, năm 2019


MỤC LỤC

1. Lời giới thiệu.................................................................................2
2. Tên sáng kiến.................................................................................2
3. Tác giả sáng kiến.................................................................................................2
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến................................................................2
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến...............................................................2
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử............................2
7. Mô tả bản chất của sáng kiến..............................................................2
7.1. Về lý do chọn đề tài....................................................................3


7.2 Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến............................................4
7.3 Nội dung sáng kiến.....................................................................5
8. Những thông tin cần được bảo mật.....................................................................26
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến......................................................26
10 Đánh giá lợi ích thu được..................................................................................27
11. Bài học kinh nghiệm..........................................................................................27
12. Kết luận.............................................................................................................27
13. Tài liệu tham khảo.............................................................................................28

1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1 – Lời giới thiệu
- Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp học nào , môn học nào cũng vô
cùng quan trọng . Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT có đặc trưng
riêng địi hỏi người thầy phải dày công nghiên cứu tài liệu , sắp xếp theo dạng đề ,
hướng dẫn học sinh tìm hiểu tài liệu , tổng hợp và ứng dụng theo các dạng .Với
kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm tơi xin trình bày sáng kiến Bồi
dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT

2 -Tên sáng kiến:

BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN
BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
3 Tác giả sáng kiến
- Họ và tên : Đào Thị Hằng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến : Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh Tường –

Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại : 0987.957.439
- Email:

4- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Đào Thị Hằng, Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh Tường- Vĩnh Phúc

5– Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Giáo dục ở bậc trung học phổ thông .
6– Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng
8/2018 đến tháng 1/2019

7– Mô tả bản chất của sáng kiến:
2


- Tôi đưa ra cơ sở lý luận và minh họa cụ thể sáng kiến này bằng kiến
thức và kinh nghiệm thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm .
- Tôi đã áp dụng sáng kiến này vào ôn thi học sinh giỏi ở đơn vị kết quả
thu được : học sinh hứng thú học tập ,thi học sinh giỏi thực tế kết quả rất khả
quan .
7.1, Về lý do chọn đề tài ;
Nghề dạy học là một nghề cao quý. Người giáo viên khi đã chọn nghề giáo là
đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn và mục tiêu
quan trọng là đào tạo ra những học sinh giỏi, những mầm mống tương lai của đất
nước. Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong
cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi. Để có
được học sinh giỏi thì ngịai năng lực, tố chất của học sinh cịn cần có công lao bồi
dưỡng của người thầy là điều không thể phủ nhận được. Là một giáo viên văn
đứng lớp giảng dạy nhiều năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi qua
một số năm học tôi đã cảm nhận được điều đó. Mỗi mơn học trong nhà trường việc

học và dạy đều có đặc thù riêng của nó. Mơn văn cũng khơng nằm ngịai lệ đó.
Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay.
Học như thế nào cho tốt? dạy như thế nào cho thật sự có hiệu quả? Đó là điều băn
khoăn trăn trở của mỗi giáo viên dạy mơn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình
thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt được và mang
lại hiệu quả được. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có u cầu cao
hơn rất nhiều . Cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng
rất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ ai
khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là làm thế nào cho thật sự
đạt kết quả tốt nhất trong khỏang thời gian hơn 2 tháng ngắn ngủi? Làm sao để các
em phát huy hết năng lực của mình trên một thời gian làm bài trong mấy giờ ấn
định ? Làm thế nàơ để công lao vất vả của thầy và trị khơng bị uổng phí ? Làm sao
để mang lại niềm vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường ?
Mối băn khoăn đó ln thường trực trong suy nghĩ của tơi trong những năm Bằng
tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tịi, trao đổi, thảo luận với các đồng
nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục cùng với việc
cọ xát thực sự trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở
khối 12 qua một số năm học, tôi mạnh dạn chia sẻ một số ý kiến, suy nghĩ của
mình. Bởi cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi là khá quan trọng và rất nặng trong
3


thực tiễn giảng dạy. Mỗi giáo viên có một phương pháp, cách thức riêng của mình.
Bản thân tơi cũng đã lắng nghe ,suy ngẫm và trao đổi với một số thầy cơ về cơng
tác này. Nhưng đây là cái nhìn có những điểm giống và chưa giống với ý kiến của
một số đồng nghiệp khác. Và thực tế đây chính là vấn đề cũng quan trọng nhưng
chưa nhiều những sáng kiến kinh nghiệm đề cập tới. Vì vậy tơi mạnh dạn trình
bày ý kiến về chuyên đề của mình với mong ước và hy vọng là chia sẻ cùng nhau
để góp phần trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Bằng những trải nghiệm của
bản thân qua thực tiễn giảng dạy, tôi mạnh dạn đề nghị sáng kiến kinh nghiệm: Bồi

dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT .
7.2 Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến
7.2.1 Thuận lợi:
- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài:
+ Là nhóm trưởng và là giáo viên đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và nghiên
cứu giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu suy ngẫm về
chun mơn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học
sinh giỏi.
+ Bản thân chịu khó tìm tịi, đọc tham khảo nhiều tài liệu, các tác phẩm văn học,
các sách nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các sách báo khác. Tiếp cận với các
đề thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi quốc gia, các đề học sinh giỏi ở các tỉnh
khác.v.v... có ghi chép, tích lũy,cập nhật thường xuyên.
+ Bản thân trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong và ngòai trường để học hỏi
và áp dụng vào quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi .
- Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài:
+ Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc đúng mức
đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
7.2.2 Khó khăn:
- Trường ở địa bàn nơng thơn tài liệu sách báo tham khảo ở thư viện còn hạn chế.
Chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải
mái, dễ dàng.
- Tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao về môn văn. Học sinh sôi
nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển khác. Nhiều
4


học sinh giỏi một lúc nhiều bộ mơn có ý thức coi nhẹ mơn văn, có học sinh khơng
được chọn vào đội tuyển các môn tự nhiên, môn anh văn mới chịu vào đội tuyển
văn.
7.2.3 Số liệu thống kê:

Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi qua
một số năm học như sau:
Từ 2007 – 2008 đội tuyển là 10 em nhưng chỉ đạt 2 giải khuyến khích
Từ 2009 – 2010 đội tuyển 10 em thì chỉ có 3 em đạt giải khuyến khích.
Nhưng sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng học sinh
giỏi từ 2011 đến nay thì kết quả thay đổi rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan khi
tham gia vào đội tuyển ,học tập sơi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả khi
làm bài. Chủ động tích cực trong việc học tập, nghiên cứu trong sự giúp đỡ hướng
dẫn của giáo viên bồi dưỡng. Hàng năm có từ 10-12 em tham gia vào đội tuyển
đều đạt kết quả rất khả quan. Số lượng học sinh giỏi tỉnh tăng rất nhiều so với
trước đây. Liên tiếp trong nhiều năm đều có 4- 6 em đạt giải và đặc biệt đã có giải
nhì , giải ba ... Đó là một điều đáng phấn khởi và khích lệ.
7.3 Nội dung sáng kiến :
7.3.1. Cơ sở lý luận: Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan
trọng, lớn lao, khó khăn nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh
có tố chất đặc biệt khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ, khả
năng tư duy và nhất là khả năng viết. Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi
hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên
lớp ,thậm chí phải có q trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt
hiệu quả và thuyết phục học sinh ,làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng.
Đó là yêu cầu của ban giám hiệu ,lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của
người bồi dưỡng.Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trao dồi rất
nhiều cùng với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được u cầu
của cơng việc.Bỡi vì đặc thù của học sinh giỏi là có những điểm rất khác so với
một học sinh bình thường từ kiến thức, tư duy cho đến việc cảm nhận tác phẩm,kĩ
năng viết v.v...Nghĩa là yêu cầu rất cao và khó khi thực hiện nhiệm vụ này để làm
sao đạt kết quả tốt .Với bề dày thời gian công tác giảng dạy và qua một số năm
bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 tơi nhận thấy có một vài suy nghĩ về kinh nghiệm là
làm sao trong vài tháng ít ỏi mà có thể có được những thành cơng nhất định. Từ
5



các đồng nghiệp và qua trao đổi một số trường, tôi cũng lắng nghe được ý kiến
này, ý kiến khác song chưa thấy có chun đề cụ thể nào trình bày về cơng tác bồi
dưõng học sinh giỏi, hoặc có trình bày ở những chun đề có sự liên quan nhưng
chưa được phân tích đúng mức. Vậy nên với chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra
những suy nghĩ của mình với mong muốn góp phần trao đổi kinh nghiệm, chia xẻ
học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới của
sáng kiến kinh nghiệm .
7,3,2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của sáng kiến :
Biết rằng kiến thức, phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vơ cùng
phong phú , khó có thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu
văn học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khn khổ chuyên đề này
người viết chỉ đưa ra một số nội dung vấn đề mình tự nhận thấy và rút ra được qua
thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi. Nội dung của chuyên đề cụ thể như sau:
- Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách và yêu
cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác.
- Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải có
tinh thần tự học, tự vận động là vấn đề quan trọng trong thời gian bồi dưỡng. Giáo
viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học sinh.
- Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một
cuốn vở riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà
thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay của
nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo
viên bồi dưỡng.
- Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để giúp
học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng.
- Chọn lọc một số đề thi qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, có thể đề thi tòan quốc
qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề nắm yêu cầu đề
ra, định hướng ,lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận.

- Ra đề và làm trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian ấn định.
Giáo viên chấm, phát hiện những ưu và nhược điểm của mỗi học sinh. Chữa lỗi bài
làm của học sinh cẩn thận, đầy đủ. Giúp học sinh thấy và phát huy những mặt tốt
và khắc phục được những điểm còn hạn chế.
6


*. Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách và
yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác.
Sau khi đã tuyển chọn, lập đội tuyển học sinh giỏi, thời gian bồi dưỡng còn
hơn 2 tháng là đến ngày thi. Nhưng nếu xác định trước những học sinh sẽ vào đội
tuyển lớp 12 từ cuối năm 11, từ khi nghỉ hè thì giáo viên sẽ hướng dẫn cho học
sinh các lọai sách, tên sách để học sinh tìm đọc hoặc cho học sinh muợn đọc một
số sách cần thiết mà giáo viên có hoặc là mượn và trao đổi cùng các đồng nghiệp.
Đối với một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến thức phải thực sự phong phú và sâu
rộng thì các em mới chủ động ,mạnh dạn và phóng túng trong làm bài. Kiến thức
mỏng và nghèo nàn thì không thể tránh khỏi những lúng túng,ngập ngượng trong
bài viết. Các sách này có thể là các tác phẩm văn học của các tác giả lớn mà các
em đã được học chính khóa nhưng cần phải đọc nhiều ,biết rộng hơn rất nhiều so
với nội dung học ở sách giáo khoa. Chẳng hạn như khi học Nam Cao, một học sinh
giỏi văn khơng chỉ biết tác phẩm Chí Phèo, Đời Thừa, Lão Hạc mà cần phải đọc
rộng và am hiểu thêm nhiều truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám
và cả sau cách mạng tháng tám. Ngòai việc nắm và cảm thụ tác phẩm văn học học
sinh còn cần phải đọc các sách nghiên cứu lý luận phê bình về văn học mới thực sự
có điều kiện thâm nhập một cách đầy đủ về tác phẩm đó. Ví dụ khi học thơ mới với
các bài thơ Vội vàng, Đây mùa thu tới, Thơ duyên của Xuân Diệu, Tràng giang của
Huy Cận, Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mạc Tử giáo viên không thể không hướng dẫn
học sinh đọc thêm các tập thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, tập thơ
Lửa Thiêng của Huy Cận,các tập thơ của Hàn Mặc Tử và cần đọc kỹ cuốn Thi
nhân Việt Nam của Hòai Thanh – Hòai Chân để học tập, cảm nhận những lời bình

giảng độc đáo, súc tích. Và cịn nhiều những tài liệu nghiên cứu phê bình của các
tác giả nổi tiếng khác về văn học rất giá trị mà học sinh cần phải đọc. Nói tóm lại
khơng đọc hay đọc ít là một hạn chế rất lớn không tránh khỏi đối với một học sinh
giỏi. Đọc nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được nhiều mặt tích cực nhất là ở những học
sinh có ít nhiều năng khiếu văn chương .
Thao tác đọc tác phẩm văn học và các tài liệu nghiên cứu phê bình văn học là
một họat động cực kỳ quan trọng trong yêu cầu của công tác bồi dưỡng. Giáo viên
đặc biệt phải hết sức quan tâm đối với học sinh và phải có cách đôn đốc nhắc nhở,
kiểm tra học sinh để các em có được những kiến thức cần thiết trong quá trình làm
bài. Nếu học sinh chưa có ý thức đọc theo hướng dẫn thì giáo viên bồi dưỡng phải
kiên quyết yêu cầu học sinh đọc.Và giáo viên phải có cách kiểm tra để bắt buộc
7


học sinh đọc và thấy được ích lợi của việc đọc . Vì kiến thức văn học phong phú,
vững vàng là cơ sở và nền tảng đầu tiên để học sinh viết một bài văn tốt.
*. Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải có
tinh thần tự học, tự vận động là vấn đề quan trọng trong thời gian bồi dưỡng. Giáo
viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học
sinh.
Tự ôn và nắm vững lại kiến thức đã học, đã đọc ở các lớp dưới, đặc biệt là học
sinh giỏi 12 phải nắm vững kiến thức về văn học hiện đại ,trung đại ở khối 11 và
kể cả khối 10 .Những kiến thức lớp dưới quan trọng như thơ mới, các tác giả như
là Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng. Kiến thức cơ bản là cái gốc cần thiết
tối thiểu cho học sinh giỏi trước khi muốn học và nghiên cứu những kiến thức có
bề rộng và chiều sâu. Vì thời lượng bồi dưỡng rất hạn chế, giáo viên bồi dưỡng
không thể làm việc được tất cả, nên phần ôn tập lại những kiến thức căn bản đã học
những năm trước thì yêu cầu học sinh phải tự thực hiện. Điều này không khó đối
với một học sinh giỏi. Khi giáo viên yêu cầu học sinh tự ôn tập, làm việc ở nhà thì
giáo viên phải có sự kiểm tra một cách chặt chẽ, thường xuyên xem học sinh đã có

