Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Giáo dục quyền con người cho sinh viên trong các trường đại học tư thục ở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.16 KB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN QUỐC TRƢỞNG

GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI CHO SINH
VIÊN TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC TƢ
THỤC Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN QUỐC TRƢỞNG

GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI CHO SINH
VIÊN TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC TƢ
THỤC Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN QUỐC SỬU

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh
tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính
Quốc gia.
Vậy, tôi viết bản cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia
xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Quốc Trưởng


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cơ hiện đang cơng tác tại Học viện
Hành chính Quốc gia và các thầy cô giảng dạy lớp LH2.B1 đã tạo điều kiện
tốt nhất cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trƣờng.
Xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu, ngƣời thầy
kính mến đã hết lịng quan tâm, giúp đỡ tận tình, hƣớng dẫn nghiên cứu tạo

điều kiện cho tơi hồn thành luận văn.
Xin đƣợc cảm ơn các đồng chí, đồng nghiệp tại Trƣờng Đại học Thăng
Long (Hà Nội) và bè bạn đã giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện nghiên cứu
đề tài.
Xin phép gửi lời cảm ơn Ban Giám đốc Học viện, Ban lãnh đạo khoa
Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình vừa học tập và
nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Tác giả

Nguyễn Quốc Trưởng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1 . CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM......................................10
1.1. Nhận thức chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời.....10
1.2. Liên hợp quốc với vấn đề giáo dục quyền con ngƣời..............................27
1.3. Sự cần thiết của hoạt động giáo dục quyền con ngƣời trong hệ thống các trƣờng

đại học ở việt nam........................................................................................... 33
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI CHO
SINH VIÊN TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC TƢ THỤC Ở THÀNH
PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY..............................................................................44
2.1. Bối cảnh chính trị, pháp lý cho hoạt động giáo dục quyền con ngƣời nói chung,

cho sinh viên đại học nói riêng ở nƣớc ta hiện nay........................................ 44
2.2.tổng quan về hoạt động giáo dục quyền con ngƣời trong các trƣờng đại học ở

việt nam 52

2.3. Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời cho sinh viên trong các trƣờng đại học

tƣ thục ở thành phố hà nội.............................................................................. 57
2.4. Nhận xét về hoạt động giáo dục quyền con ngƣời cho sinh viên trong các
trƣờng đại học tƣ thục ở thành phố hà nội hiện nay.......................................78
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY GIÁO DỤC

QUYỀN CON NGƢỜI CHO SINH VIÊN TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI
HỌC TƢ THỤC Ở HÀ NỘI...........................................................................84
3.1. Phƣơng hƣớng thúc đẩy giáo dục quyền con ngƣời cho sinh viên trong các

trƣờng đại học tƣ thục ở hà nội...................................................................... 84
3.2. Giải pháp thúc đẩy giáo dục quyền con ngƣời cho sinh viên trong các trƣờng

đại học tƣ thục ở hà nội...................................................................................91
PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................107


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con ngƣời là một trong mƣời phát minh vĩ đại làm thay đổi thế
giới bởi nó là những giá trị cao quý kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân
tộc trên tồn thế giới, là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phƣơng tiện
chung của nhân loại để bảo vệ, thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi
con ngƣời.
Nhằm thực hiện những mục tiêu cao đẹp mà quyền con ngƣời hƣớng
tới, Liên Hợp Quốc với mục đích hoạt động quan trọng là “duy trì hịa bình
và an ninh quốc tế...khuyến khích việc tơn trọng các quyền con người và tự
do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngơn

ngữ hoặc tơn giáo ” [34; tr.19], các tổ chức quốc tế, các tổ chức khu vực, các
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã ban hành, ký kết, thực thi
nhiều văn bản pháp lý về quyền con ngƣời trong đó quan trọng nhất là Tuyên
ngôn quốc tế về quyền con người đƣợc Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông
qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 - đánh dấu mốc quan trọng và là cơ sở pháp
lý cho công cuộc đấu tranh nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con ngƣời trên
phạm vi tồn thế giới. Để có đƣợc những nhận thức đầy đủ, toàn diện về các
quy định của các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con ngƣời và áp dụng,
thực thi trong thực tiễn, đòi hỏi các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, các
quốc gia phải thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau trong đó
giáo dục về quyền con ngƣời giữ vai trị rất quan trọng.
Mặt khác, chính sự thiếu hiểu biết về quyền con ngƣời là một trong
những nguyên nhân của sự vi phạm nghiêm trọng quyền con ngƣời trên phạm

vi toàn thế giới nói chung và phạm vi quốc gia nói riêng, là nguồn gốc của
bất ổn, bạo lực và chiến tranh gây ra biết bao đau thƣơng cho nhân loại. Do
vậy, ngoài sự nhận thức, hiểu biết các quyền mà mình được hưởng, con
1


người cịn cần có khả năng tự thực hiện và bảo vệ những quyền thiêng liêng của
mình đồng thời phải có đủ hiểu biết để tơn trọng quyền của người khác. Theo
Tổ chức Ân xá Quốc tế: giáo dục quyền con ngƣời là vấn đề cơ bản để giải
quyết các nguyên nhân cơ bản của vi phạm nhân quyền, ngăn chặn các vi phạm
nhân quyền, chống phân biệt đối xử, thúc đẩy bình đẳng, và tăng cƣờng sự tham
gia của ngƣời dân trong quá trình ra quyết định dân chủ và chỉ có con đƣờng
giáo dục nhân quyền mới có thể thực hiện đƣợc mục tiêu đó.

Vấn đề quyền con ngƣời có vai trị vơ cùng quan trọng nhƣ vậy nên
trên cả phạm vi quốc tế và trong từng quốc gia, khu vực đều có những

chƣơng trình hành động tích cực nhằm đảm bảo thực hiện, thúc đẩy và bảo
vệ nhân quyền một cách tốt nhất bằng nhiều cách khác nhau, trong đó giáo
dục nhân quyền đƣợc coi là trọng tâm của vấn đề. Trên phạm vi thế giới, năm
1978 UNESCO đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục nhân quyền tại Viên
(Áo) để phát triển hơn nữa những lý do cho việc giáo dục nhân quyền. Tuyên
bố cuối cùng của Hội nghị công nhận rằng: "Giáo dục nên làm cho mỗi cá
nhân thấy quyền của mình, đồng thời họ cũng phải biết tôn trọng những
quyền của người khác”. Năm 1993, Hội nghị thế giới về quyền con ngƣời
cũng đƣợc tổ chức tại Viên với nội dung: “coi giáo dục, đào tạo và thông tin
chung về quyền con người là thiết yếu cho thúc đẩy và đạt được các quan hệ
hài hòa, ổn định trong các cộng đồng và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau,
khoan dung và hịa bình" [26]. Hội nghị tái khẳng định “các quốc gia có
nghĩa vụ pháp lý...để bảo đảm rằng giáo dục là nhằm mục đích tăng cường
sự tơn trọng nhân quyền và các tự do cơ bản và điều này nên được đưa vào
các chính sách giáo dục ở cấp độ quốc gia và quốc tế”
Tiếp sau Tuyên bố Viên, Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết 59/113A
ngày 10 tháng 12 năm 1994 Tuyên bố về chƣơng trình Thập kỷ giáo dục
quyền con ngƣời (1995 - 2004) và Nghị quyết số 113B ngày 14 tháng 7 năm
2005 thông qua dự thảo kế hoạch hành động bổ sung cho giai đoạn thứ
2


nhất (2005 - 2009) của Chƣơng trình thế giới về giáo dục quyền con ngƣờibản kế hoạch tập trung vào hệ thống các trƣờng tiểu học và trung học với yếu
tố chính là “tiếp cận giáo dục dựa trên quyền ”. Ngày 20 tháng 11 năm 2011,
Ủy ban Cố vấn Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã đƣa ra thảo luận về
Dự thảo Tuyên ngôn giáo dục nhân quyền của Liên Hợp Quốc, kết quả của
chƣơng trình nghị sự về vấn đề này đã đạt đƣợc những thành tựu khá quan
trọng hứa hẹn bản Dự thảo Tuyên ngôn giáo dục nhân quyền của Liên Hợp
Quốc sẽ đƣợc thông qua trong thời gian sớm nhất và đó sẽ là cơ sở pháp lý
quan trọng và có ý nghĩa to lớn cho chƣơng trình giáo dục quyền con ngƣời

trên phạm vi toàn thế giới.
Nƣớc ta đã trải qua bao thăng trầm trong lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và
giữ nƣớc, trải qua hai cuộc đấu tranh khốc liệt giành độc lập dân tộc và thống
nhất đất nƣớc, xây dựng đất nƣớc đi lên con đƣờng Xã Hội Chủ Nghĩa, do đó,
hơn hết thảy tất cả các quốc gia trên thế giới, dân tộc ta hiểu rõ quyền con
ngƣời, độc lập dân tộc có ý nghĩa lớn lao đến nhƣờng nào. Trân trọng những
thành quả cha ông đã giành đƣợc, đất nƣớc ta càng thêm trân trọng những giá
trị nhân quyền cao đẹp mà nhân loại hƣớng tới. Mặt khác, trong quá trình hội
nhập tồn cầu, cùng với các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị... nhân quyền là
một trong những mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia, khu vực, do đó, Việt
Nam đã tham gia, gia nhập nhiều công ƣớc, điều ƣớc quốc tế về vấn đề quyền
con ngƣời. Thêm vào đó, theo đƣờng lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc, Việt
Nam đang trên con đƣờng xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa với
mục tiêu quan trọng là tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền (Chỉ thị số
41/2004/CT-TTg ngày 2 tháng 12 năm 2004 của Thủ Tƣớng Chính phủ). Những
điều này đặt ra yêu cầu bức thiết đối với Việt Nam là sự hiểu biết về quyền con
ngƣời không chỉ trong bộ phận cán bộ các cơ quan nhà nƣớc mà còn đối với
mọi ngƣời dân Việt Nam để có thể tự