ý thức học tập tốt chưa ? đã thực hiện và nắm các u cầu về kiến thức mà mình
dặn dị chưa ? nếu có học sinh chưa thực hiện đầy đủ, cịn có những lỗ hổng kiến
thức thì giáo viên phải đơn đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học sinh làm
việc.
*. Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một
cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn,
nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay
của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà
giáo viên bồi dưỡng.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép từ trong
sách vở, tài liệu những lời nhận định hay, những đánh giá độc đáo, đặc sắc của
những tác giả tên tuổi về tác phẩm văn học, về vấn đề mang tính lý luận văn học,
hay những câu thơ, đọan thơ, đọan văn hay của nhiều tác giả được góp nhặt, sưu
tầm gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Nội dung này giáo viên có thể
yêu cầu học sinh ghi vào một cuổn tập riêng để các em đọc lại nhiều lần vàghi nhớ.
Những tư liệu này thật quý giá đối với học sinh. Đơi khi các em có những ý tưởng,
suy nghĩ nhưng chưa biết cách diễn đạt nó một cách sắc nét, khúc chiết để tạo ấn
8


tượng cho người đọc. Vì vậy trích dẫn những tư liệu văn học như những câu thơ
hay phù hợp với nội dung vấn đề, những lời nhận định đánh giá hợp lý, đúng chỗ
này sẽ góp phần làm cho bài viết thêm khởi sắc và giàu sức thuyết phục.
Ví dụ như khi dạy chuyên đề về lý luận văn học, cụ thể là về vai trò của văn học
đối với cuộc sống, mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống, vai trò của người nghệ
sĩ trong sáng tác văn chương, giáo viên bồi dưỡng yêu cầu học sinh sưu tầm và
chọn lọc những lời nhận định liên quan đến vấn đề này và tìm được những lời nhận
định có ý nghĩa và giá trị nhất. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số lời
nhận định sau:
- “ Thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”

(Tố Hữu)
- “ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là đích đến của văn học”
( Tố Hữu)
- “ Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”
( PusKin)
- “ Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”
( Biêlinxki)
Và các tun ngơn nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc trong các tác phẩm của Nam Cao
trước cách mạng tháng tám và của các tác giả khác. Ví dụ như:
- “ Nghệ thuật không thể là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối.
Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thóat ra từ những kiếp sống lầm
than vang dội lên mạnh mẽ”
( Trăng sáng - Nam Cao)
- “ Các ông muốn tiểu thuyết cứ thật là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí
hướng với tơi muốn tiểu thuyết phải là sự thật ở đời”
( Vũ Trọng Phụng)
- “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi
tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của chặng đời sống con người
ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hịan thiện”
( Nguyễn Minh Châu)
9


- “ Nghệ sĩ là con người biết khai thác ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy
trong những ấn tượng đó cái giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó
có được hình thức riêng”
( Mácximgorki)
Và những câu thơ chứa đựng ý nghĩa biểu tượng sâu sắc:
- “ Nhà thơ như con ong kết trăm hoa thành một mật
Một mật ngọt thành, vạn chuyến ong bay”

( Chế Lan Viên)
- “ Bài thơ anh, anh làm một nửa
Còn một nửa để mùa thu tự làm lấy”
( Chế Lan Viên)
“Khi tình cảm tự tìm cho nó hình thức thể hiện ra bên ngịai chúng ta có thơ”.
(RabinthatTago)
Và rất nhiều những lời nhận định hay và giá trị khác về văn học, giáo viên giúp
học sinh sưu tầm, ghi chép. Tuy nhiên không phải những lời nhận định hay ý thơ
nào học sinh cũng đều hiểu. Nếu có những nhận định ý kiến nào mà học sinh chưa
hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ thì giáo viên phân tích, giảng giải cho học sinh rõ
những nội dung ý nghĩa của vấn đề.
Những bài làm của học sinh giỏi muốn đạt giải cao thì bài viết phải có nhiều u
cầu khác nhau nhưng nhìn chung phải có phong cách, nét độc đáo và tạo được ấn
tượng riêng, thể hiện được những điều mà học sinh bình thường khơng thể có
được. Vì vậy những lời nhận định đánh giá hay những câu thơ, đọan thơ hay sẽ là
những dẫn chứng lý lẽ thuyết phục như một nốt nhấn, cũng có thể nó là một lời
chốt lại vấn đề hoặc đó là lời dẫn nhập giới thiệu vấn đề tạo khơng khí sinh động
hấp dẫn hơn là cách giới thiệu hay một lời kết bình thường khơng ấn tượng gì mà
thường thấy ở học sinh trung bình và yếu. Ví dụ trong chương trình trước đây khi
bồi dưỡng học sinh giỏi 12 về chuyên đề “ Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh học
sinh sẽ được nắm bắt về hình ảnh Bác qua Nhật ký trong tù nào là một tâm hồn
lớn, một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn.v.v... qua một số bài thơ đã học ở sách giáo
khoa và một số bài thơ khác trong tuyển tập được giáo viên chọn lọc giới thiệu để
học sinh tiếp cận. Nhưng những câu thơ có ý nghĩa khái qt, giàu hình ảnh và ý
10


nghĩa tư tưởng mà giáo viên có thể cung cấp, giảng bình để học sinh cảm nhận sâu
sắc thêm về Bác - người tù vĩ đại qua tập thơ để có thể vận dụng vào bài làm.
Chẳng hạn những câu thơ sau:

- “ Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ Bác viết, vần thơ thép
Mà vẫn mêng mơng bát ngát tình”
( Hịang Trung Thông)
- “ Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gơng cùm
Ơi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
( Tố Hữu)
Những nốt nhấn của những ý thơ như vậy là rất cần thiết cho phong cách trong bài
làm của học sinh giỏi. Thiếu nó bài viết cũng dễ kém phần tươi mát và cũng dễ trở
nên khô khan hoặc đơn điệu nhàm chán trong cách diễn đạt đều đều, buồn tẻ của
học sinh trong biểu đạt suy nghĩ của mình. Đó chỉ là đơn cử một vài ví dụ, cịn lại
là kiến thức mêng mông, rộng lớn mà người giáo viên bồi dưỡng hướng dẫn học
sinh phải có ý thức học tập vận dụng để mang lại một hiệu quả chất lượng, sinh
động cho bài viết.
d. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để
giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng.
Có giáo viên cho rằng bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 thì rất khó đóan được nội
dung của đề ra vì chương trình rất rộng. Biết đề thi sẽ ra ở phần nào mà bồi dưỡng
cho học sinh. Đó chính là sự thật qua đề ra của một số năm, chẳng hạn như đề ra
trong kỳ thi học sinh giỏi vòng tỉnh Vĩnh phúc năm học 2016 – 2017 phần nghị
luận văn học với đề tổng hợp rất rộng :