3


bảo vệ quyền của chính mình đồng thời tơn trọng quyền của ngƣời khác qua
đó thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam phát triển mang tầm vóc quốc tế.
Để đạt đƣợc mục tiêu trên, nƣớc ta cần đẩy mạnh công tác giáo dục
quyền con ngƣời nhằm đem kiến thức về nhân quyền đến mọi ngƣời dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ, mà trong đó giáo dục nhân quyền ở các trƣờng đại học là trọng
điểm, bởi lẽ, đây là bậc học mà hoạt động giáo dục nhân quyền có nhiều điều
kiện để triển khai một cách có hiệu quả nhất, đem lại nhiều tác dụng giáo dục
nhân quyền, cả về lý luận và ứng dụng tri thức nhân quyền. Tuy nhiên, trong hệ

thống giáo dục đại học ở nƣớc ta, việc giáo dục nhân quyền cho sinh viên đang
có sự phân hóa lớn, theo hƣớng “ƣu ái” cho nhóm sinh viên thuộc các trƣờng
đại học công lập, nhất là các trƣờng chuyên ngành luật, anh ninh, cảnh sát,
chính trị học. Nhìn chung, ở những cơ sở này, có nhiều mơn học, chƣơng trình,
hoạt động hàm chứa kiến thức về nhân quyền hơn là các trƣờng đại học khối tƣ
thục. Thực tiễn này hàm chứa nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn. Trong bối
cảnh đó, việc nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động giáo dục quyền con
ngƣời trong hệ thống các trƣờng đại học nói chung, đại học tƣ thục nói riêng,
nhất là các trƣờng đại học tƣ thục có uy tín, điển hình đóng ở Hà Nội, để từ đó
đề xuất các khuyến nghị hồn thiện giáo dục quyền con ngƣời trong hệ thống
đại học, đại học tƣ thục ở Việt Nam là vấn đề cần thiết cả về lý luận và thực
tiễn. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Giáo dục quyền con người cho sinh viên trong
các trường đại học tư thục ở Thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ Luật Hiến
pháp – Luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời
đối với việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền nhƣ đã trình bày trên
đây, việc nghiên cứu về vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các cơ quan,
tổ chức, các nhà nghiên cứu, các học giả, các chuyên gia trên thế giới và
trong các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
4




phạm vi quốc tế, các cơng trình nghiên cứu về giáo dục nhân quyền

đáng kể nhất phải kể đến những tài liệu, hƣớng dẫn về giáo dục quyề n con
ngƣời của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc nhƣ: Cuốn “Sử dụng ABC:

giảng dạy về quyền con người, các hoạt động thực tiễn cho các trường phổ
thông (cấp I và cấp II)” xuất bản năm 2003 với nội dung giáo dục những
kiến thức cơ bản, sơ khai về nhân quyền cho học sinh cấp tiểu học và những
hiểu biết ở mức bảo vệ nhân quyền cho học sinh cấp trung học cơ sở; Năm
1999 Trung tâm quốc gia về giáo dục pháp luật, thuộc Đại học Warwick, Anh
đã xuất bản cuốn “Giảng dạy nhân quyền” với nội dung lồng ghép giáo dục
nhân quyền với giáo dục pháp luật; Đến năm 2000, Hội đồng Anh xuất bản
ba tập sách với nội dung về: Giáo dục công dân và giáo dục nhân quyền.


Việt Nam, trong vấn đề giáo dục nhân quyền hiện nay vẫn chủ yếu

gắn với giáo dục pháp luật, do đó, có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều luận
văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề trên, có thể liệt kê những tác
phẩm, cơng trình nghiên cứu nhƣ: "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", luận án Phó tiến sĩ của Trần Ngọc
Đƣờng; "Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân
dân lao động (ở Việt Nam)", luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo
dục pháp luật cho nhân dân" của Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số
10, 1983); "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa và xây dựng con người mới" của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý
luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức pháp luật" của Nguyễn Trọng Bình (Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989); "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức
và lối sống theo pháp luật" đề tài khoa học cấp nhà nƣớc, mã số 07-17 do
Viện Nhà nƣớc - Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn
chủ trì; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công
cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223ĐT của Viện Nghiên
cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp; "Tìm kiếm mơ hình phổ biến, giáo dục
5



pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người" đề tài khoa học cấp bộ
của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; "Thực trạng và phương hướng đổi
mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay",
luận văn Thạc sĩ của Đặng Ngọc Hồng...


góc độ riêng về giáo dục quyền con ngƣời thời gian gần đây có một

số cơng trình nghiên cứu điển hình nhƣ: "Giáo dục nhân quyền hướng tới thế
kỷ XXI" của Tƣờng Duy Kiên (Tạp chí Thơng tin Khoa học thanh niên, số 4,
1997); Chuyền đề “Nghiên cứu giảng dạy về quyền con người” (Thông tin
Quyền con ngƣời, số 3, 2009); Chuyên khảo “Giáo dục quyền con người,
những vấn đề lý luận và thực tiễn ” của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên
(Viện khoa học xã hội Việt Nam, năm 2010); Báo cáo khoa học tổng quan đề
tài cấp cơ sở “Giáo dục quyền con ngườilý luận, thực tiễn Quốc tế và Việt
Nam ” do Ths. Nguyễn Văn Tuấn làm chủ nhiệm đề tài (Đại học Quốc Gia Hà
Nội, Khoa Luật năm 2010)...
Những cơng trình nghiên cứu trên là đóng góp to lớn cho nền giáo dục
nhân quyền còn non trẻ của Việt Nam. Tuy vậy, những cơng trình nghiên cứu
đó chủ yếu tập trung vào vấn đề giáo dục nhân quyền nói chung, đƣa ra
những vấn đề lý luận về giáo dục nhân quyền cho nhiều nhóm đối tƣợng. Do
đó, để có một cái nhìn cụ thể hơn về giáo dục quyền con ngƣời cho từng
nhóm đối tƣợng cụ thể vẫn là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho những học giả,
những nhà nghiên cứu. Chính vì những lý do trên, đề tài “Giáo dục quyền
con người cho sinh viên trong các trường đại học tư thục ở Thành phố Hà
Nội” sẽ đóng góp vào kho tàng lý luận và thực tiễn của nền giáo dục nhân
quyền Việt Nam một cái nhìn cụ thể, một hƣớng đi cụ thể để giáo dục, đào
tạo một thế hệ mới ở Việt Nam với ý thức tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy nhân
quyền, đƣa văn hóa nhân quyền Việt Nam xứng tầm văn hóa nhân quyền thế

giới.

6


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của việc nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con
ngƣời, giáo dục quyền con ngƣời, giáo dục quyền con ngƣời trong hệ thống
các trƣờng đại học, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nƣớc ta về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời, Luận văn tìm hiểu
và phân tích thực trạng hoạt động giáo dục quyền con ngƣời trong trƣờng đại
học tƣ thục ở Hà Nội, từ đó khuyến nghị các giải pháp nhằm thúc đẩy giáo
dục quyền con ngƣời trong các trƣờng đại học tƣ thục ở Hà Nội nói riêng, ở
cả nƣớc nói chung, cũng nhƣ hƣớng tới mục đích thúc đẩy mơ hình giáo dục
nhân quyền trong hệ thống các trƣờng đại học ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của Luận văn
Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của cơng tác giáo dục quyền
con ngƣời.
Phân tích các chuẩn mục về giáo dục quyền con ngƣời trên thế giới và
những quy định của Việt Nam về giáo dục quyền con ngƣời.
Đánh giá thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta nói chung,
giáo quyền con ngƣời cho sinh viên trong các trƣờng đại học tƣ thục ở Hà
Nội nói riêng.
Đƣa ra các đề xuất nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con
ngƣời đặc biệt trong hệ thống các trƣờng đại học tƣ thục ở Hà Nội trong thời
gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời của các chủ thể có thẩm quyền,

trách nhiệm cho sinh viên trong các trƣờng đại học tƣ thục ở Thành phố Hà
Nội hiện nay.

7


4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung

về giáo dục quyền con ngƣời nói chung, vấn đề giáo dục quyền con ngƣời
đối với hệ thống trƣờng đại học ở Việt Nam; Luận văn tập trung nghiên cứu
thực trạng hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở một số trƣờng đại học tƣ
thục điển hình ở Hà Nội hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con ngƣời trong các trƣờng đại
học tƣ thục ở Hà Nội trong tƣơng lai, thống nhất với chƣơng trình thúc đẩy
giáo dục nhân quyền trong hệ thống đại học ở Việt Nam.
-

Phạm vi đối tượng: Luận văn tập trung khảo sát một số trƣờng đại

học tƣ thục điển hình ở Hà Nội nhƣ: Đại học Phƣơng Đông, Đại học Đông
Đô, Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Đại học Thăng Long.
5.

Phạm vi thời gian: từ năm 2014 tới nay.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa Mác-Lênin và

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các tƣ tƣởng, quan điểm về luật học tiến bộ và hiện
đại trên thế giới đồng thời dựa trên quan điểm, đƣờng lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nƣớc về quyền con ngƣời và vấn đề tuyên truyền
giáo dục nhân quyền ở nƣớc ta hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận đƣợc sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra
trong luận văn là: phƣơng pháp biện chứng, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng
pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp thống kê và phƣơng
pháp mơ hình hóa.