11


SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC
ĐỀ CHÍNH THỨC


KỲ THI CHỌN HSG LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2016 –2017
ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian giao đề

Câu 1. (3,0 điểm)
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến: Ai cũng là thợ rèn số phận của chính mình.
Câu 2. (7,0 điểm) Cảm hứng về đất nước qua các đoạn trích Đất Nước (trích Mặt
đường khát vọng) – Nguyễn Khoa Điềm, Người lái đị sơng Đà – Nguyễn Tn, Ai đã
đặt tên cho dịng sơng?– Hồng Phủ Ngọc Tường.
(SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2014)

Đáp án đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12
A. YÊU CẦU CHUNG
– Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho
điểm. Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến
khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo.
– Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề,
diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối đa.
– Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm.
B. YÊU CẦU CỤ THỂ
Câu 1 (3,0 điểm)
a. Về kĩ năng:
– Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận dụng tốt các
thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc.
– Bài viết trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b. Về kiến thức:
Học sinh có thể bày tỏ những suy nghĩ khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
Ý


Nội dung

Điểm

1

Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề

0,25

2

Giải thích ý kiến

0,5

– Ai cũng là thợ rèn số phận của chính mình. Người làm nghề chế tạo các 0,25
vật dụng, công cụ sản xuất bằng kim loại. Chịu đựng gian khổ, vất vả,
12


bằng tài năng và kỹ thuật, tình u và lịng kiên trì làm nên những sản
phẩm đẹp và có giá trị sử dụng.
0,25
– Người thợ rèn số phận của chính mình: Mỗi người cần trải qua vất vả,
gian nan để nỗ lực, kiên trì làm nên số phận, nghĩa là cuộc sống, hạnh
phúc của chính mình. Mỗi người tự làm mới mình để cuộc đời mình thêm
giá trị, để sống tốt và hữu ích.
3


Bàn luận, mở rộng vấn đề

1,75

– Người thợ rèn lựa chọn công việc nặng nhọc, đối mặt với lửa đỏ, nước
lạnh, dùng nhiều sức lực để tạo nên nhiều sản phẩm to nhỏ, tinh xảo và vô
cùng giá trị cho con người. Cơng việc địi hỏi sức khỏe, sự dẻo dai, nghị
lực và đam mê của người thợ. Nhưng để có sản phẩm tuyệt vời hơn người
khác, thợ rèn cịn cần chút khéo léo, bí quyết gia truyền và nhiệt huyết. Từ
một miếng sắt thô sơ, nhờ quyết tâm và chí hướng, người thợ rèn đã chế
tạo được cây kim nhỏ bé, cây dao,…vơ cùng tiện ích và tinh xảo sống mãi
với con người và thời gian. Thợ rèn làm nên những số phận các vật dụng
đủ kích cỡ và chủng loại, đủ hình thù và chất liệu, đủ công năng thiết yếu
cho con người. Người thợ giỏi sẽ làm ra sản phẩm tốt nhất, dùng được lâu
nhất.
– Con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành trải một quá trình lâu dài.
Chịu nhiều tác động bên ngồi tự nhiên và xã hội, con người tự hình thành
và phát triển theo bản năng giống nòi. Số phận và tương lai của mỗi người
lại phụ thuộc vào chính suy nghĩ, hành động và mục đích sống của chính
bản thân. Mỗi người lại chính là người thợ rèn số phận của mình. Con
người tự làm nên và quết định mình là ai và mình có cuộc sống thế nào,
tương lai thế nào?
– Người nghĩ đúng và làm đúng như người thợ rèn, chịu đựng và chấp 0,25
nhận tất cả nóng, mệt, gian khổ và khó khăn để quai búa mãi, cắt gọt mãi
cuối cùng sẽ làm nên một sản phẩm ưng ý, hữu ích. Người nào dám đương
đầu với cực nhọc, vất vả và khó khăn để tự rèn luyện, để chấp nhận đau
đớn và khổ sở, chấp nhận thử thách để tạo cho mình những hiểu biết, khả
năng thích nghi và nghị lực sống, người đó sẽ thành công, sẽ đủ bản lĩnh 0,25
tận hưởng chiến thắng. Họ tự làm nên số phận và hạnh phúc theo ý muốn
nên thật tuyệt vời.

1,0
– Người mau chóng nản lịng và bng xi, đầu hàng khó nhọc, nhụt chí
và trơng chờ may rủi số phận, cuối cùng anh ta chỉ làm nô lệ cho cuộc đời
nhàm chán và không hạnh phúc. Số phận của người sống thỏa hiệp, bằng
13


lịng với những gì sẵn có, nhàn nhã và êm đềm suốt cuộc đời. Hạnh phúc
nhỏ bé, tầm thường.
– Người chấp nhận lao vào gian khổ thử thách, hăng hái rèn luyện nhưng
lại thiếu kiên trì, thiếu cần cù và quyết tâm, hay nản chí và dễ bỏ dở nửa
chừng sẽ không thể làm được sản phẩm tốt, sẽ làm cuộc đời mình thêm
khổ và rắc rối. Người thợ rèn thiếu ham mê và khơng đủ lịng tin sẽ biến số
phận của mình thành sản phẩm dở dang bi quan và mệt mỏi, hạnh phúc trở
nên mỏng manh.
– Mỗi người có một số phận và con đường đến tương lai khác nhau. 0,25
Nhưng số phận đó, con đường đó là do chính tự bản thân mình lựa chọn và
quyết định. Trong cuộc sống, bất kể ai sống và làm việc cũng phải ln có
cái tâm, làm điều ác thì cuối cùng cũng phải trả giá. Khi làm bất cứ việc gì
cũng phải cần cù, kiên nhẫn…Chính chúng ta là người thợ rèn làm nên
cuộc sống của mình.
4 Bài học nhận thức và hành động

0,5

– Việc tự rèn luyện, tự đổi mới để trở thành người có ích và hạnh phúc.

0,25

– Yếu tố quan trọng, quyết định là ở mỗi người, ở việc trau dồi ý thức làm 0,25

người. Các yếu tố xã hội, môi trường tự nhiên…đều cần thiết.
Câu 2 (7,0 điểm)
a. Về kĩ năng:
– Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Biết cách phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.
– Bài viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, khơng mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b. Về kiến thức:
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
Ý

Nội dung

Điểm

1

Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề

0,5

2

Giải thích

1,0

Giải nghĩa ý kiến: (0,75 điểm)
– Cảm hứng thể hiện những tâm trạng, tâm lí, cảm xúc, tình cảm rung 0,25
động trước một hiện thực trong cảnh huống xác định. Cảm hứng trong
sáng tác văn học là cảm xúc và hứng thú, tạo điều kiện để óc tưởng tượng,

sáng tạo, khám phá những giá trị của đời sống và con người.
14


– Cảm hứng về đất nước trong văn học chính là những rung cảm, những 0,25
hiểu biết, những niềm vui tự hào, ngợi ca và xót xa đau thương về quê
hương, đất nước Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
– Văn học Việt Nam hiện đại thế kỷ XX đã thể hiện thành công cảm hứng
0,25
về đất nước trong nhiều tác phẩm. Các nhà thơ, nhà văn đã bày tỏ chân
thành cảm xúc về chiều sâu văn hóa, về lịch sử cội nguồn, về danh thắng
và vẻ hùng vĩ tươi đẹp của xứ sở quê hương.
– Các tác phẩm Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Người lái đị sơng Đà
của Nguyễn Tn, Ai dã đặt tên cho dịng sơng?của Hồng Phủ Ngọc
0,25
Tường tuy khác nhau về thể loại nhưng đã góp phần làm sâu sắc thêm cảm
hứng về đất nước Việt Nam.
3

Phân tích, bình luận qua 3 tác phẩm.

5,0

(Thí sinh có thể so sánh trên nét chung và riêng hoặc theo từng tác phẩm)
a. Những sự gặp gỡ cảm hứng về đất nước trong 3 tác phẩm (2,0 điểm)
(Cách này bài viết ngắn gọn và hấp dẫn nhưng đòi hỏi kỹ năng tổng hợp
và khái quát tốt)
– Cảm hứng về đất nước mang tư tưởng mới, cách nhìn mới và hiện đại.
Ra đời trong thời kỳ chủ nghĩa yêu nước mang âm hưởng chủ nghĩa anh
hùng cách mạng cuối thế kỷ XX. Đất nước được khám phá rộng lớn và

toàn diện hơn, sâu sắc hơn.

1,0

+ Bức tranh chân thực về thiên nhiên hùng vĩ nhưng vô cùng trữ tình, thơ
mộng. Chiều dài chiều rộng, quá khứ hiện tại và tương lai, cảnh đẹp và
giàu có với dịng sông Đà, sông Hương, với danh thắng từ Bắc vào Nam đí
đâu cũng thấy. Cảm hứng khám phá và ngợi ca bao trùm các chi tiết hình
ảnh và ngơn ngữ.
+ Bức tranh về lịch sử hào hùng, oanh liệt. Mỗi tác phẩm đều khơi lại cảm
xúc vừa đau thương vừa tự hào về lịch sử dụng và giữ nước. Nguyễn Tuân
vẽ lại cuộc kháng chiến chống Pháp vẻ vang, dựng lại những con thuyền
đuôi én thời Lý Trần; Nguyễn Khoa Điềm tái hiện 4000 năm lịch sử;
Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn sơng Hương với truyền thống lịc sử văn hóa
cố đô và đánh giặc ngoại xâm…
– Tác phẩm nào cũng tràn đầy cảm xúc yêu thương, tự hào; tràn đầy nguồn
cảm xúc nên giàu hình ảnh, nhạc điệu; giàu triết lý suy tưởng; giàu sức gợi
cảm và lôi cuốn. Mỗi tác phẩm như bức tranh lụa đẹp rực rỡ sắc màu và
15

1,0


đường nét được vẽ tạo bằng thứ ngôn ngữ văn chương tài hoa nghệ thuật.
Giá trị nội dung và nghệ thuật của ba tác phẩm viết về đất nước rất lâu dài.
+ Đất nước trừu tượng trở nên gần gũi và thân thiết, gắn bó với mọi người
b. Những phát hiện và sáng tạo khi viết về đất nước của mỗi tác phẩm: (2,0
điểm). TS thể hiện hiểu biết về tác phẩm gắn với cảm hứng về đất nước.
– Tùy bút Người lái đị sơng Đà đã lấy cảm hứng về con sơng Đà thơ
mộng trữ tình và hung bạo để khai thác đề tài về quê hương đất nước.Nhà

văn đễ khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc, thứ vàng
mười đã qua thử lửa theo thủy trình với vẻ đẹp hoang sơ và dữ dội. Những
ghềnh thác, hút nước trên sông; những bờ bãi như nỗi niềm cổ tích ấu thơ;
những cảnh đẹp nên thơ được nhìn từ nhiều góc độ và suy tưởng đan xen
quá khứ, hiện tại và cả tương lai tạo nên dịng sơng…như một cố nhân,
như người đàn bà kiều diễm với mái tóc trữ tình làm nên trang sử vàng của
miền Tây tổ quốc…Người lái đị trí dũng và người nghệ sĩ chinh phục thác
dữ, chinh phục thiên nhiên và gắn bó đời đời với con sơng Đà. Trang văn
câu từ mượt mà, sống động và vốn hiểu biết phong phú, cùng với tài năng,
tâm huyết của nhà văn bậc thầy thể tùy bút đã góp phần làm sống dậy tình
yêu và niềm tự hào về đất nước và con người nơi đây.(dẫn chứng chọn lọc,
minh họa)

1,0

1,0

– Chương V của trường ca Mặt đường khát vọng được viết trong những
năm tháng ác liệt của chiến trường Bình Trị Thiên lại khám phá Đất Nước
theo cảm nhận của người thanh niên thời đại mới gắn với câu chuyện tình
u lứa đơi. Đất nước bắt đầu với những gì quen thuộc và bình dị, thân
thương và thiêng liêng suốt chiều dài lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ
nước. Sự mới lạ và độc đáo khi khám phá đát nước chính là tư tưởng đất
nước của nhân dân, của ca dao thần thoại, của cá nhân góp tài năng và sức
lực làm nên dáng hình xứ sở với bao nhiêu tình yêu mến thương…Cảm
hứng trữ tình riêng tư hịa hợp với cảm hứng chính trị, chương Đất Nước
đã có nhiều phát hiện thú vị trên nhiều phương diện địa lý, phong tục, lịch
sử và văn hóa dân gian. Ngơn ngữ chính luận trở nên mềm mại, chất tự sự
kết hợp cảm xúc chân thành, đằm thắm; hình ảnh thơ lạ và thể thơ tự do
tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn lớp thanh niên miền Nam vùng tạm chiếm

nhờ sắc điệu tình u lứa đơi hịa quyện tình u tổ quốc. Hạnh phúc của
anh và em chính là trách nhiệm đấu tranh giải phóng quê hương, xây dựng
đất nước giàu đẹp, bền vững. .(dẫn chứng chọn lọc, minh họa)
– Bút ký Ai đã đặt tên cho dịng sơng? đã góp thêm và hoàn thiện cảm
16

1,0


hứng về đất nước. Áng văn xuôi lung linh sắc màu ngơn từ nghệ thuật,
giàu hình ảnh và nhạc điệu thể hiện tình u và tự hào về dịng sơng
Hương. Nhà văn đã rút ruột tình cảm riêng với con sơng vang bóng chảy
qua cố đơ cổ kính và linh thiêng của các triều đại phong kiến để trở về với
hiện tại soi hình dáng cầu Trường Tiền. Người khách thảng thốt về tên con
sông đẹp và quyến rũ từ thượng nguồn uốn lượn, hiền hòa với những
đường cong mềm mại, tình từ như người con gái trẻ trung chảy qua lăng
tẩm cổ xưa và màu xanh cây trái. Cảm hứng tự hào về dòng Hương giang
đẹp được tay bút hào hoa, viết bằng cả trái tim thể hiện trong lối văn
phóng khống, trong cảm xúc trữ tình và liên tưởng tình tứ bất ngờ. .(dẫn
chứng chọn lọc, minh họa)
4

Đánh giá, nâng cao vấn đề

0,5

– Cảm hứng về đất nước trở thành cảm hứng lớn và mãnh liệt đã được thể
hiện sinh động và hấp dẫn trong nhiều sáng tác văn học cách mạng sau
1945.
– Ba tác phẩm (…) giàu chất nhạc, chất họa, thể hiện tài năng của các tác

giả trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật để khám phá vẻ đẹp mới lạ và
thiêng liêng về đất nước.
– Bài học về trách nhiệm người cầm bút và người tiếp nhận khi thể hiện
tình yêu đất nước, con người và cuộc sống.