8


6. Đóng góp của luận văn
Hệ thống hóa, làm rõ hơn một số vấn đề lý luận, chính trị và pháp lý về
giáo dục quyền con ngƣời cho sinh viên trong trƣờng đại học nói chung, đại
học tƣ thục ở Việt Nam nói riêng.
Phân tích một cách thuyết phục những khiếm khuyết trong giáo dục
quyền con ngƣời cho sinh viên tại các trƣờng đại học tƣ thục ở Việt Nam qua
phân tích trƣờng hợp một số trƣờng ở Hà Nội, từ đó khuyến nghị những giải
pháp thúc đẩy giáo dục quyền con ngƣời cho sinh viên đại học nói chung, đại
học tƣ thục ở Hà Nội nói riêng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức
khoa học cơ bản mang tính lý luận về giáo dục quyền con ngƣời trong phạm
vi hệ thống các trƣờng đại học ở Việt Nam; giúp ngƣời đọc nhận thức đầy đủ
và toàn diện hơn về vấn đề giáo dục nhân quyền - mục tiêu của thế giới ngày
nay.

Luận văn ngồi ý nghĩa lý luận cịn có thể góp phần làm phong phú
hơn kho tàng tƣ liệu, tài liệu tham khảo về vấn đề giáo dục quyền con ngƣời
đặc biệt trong hệ thống các trƣờng Đại học ở Việt Nam.
8. Kết cấu luận văn
Phần mở đầu với những giới thiệu sơ lƣợc về luận văn.
Phần nội dung chính với 3 chƣơng chia thành các tiết nhỏ.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giáo dục quyền con ngƣời trong
các trƣờng đại học ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng giáo dục quyền con ngƣời cho sinh viên trong
các trƣờng đại học tƣ thục ở Thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm thúc đẩy giáo dục quyền
con ngƣời cho sinh viên trong các trƣờng đại học tƣ thục ở Thành phố Hà
Nội hiện nay.
9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI TRONG
CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƢỜI
1.1.1. Khái niệm về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời
1.1.1.1.Khái niệm quyền con người
Quyền con ngƣời, theo định nghĩa trong “Đại từ điển Tiếng Việt” của
Viện Ngôn ngữ học, cũng chính là “nhân quyền” [57]. Cho đến nay, chúng ta
phải thừa nhận rằng khó có thể tìm thấy một định nghĩa triết học “kinh điển”
nào về quyền con ngƣời. Ngay cả những nhà tƣ tƣởng lớn nhƣ Lôccơ [John
Locke (1632–1704)], Rútxô [Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778)]… và sau
này Mác [Karl Heinrich Marx (1818 – 1883)], Engen [Friedrich Engels (1820
- 1895)], Lênin [Vladimir Ilyich Lênin (1870 – 1924)] cũng không đƣa ra một

định nghĩa nào về khái niệm này giống nhƣ cách làm thông thƣờng đối với
các khái niệm triết học khác. Nhìn lại quá khứ và hiện tại, quyền con ngƣời
thƣờng đƣợc nhìn nhận theo các khuynh hƣớng khác nhau, trong đó chủ yếu
theo bốn khuynh hƣớng là: tự nhiên, thực định, kinh tế và quan niệm [66].
*

Khuynh hƣớng “quyền tự nhiên”:

Những tƣ tƣởng coi quyền con ngƣời là quyền “tự nhiên”, “trời phú” đã
xuất hiện ngay từ thời cổ đại. Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479-381 trƣớc Cơng
ngun) đã cho rằng quyền bình đẳng tự nhiên của con ngƣời đó là “ý trời”.
Theo đó, mỗi ngƣời đều có quyền tham gia cơng việc Nhà nƣớc tuỳ theo đạo
đức và tài năng của họ, chứ không phải do dịng dõi quyết định. Cũng nhƣ vậy,
mỗi ngƣời đều có các quyền giống nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm tội. Ở
Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học cũng có những tƣ tƣởng tƣơng tự.

10


Giai cấp tƣ sản khi thực hiện cách mạng tƣ sản, đã coi quyền con
ngƣời nhƣ một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong
kiến, và để tập hợp lực lƣợng trong xã hội; do đó ngay từ thế kỷ XVIII vấn đề
nhân quyền đã đƣợc giai cấp tƣ sản đề cập, tiêu biểu nhƣ trong Tuyên ngôn
độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Pháp năm 1789.
Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ dựa trên Mƣời tu chính án do James
Madison (1751 – 1836) đƣa ra. Các tu chính án này hạn chế quyền lực của
chính quyền liên bang, bảo vệ quyền của tất cả công dân, những ngƣời sinh
sống trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Trong các quyền đƣợc liệt kê mà các tu chính án
này đảm bảo có: tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do tơn giáo; quyền đƣợc