Và đây là đề thi học sinh giỏi tỉnh Đồng Nai năm 2009 :
“ Sự gặp gỡ tuyệt đẹp của tâm hồn và khí phách Việt Nam giữa Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)”.
Đề ra như vậy thì rất nhiều giáo viên và học sinh thật bất ngờ, bởi nhiều năm liền
trước đây ít khi nào thi học sinh giỏi tỉnh ở Đồng Nai và ở các tỉnh khác cũng như
thi học sinh giỏi tòan quốc bằng nội dung của văn học trung đại. Bởi vậy xác định
nội dung ôn tập cho học sinh cũng là điều rất khó khăn của người tham gia bồi
dưỡng. Điều lo ngại nhất là sợ nội dung ôn tập bồi dưỡng cho học sinh lại không
đúng với đề ra. Tuy vậy mỗi giáo viên bồi dưỡng đều phải có định hướng về kiến
thức gắn với những chuyên đề ôn tập cụ thể để giúp học sinh ơn tập có hiệu quả.
Điều đó phụ thuộc vào suy nghĩ của từng giáo viên. Có giáo viên chọn và xóay sâu
vào chuyên đề này mà khai thác chưa kỹ ở chuyên đề khác, hoặc cho rằng những
chuyên đề kia là không quan trọng nên không nhắc nhở học sinh chú ý. Tuy nhiên
theo tôi dù bồi dưỡng như thế nào giáo viên cũng phải chọn ra một số chuyên đề
17


mà mình cho là quan trọng nhất có thể quy tụ những nội dung kiến thức lớn và bao
quát để học sinh nắm bắt. Kinh nghiệm bồi dưỡng trong những năm qua theo tôi
thấy là như vậy và đã áp dụng vào trong thực tế bồi dưỡng. Cụ thể là một số
chuyên đề mà tôi đã hướng dẫn học sinh trong q trình học tập như sau:
Ví dụ như chun đề về Nam Cao và những sáng tác của Nam Cao. Điều đầu tiên
như đã nói ở phần trên là học sinh phải đọc rộng, nắm bắt những kiến thức về tác
phẩm của Nam Cao, hiểu và cảm nhận về nó cùng với việc đọc những tài liệu
nghiên cứu phê bình về Nam Cao đó là bước thứ nhất. Sau đó giáo viên định

hướng cho học sinh về hai mảng sáng tác lớn của Nam Cao trước cách mạng tháng
tám đó là đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nông dân gắn với những tác
phẩm cụ thể. Người trí thức thì sống mịn mỏi, tha hóa về nhân cách, người nơng
dân thì sống nghèo khổ, lầm than và sa vào bần cùng hóa, lưu manh hóa. Trên cơ
sở những nội dung đó giáo viên có thể giúp học sinh khai thác phân tích những
hình tượng nhân vật trong các truyện ngắn của Nam Cao để học sinh hiểu và nắm
bắt kỹ nội dung của vấn đề. Hoặc giáo viên cũng có thể cho học sinh tiếp xúc với
những đề ra gắn với Nam Cao để học sinh vừa có điều kiện hiểu đề, phân tích đề
và đi vào nắm bắt những kiến thức về sáng tác của Nam Cao ứng với một đề văn
cụ thể. Chẳng hạn như giáo viên có thể dùng một số đề ra của những năm trước về
Nam Cao để kích thích học sinh làm việc một cách tịan diện. Ví dụ như đề văn
sau:
Viết về Nam Cao, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hòang Khung viết:
“ Một điểm đặc sắc của ngòi bút Nam Cao là từ những sự việc rất tầm thường,
quen thuộc trong đời sống hàng ngày đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to
lớn”.
Bằng những hiểu biết về tác phẩm Nam Cao, anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Hay một đề văn khác xóay sâu vào nội dung ý nghĩa của tác phẩm Chí Phèo của
Nam Cao:
“ Bình luận về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nhà văn Nam Cao,
có nhà phê bình cho rằng: Chí Phèo vừa là một gã mất trí, vừa là đầu óc sáng sủa
nhất của làng Vũ Đại”.Ý kiến của anh chị như thế nào ? Từ truyện ngắn này của
Nam Cao hãy làm sáng tỏ ý kiến của mình.
Với các đề ra như vậy hướng vào chuyên đề sẽ kích thích học sinh làm việc và tư
duy một cách tòan diện và đặc biệt là động não rất nhiều vào các tác phẩm của
18


Nam Cao. Đó cũng là cách củng cố, khắc sâu kiến thức về chuyên đề quan trọng
mà giáo viên có ý định hướng cho học sinh học tập.

Hay một chuyên đề khác khơng thể bỏ qua trong q trình bồi dưỡng học sinh giỏi
lớp 12 đó là chuyên đề về thơ mới. Với chuyên đề này giáo viên yêu cầu học sinh
đọc trước các tác giả, tác phẩm thơ mới và đặc biệt chú ý các tác giả lón như Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư. Sau đó giáo
viên có thể từng bước đi vào định hướng cho học sinh tìm hiểu các khía cạnh quan
trọng của thơ mới như cái tơi cá nhân, cái buồn vạn thuở, tình u đơi lứa say đắm
mãnh liệt, cuống quýt vội vàng, nghệ thuật dùng từ, viết câu, âm điệu trong thơ
mới .v.v... Những nội dung đó được giáo viên phân tích khai thác qua một số tác
phẩm thơ đã được học trong nhà trường phổ thông và những tác phẩm học sinh
chưa được học. Cũng tương tự như chuyên đề về Nam Cao giáo viên có thể chọn
lọc một số đề về Xuân Diệu – tác giả lớn nhất trong thơ mới và các tác giả khác để
học sinh tìm hiểu và có điều kiện thâm nhập sâu vào sáng tác của tác giả. Giáo
viên có thể gợi một số đề sau:
Ngay từ năm 1941 tác giả thi nhân Việt Nam đã đánh giá: “ Xuân Diệu mới nhất
trong các nhà thơ mới”. Ý kiến của anh (chị) về nhận định trên. Phân tích một số
đọan thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám để làm rõ ý kiến của anh (chị).
Hay cũng một đề khác về Xuân Diệu: “ Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian mới
trở thành nỗi ám ảnh. Thời gian trong thơ ông không chỉ là cảm xúc,là thi hứng mà
còn là nhân tố kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói Xn Diệu nhìn đời
bằng con mắt của thời gian. Chất Xuân Diệu phong cách thơ ông là ở đó” ( Đỗ Lai
Thúy - Con mắt thơ, nhà xuất bản giáo dục 1997)
Anh ( chị) hãy làm rõ ý kiến trên qua việc phân tích một số bài thơ của Xuân Diệu
trước cách mạng tháng tám.
Hay một đề nữa về sáng tác của Xuân Diệu:
“ Xuân Diệu cung cấp nhiều vật liệu mới để xây dựng nên nền thơ ca Việt Nam”
Anh (chị) hãy phân tích ba bài thơ: Thơ Duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng để làm
sáng tỏ nhận định trên.
Hoặc một ví dụ khác về tác giả Huy Cận:
Hãy phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.