mang vũ khí của ngƣời dân; quyền tự do hội họp; quyền tự do kiến nghị;
quyền khơng bị lục sốt và tịch thu vơ lý; quyền khơng bị hình phạt tàn bạo và
bất bình thƣờng; quyền không bị tự buộc tội do bị ép buộc. Đạo luật Nhân
quyền cũng hạn chế quyền của Quốc hội bằng cách cấm Quốc hội ban hành
luật về thành lập tơn giáo và cấm chính quyền liên bang tƣớc quyền sống,
quyền tự do hay tài sản của bất kỳ ngƣời nào mà không thông qua tố tụng
pháp luật.
Trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, quyền con
ngƣời là những quyền đƣợc bảo hộ “Quốc hội thừa nhận và tuyên bố, với sự
chứng kiến và sự bảo hộ của đấng tối cao, các quyền sau đây của con ngƣời
là của con ngƣời và của công dân” [30, tr.21].
Nội dung Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp đƣợc tiếp tục
thể hiện trong Hiến pháp của Cộng hòa Pháp năm 1958, với tƣ tƣởng chủ đạo là
“Hoạt động tự do của con ngƣời là một quyền tự nhiên, vì vậy, khơng cần phải
liệt kê lại những quyền gì là đƣợc phép: tất cả những gì luật pháp khơng nghiêm
cấm đều đƣợc phép làm; ngƣợc lại, cần phải xác định rõ những điều

11


cần nghiêm cấm, dĩ nhiên là có xét đến những quy định trong Hiến pháp”[20,
tr.370].
Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó là
tƣ tƣởng của các lực lƣợng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất cơng, bất bình
đẳng. Vì thế, khơng chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý
nghĩa nhất định.
Thuyết quyền tự nhiên có điểm tích cực là đề cao con ngƣời với tƣ
cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhƣng
nhƣợc điểm của nó là ở chỗ, nó che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con
ngƣời và do đó, khơng thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong

những đòi hỏi về quyền con ngƣời.
*

Khuynh hƣớng “thực định”:

Trái với khuynh hƣớng quyền tự nhiên – khuynh hƣớng không đề ý
đến mặt pháp luật và Nhà nƣớc của quyền con ngƣời, khuynh hƣớng thực
định lại coi quyền con ngƣời là tất cả những gì mà Nhà nƣớc thông qua pháp
luật để quy định cho cá nhân. Chỉ những gì pháp luật cho phép tự do làm hay
khơng làm thì mới là quyền con ngƣời, và chỉ đƣợc coi là quyền con ngƣời
khi một hành vi hay một yêu cầu của cá nhân là hợp pháp.
Khuynh hƣớng thực định có điểm hợp lý là đã gắn quyền con ngƣời
với pháp luật, với ý chí mà Nhà nƣớc (mà điều này thì khơng thể bỏ qua
đƣợc, vì quyền con ngƣời tất nhiên phải tồn tại dƣới hình thức pháp luật).
Nhƣng, nó cũng có nhƣợc điểm ở chỗ, chỉ coi ý chí Nhà nƣớc là nguồn
gốc của quyền con ngƣời, coi trọng tính hợp pháp của quyền, song lại khơng để
ý đến tính hợp lý của nó – cái mà nhờ đó, ngay cả những địi hỏi, những nhu cầu
hợp lý cho cuộc sống (nhƣng chƣa đƣợc pháp luật ghi nhận) cũng phải đƣợc coi
là quyền con ngƣời. Do đó, khơng thể coi quyền con ngƣời chỉ là cái đƣợc phép
làm, đƣợc hƣởng theo pháp luật, mà còn cả cái đáng đƣợc

12


làm, đáng đƣợc hƣởng (những cái chƣa đƣợc pháp luật khẳng định, nhƣng
sẽ phải khẳng định).
* Khuynh hƣớng “kinh tế”:
Khuynh hƣớng kinh tế coi quyền con ngƣời là những quyền nảy sinh
từ nhu cầu của sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, khuynh hƣớng này coi
nguồn gốc của quyền con ngƣời là kinh tế. Không phải “trời phú” tự nhiên,

cũng khơng phải do Nhà nƣớc ban phát, mà chính đời sống kinh tế của con
ngƣời trao cho con ngƣời các quyền. Giáo sƣ Viện khoa học xã hội Trung
Quốc - Từ Sùng Ôn trong bài báo “Về phƣơng pháp luận nghiên cứu vấn đề
nhân quyền” trích Tạp chí “Nghiên cứu triết học”, số 12/1992 đã viết: “nhân
quyền, suy cho cùng bắt nguồn từ điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích
cơ bản của một giai cấp nhất định”.
Khuynh hƣớng kinh tế có điểm hợp lý ở chỗ, nó cho thấy nguồn gốc
của quyền con ngƣời là bản thân đời sống xã hội của con ngƣời. Nó tƣớc bỏ
cái vỏ “thần thánh”, “tự nhiên”, khơng giải thích đƣợc của quyền con ngƣời,
trả quyền con ngƣời về với đời sống thực tại của con ngƣời. Theo khuynh
hƣớng này, có thể đi đến quan điểm duy vật lịch sử về vấn đề quyền con
ngƣời. Nó cũng cho thấy tính giai cấp trong những đòi hỏi về quyền con
ngƣời.
Song, sẽ là khơng đầy đủ nếu coi quyền con ngƣời chỉ có nguồn gốc
kinh tế. Quyền con ngƣời còn bao hàm những yêu cầu về danh dự, nhân
phẩm, về đời sống tinh thần, tình cảm của con ngƣời…, nghĩa là những điều
nằm ngoài phạm trù kinh tế.
* Khuynh hƣớng “quan niệm”:
Khuynh hƣớng quan niệm cho rằng quyền con ngƣời là tất cả những gì
mà con ngƣời cho là cần thiết và có giá trị đối với cuộc sống con ngƣời, tức
là quyền lợi, nhu cầu, lợi ích và những giá trị tinh thần đều có thể trở thành
quyền con ngƣời.
13


Quyền con ngƣời là vấn đề phức tạp đa nghĩa, chứa đựng những mặt
đối lập, mâu thuẫn, nhƣng không loại trừ nhau. Đó là các mặt khách quan và
chủ quan, tự nhiên và xã hội, kinh tế và tinh thần, văn hố và chính trị, đạo lý
và luật pháp. Nó cũng là sự kết hợp giữa các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai
cấp và nhân loại, v.v…

Qua phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: Quyền con ngƣời là
những quyền không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào; đó là:
quyền sống, quyền tự do, quyền đƣợc mƣu cầu hạnh phúc, quyền đƣợc bảo
vệ và bình đẳng trƣớc pháp luật, quyền an ninh thân thể, quyền khơng bị hình
phạt tàn bạo và bất bình thƣờng…Đó cũng là những địi hỏi chính đáng về tự
do và những nhu cầu cuộc sống cơ bản cần đƣợc đáp ứng của con ngƣời,
không bị phá hủy khi xã hội dân sự đƣợc thiết lập và khơng một xã hội hay
một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc chuyển nhƣợng các quyền này. Nói
cách khác, quyền con ngƣời đóng vai trị “là cơ sở để xác định tính điều chỉnh
tự định đoạt của con ngƣời, khả năng độc lập của con ngƣời trong việc giải
quyết các nhu cầu cá nhân” [20, tr.21].
1.1.1.2.Khái niệm giáo dục quyền con người
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị đập
tan năm 1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả Nhà nƣớc
xã hội chủ nghĩa và tƣ bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời
thì vấn đề cơ bản, đầu tiên nêu ra của tổ chức này là vấn đề nhân quyền. Liên
Hợp Quốc đã ban hành hàng loạt các văn kiện khẳng định các quyền và tự do
của tất cả mọi ngƣời, đặc biệt khi Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc 1945 và
Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời 1948 ra đời thì vấn đề nhân quyền
đã chuyển sang một bƣớc ngoặt mới trong lịch sử nhân loại, trở thành một
quan hệ cơ bản đƣợc điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế. Trong thời gian qua,
thuật ngữ “giáo dục quyền con ngƣời” cũng liên tục xuất hiện trong các văn
kiện của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khu vực nhƣ Liên minh châu Âu
14


(EU), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Tổ chức các nƣớc châu
Mỹ (OAS), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)… Đồng thời, thuật
ngữ “quyền con ngƣời” cũng xuất hiện trong văn bản của các bộ giáo dục và
của các tổ chức phi chính phủ. Tôn trọng và thúc đẩy việc bảo đảm quyền con

ngƣời đã trở thành xu thế tất yếu mang tính tồn cầu, vấn đề giáo dục quyền
con ngƣời, cũng vì đó, trở thành vấn đề đƣợc quan tâm đặc biệt ở mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về giáo dục quyền con người:
“Giáo dục quyền con ngƣời đƣợc định nghĩa là các nỗ lực về đào tạo,
phổ biến và thơng tin nhằm tạo lập nền văn hóa tồn cầu về quyền con ngƣời
thơng qua truyền đạt kiến thức, các kỹ năng, hình thành các thái độ và hƣớng
tới: Tăng cƣờng tôn trọng quyền con ngƣời và các tự do cơ bản; Phát triển
đầy đủ nhân cách con ngƣời và ý thức về nhân phẩm; Tăng cƣờng hiểu biết,
khoan dung, bình đẳng giới và tính hữu nghị giữa các dân tộc, ngƣời bản địa
và các nhóm chủng tộc, quốc gia, đạo đức, tôn giáo và ngôn ngữ...” [61,
tr.33].
“Giáo dục quyền con ngƣời là hoạt động có định hƣớng, có tổ chức, có
mục đích của chủ thể giáo dục tác động lên đối tƣợng giáo dục nhằm hình
thành ở họ tri thức về quyền con ngƣời để biết tự mình bảo vệ quyền của
mình và tơn trọng quyền của ngƣời khác phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của
các chuẩn mực trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con
ngƣời” [3].
“Giáo dục quyền con ngƣời là tất cả quá trình học hỏi để phát triển kiến
thức, kỹ năng và các giá trị của quyền con ngƣời, nhằm thúc đẩy sự công
bằng, khoan dung, nhân phẩm, cũng nhƣ tôn trọng các quyền và nhân phẩm
của ngƣời khác” [61].
Trong cuốn sách Hướng dẫn giáo dục nhân quyền xuất bản tại Đại học
Minnesota của Mỹ năm 2000, bà Nancy Flowers – một nhà giáo, nhà hoạt
15