19


Nêu những đề như vậy sẽ giúp học sinh định hướng, phân tích đề, đặc biệt là tìm ý,
lập dàn ý cho một đề ra. Như thế là học sinh đã đi vào tìm hiểu khai thác có chiều
sâu sáng tác của tác giả Xuân Diệu và các tác giả khác. Trên cơ sở nắm bắt và hiểu
của học sinh giáo viên sẽ đi vào giảng giải, phân tích những điểm nội dung mà học
sinh không hiểu hoặc hiểu chưa sâu sắc đúng mức. Làm như vậy sẽ giúp các em
thâm nhập, nắm bắt và củng cố kiến thức một cách tự nhiên thỏai mái và rất có
hiệu quả.
Một chuyên đề nữa mà người viết muốn nói ở đây đó là chuyên đề Nhật ký trong
tù theo chương trình cũ trước đây. Với nội dung chuyên đề này giáo viên đề nghị
học sinh phải đọc qua tập Nhật ký trong tù với một trăm mấy chục bài thơ và xác
định nội dung chính, trọng tâm trong tác phẩm. Với sự hiểu, tìm tịi và phát hiện
của học sinh, giáo viên có thể chốt lại những nội dung trọng tâm và yêu cầu học
sinh lưu ý như sau:
Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn, tình cảm lớn, một trí tuệ lớn, một nhân cách
lớn, một phương pháp sáng tác mới .v.v...Cụ thể hóa những nội dung này giáo viên
có thể cho học sinh chọn một số những bài thơ tiêu biểu, cảm nhận và phân tích.
Giáo viên trên cơ sở đó phân tích bổ sung để học sinh hiểu và hướng vào những
nội dung trọng tâm mà giáo viên đã định hướng.
Ví dụ như các bài thơ: Chiều tối, Giải đi sớm, Mới ra tù tập leo núi là những bài
thơ được học ở sách giáo khoa chứa đựng một nội dung sâu sắc, giàu ý nghĩa làm
nội bật được chân dung của một người tù vĩ đại. Giáo viên cần giảng bình kỹ và
sâu cùng chọn lọc với một số bài thơ khác như Vãn Cảnh, Ngắm Trăng, Lai Tân,
Không ngủ được để minh họa thêm cho học sinh và yêu cầu học sinh học thuộc và
hiểu một số bài thơ quan trọng khác trong tập thơ. Ngòai ra giáo viên còn gợi mở
cho học sinh một số đề làm văn xoay quanh tác phẩm Nhật ký trong tù để học sinh
rèn luyện và khắc sâu kiến thức.
Còn rất nhiều những chun đề khác mà khơng thể nói hết ở đây. Chẳng hạn như

chuyên đề về lý luận văn học cũng có thể chia thành nhiều chuyên đề nhỏ mà giáo
viên cần có phương pháp phù hợp giúp các em học tập. Chỉ đơn cử một vài ví dụ
như vậy. Các chuyên đề khác cách thức tiến hành có thể có nhiều điểm là tương tự
như các chuyên đề trên.

20


e. Chọn lọc một số đề thi qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, có thể đề thi tịan quốc
qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề nắm yêu cầu đề
ra, định hướng lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận.
Có kiến thức văn học và kỹ năng viết là cần thiết trong một bài văn nghị luận,
nhưng điều đó chưa đủ những yếu tố để đảm bảo thành công trong một bài viết.
Điều quan trọng trong một bài văn nghị luận là học sinh phải xác định được yêu
cầu của đề ra, định hướng, tìm ý và lập được dàn ý. Có những học sinh tuy có kiến
thức văn học rất phong phú nhưng khả năng phân tích và hiểu đề chưa tốt cũng rất
dễ dẫn đến việc lạc đề, viết tản mạn, lan man không hướng vào yêu cầu của đề ra.
Đây là vấn đề thường thấy trong việc làm văn của học sinh nói chung và của học
sinh giỏi nói riêng.
Vậy để rèn luyện cho học sinh giỏi trong công tác bồi dưỡng về kỹ năng này, giáo
viên có thể chọn một số đề thi học sinh giỏi trước đây để giúp học sinh luyện tập.
Ví dụ đây là một đề về lý luận văn học:
“ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học”
Anh ( chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên.
Đứng trước một đề ra như vậy, giáo viên cho học sinh khỏang 30 phút để tìm ý, lập
dàn ý. Sau đó giáo viên u cầu vài em trong đội tuyển trình bày cách hiểu đề và
dàn ý của mình, rồi từ đó u cầu các em cịn lại có ý kiến bổ sung, cuối cùng giáo
viên khẳng định những ý đúng và cần thiết đối với yâu cầu đề trên và có thể định
hướng cho các em một dàn ý sơ lược.
- Giải thích từ ngữ, khái niệm: Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến của

văn học.
+ “Cuộc đời”: Là hiện thực cuộc sống, xã hội, con người.
“Nơi xuất phát”: Nguồn gốc của văn học.
Như vậy hiện thực cuộc sống là mảnh đất màu mỡ cung cấp đề tài, cảm hứng cho
nhà văn.
Chứng minh các điều đó qua một số ý kiến của những nhà thơ, nhà văn lớn như
Nguyễn Du: “Tôi học ở những người hái dâu, chăn tằm, trồng gai, dệt vải ”( Thôn
ca sơ học ma tang ngữ). Cịn GorKi thì nói: “ Trong lĩnh vực sáng tạo thi ca khơng
có nhà thơ nào lớn hơn nghệ sĩ dân gian”, “ Ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói
ngun liệu cịn ngơn ngữ văn học được bàn tay người thợ nhào luyện”.
21


+ Cuộc đời là đích đến của văn học:
Văn học bắt nguồn từ cuộc sống nhưng cũng phải quay lại phục vụ cuộc sống,
phục vụ con người. Văn học sẽ khơng là gì nếu nó khơng vì con người mà có ->
Văn học phải vì nhân sinh. Cái đích cuối cùng của văn học là làm cho cuộc sống
đẹp hơn, và văn học phải đấu tranh vì cuộc sống.
- Giải thích tại sao ?
+ Văn học do con người sinh ra, vì con người phục vụ. Con người ln sống trong
hiện thực cuộc sống sinh động, phong phú với đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống.
+ Văn học phải có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống. Muốn phản ánh được cuộc sống
thì nhà văn khơng thể thóat ly mà phải đi vào cuộc sống để khám phá, tìm tịi, sáng
tạo. Phản ánh chân thực cuộc sống thì nhà văn mới sáng tạo được những tác phẩm
là tấm gương phản chiếu cuộc đời.( Thơ trước hết là đời sau đó mới là nghệ thuật)
- Bình luận:
+ Khẳng định cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học. Đó là
một chân lý có tính chất phổ quát trong lịch sử văn học từ xưa đến nay.
+ Phê phán khuynh hướng văn học thóat ly hiện thực, xa rời hiện thực, nghệ thuật
vị nghệ thuật, thứ văn chương làm xiết ngôn từ, chỉ chú trọng về câu chữ không

phục vụ nhân sinh, dẫn con người vào bế tắc.
- Chứng minh:
+ Nguyễn Trãi nếu khơng có những năm tháng sống ở “ Góc thành nam lều một
gian” và 10 năm cùng Lê Lợi nếm mật nằm gai ở rừng núi Lam Sơn trong những
ngày gian khổ chống quân Minh thì khơng thể có án thiên cổ hùng văn Bình ngơ
đại cáo.
+ Nguyễn Du nếu khơng có 15 năm gió bụi cùng với những câu ca dao ni dưỡng
tâm hồn từ thuở thiếu thời thì khơng thể có một truyện Kiều tuyệt tác.
+ Các nhà văn, nhà thơ hiện đại Việt Nam đều chủ trương: sống đã rồi hãy viết
hoặc sống và viết ( Nam Cao, Nguyễn Tuân, Hồ Chí Minh). Nhà văn phải sống với
nhân dân, lấy cảm hứng cho đời từ nhân dân. Điều đó đã chứng minh qua thực tế
văn học là các nhà văn hiện đại Việt Nam đã một thời cùng nhân dân đi vào thực
tiễn cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ và xây dựng đất nước.

22


Lập một dàn ý như thế là tập cho học sinh có ý thức khi tiếp cận và phân tích một
đề ra. Từ việc hiểu nội dung ý nghĩa yêu cầu của đề, đến các thao tác lập luận cần
sử dụng cho từng đề văn, các ý cần phải có trong từng trường hợp đề bài cụ thể. Từ
đó học sinh có thể linh họat sáng tạo áp dụng khi tiếp xúc với một đề văn cụ thể
nào đó. Lấy ví dụ về một đề văn khác:
“ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi
tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của những chặng đời sống con
người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hịan thiện” ( Nguyễn Minh Châu)
Anh ( chị ) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên.
Cũng từ sự làm việc của học sinh, giáo viên trên cơ sở đó bổ sung và định hướng
cho học sinh về hướng xác định yêu cầu, nội dung của đề ra.
* Về yêu cầu đề: thao tác giải thích + bình luận là chính.
Những ý chính cần xác định là:

- Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là cuộc sống con
người có nghĩa là như thế nào ?
+ Có nghĩa là văn học và cuộc sống không tách rời nhau mà xuất phát từ một tâm
điểm.
+ Văn học và cuộc sống là hai vịng trịn đồng tâm nhưng khơng trùng nhau về
đường nét -> có thể nói văn học là vịng trịn nhỏ hơn nằm trong lòng cuộc sống
( Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi) -> Cuộc sống cung
cấp nguồn nhựa sống cho văn học, văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống.
+ Tâm điểm của văn học là con người -> Văn học do con người sáng tạo ra cũng
phải vì con người mà phục vụ. Vì con người là trung tâm của vũ trụ ,của cuộc đời
( Tất cả ở trong con người ,tất cả vì con người .Con người hai tiếng ấy vang lên
kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao ! ) -( Gorki ), con người là nét tinh túy nhất của
cuộc sống -> nên con người là trung tâm của tác phẩm văn học trên những trang
thơ, truyện ngắn, kịch hay là những tác phẩm đồ sộ, những tiểu thuyết.
+ Dùng những dẫn chứng văn học để chứng minh văn học xuất phát từ cuộc sống
và tâm điểm của văn học là con người ( qua một số những tác phẩm truyện, tiểu
thuyết, kịch trong văn học Việt Nam và văn học nước ngoài để làm sáng tỏ các
luận điểm đó.
23


- Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống
con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hòan thiện nghĩa là như thế
nào ?
+ Hầu hết những nhà văn trên thế giới đều khai thác một mảng nhỏ của đời sống.
( Nam Cao với cái đói, cái rét và sự bần cùng hóa, lưu manh hóa của người nơng
dân)
+ Có những nhà văn cá biệt -> ngịi bút của họ có thể phản ảnh cuộc sống với tầm
vóc sâu rộng của nó trên trang viết ( Ban zăc với bộ tấn trò đời, Lỗ Tấn với AQ
chính truyện, VichtohuyGo với Những người khốn khổ). Cịn lại đa số là các tác

phẩm là những lát cắt từ hai vòng tròn đồng tâm khổng lồ là văn học và đời sống.
+ Tất cả những “lát cắt” của văn học ấy cuối cùng đều dẫn đến người ta đến cõi
hòan thiện -> như vậy tác phẩm văn học mới thật sự là chân chính , nó sẽ tồn tại
qua thời gian ( chức năng giáo dục của văn học). Con người sẽ soi lại mình qua tác
phẩm văn học, nhận ra lẽ đúng sai, thật giả và sẽ sống tốt hơn. Văn học sẽ đưa con
người đến chân, thiện, mỹ.
+ Dùng một số tác phẩm văn học để chứng minh “ Văn học chân chính có khả
năng nhân đạo hóa con người” chẳng hạn như Truyện Kiều, các truyện ngắn của
Nam Cao, truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân, Vợ chồng A Phủ của Tơ Hịai ,văn
học nước ngồi .v.v... Phân tích ý nghĩa nhân đạo của các tác phẩm trên có thể tác
động vào tình cảm, đạo đức của con người àlà hành trình đi tìm cõi hịan thiện của
con người .
Trong những năm gần đây đề thi học sinh giỏi tỉnh có thêm một câu nghị luận xã
hội. Vì vậy giáo viên bồi dưỡng cũng cần phải chọn lọc những đề nghị luận xã hội
hay và có ý nghĩa sâu sắc để giúp học sinh học tập. Ví dụ như đề sau:
Thơng qua đọan trích trong tác phẩm “ Mẹ yêu con” trong tập (Trái tim người mẹ NXB trẻ). Anh ( chị ) suy nghĩ gì về tình mẫu tử trên cõi đời này:
“ Mẹ yêu con nên mẹ nói khơng trước những địi hỏi vơ lý của con, dù mẹ biết con
sẽ ghét mẹ về điều này. Đó là cuộc đấu tranh gian khổ nhất trong chặng đường làm
mẹ của mẹ. Nhưng mẹ hạnh phúc khi thấy con thành đạt trong cuộc sống”
Hay một đề khác về nghị luận xã hội:
“ Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”
24


×