động nhân quyền của Mỹ đã định nghĩa giáo dục nhân quyền là “tất cả những
hiểu biết nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị của nhân quyền.”
Theo bà, giáo dục nhân quyền liên quan đến sự kết hợp xem xét giữa các yếu

tố bên trong và bên ngoài. Sự hiểu biết về nhân quyền tất yếu gắn với việc áp
dụng hệ thống giá trị nhân quyền trong mối quan hệ giữa con ngƣời với con
ngƣời, trong gia đình và với các thành viên trong cộng đồng. Trong đó, bà nói
đến kỹ năng “phát triển con ngƣời”, đó là những kỹ năng cơng nhận thiên
hƣớng của bản thân mỗi ngƣời, chấp nhận những khác biệt và chịu trách
nhiệm bảo vệ quyền của những ngƣời khác. Tuy nhiên, trong cơng việc của
mình, những ngƣời lập chƣơng trình giáo dục nhân quyền phải tính đến bối
cảnh xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế và khả năng tác động của việc giáo dục
đó đối với chuyển biến của xã hội.
Còn theo bà Felisa Tibbitts – giám đốc Hiệp hội nhân quyền của Mỹ thì
“về cơ bản, giáo dục nhân quyền là hoạt động xây dựng các nền văn hóa
nhân quyền trong các cộng đồng của chúng ta.”
Theo một định nghĩa khác của ông Shulamith Koening – ngƣời sáng
lập “Thập kỷ giáo dục nhân quyền tồn dân” (PDHRE) thì giáo dục nhân
quyền là “để mọi người biết về nhân quyền và đưa ra đòi hỏi về nhân quyền”
[61, tr.30].
Nhƣ vậy, nói một cách đơn giản, giáo dục quyền con ngƣời là một quá
trình nhằm truyền đạt các kiến thức, các kỹ năng để ngƣời học có những hiểu
biết về quyền con ngƣời, những giá trị phẩm giá, bình đẳng, tin cậy lẫn nhau,
sự tôn trọng và hiểu biết về quyền của ngƣời khác, tơn trọng pháp luật để từ
đó thúc đẩy mọi ngƣời tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội và cùng
nhau xây dựng một “nền văn hóa nhân quyền” chung [19]. Đó cũng là việc
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện việc tuyên truyền, phổ
biến cho mỗi cá nhân trong cộng đồng hiểu rõ những quyền cơ bản của họ,

16


đồng thời giúp họ hiểu đƣợc cách thức bảo vệ các quyền đó cũng nhƣ đạt
đƣợc các kỹ năng để có thể sử dụng các quyền này trong cuộc sống.

1.1.2.Sự cần thiết của Giáo dục quyền con ngƣời
Là một vấn đề nhận đƣợc sự quan tâm hàng đầu của các cơ quan, tổ
chức trong phạm vi quốc tế, khu vực và các quốc gia nên thuật ngữ “Giáo
dục nhân quyền" (GDNQ) đã trở thành một thuật ngữ xuất hiện thƣờng
xuyên trong các văn kiện pháp lý của Liên Hợp Quốc, các tổ chức quốc tế,
các tổ chức khu vực (Liên minh Châu Âu, Tổ chức các nƣớc Châu Mỹ, Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á.), bộ giáo dục của các quốc gia từ đó tạo thành
cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động tuyên truyền, GDNQ đồng thời qua
đó đƣa ra một định nghĩa chung nhất đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Theo đó, định nghĩa GDNQ một cách chung nhất được đưa ra trong
Tuyên bố về Thập kỷ giáo dục quyền con người (TKGDQCN) là “đào tạo,
phổ biến và thông tin nhằm xây dựng một nền văn hóa phổ biến về quyền con
người thơng qua việc truyền đạt các kiến thức, các kỹ năng và tạo nên thái
độ nhằm vào:
Tăng cường sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự
do cơ

bản;
-

Phát triển toàn diện cá nhân con người và ý thức tôn trọng con

người;
-

Thúc đẩy sự hiểu biết, tơn trọng, bình đẳng giới và sự đoàn kết giữa

các quốc gia, người bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia, dân tộc, tơn
giáo và ngơn ngữ;
-


Khả năng hoạt động một cách có hiệu quả của tất cả mọi người trong

một xã hội tự do;
Đẩy mạnh các hoạt động của Liên Hợp quốc để giữ gìn hịa
bình ”

[27].


17


Theo cách định nghĩa trên, GDNQ không chỉ đơn thuần cung cấp các
kiến thức cơ bản cho con ngƣời về quyền của mình và cơ chế để bảo vệ
quyền mà cịn nhằm tới mục đích truyền đạt các kỹ năng quan trọng để con
ngƣời khơng chỉ hiểu biết mà cịn có hành động tích cực để thực hiện các
quyền của mình, tơn trọng quyền của ngƣời khác, thúc đẩy và bảo vệ các
quyền con ngƣời nói chung cho mọi thành viên trong gia đình nhân loại.
Ngồi ra, thuật ngữ GDNQ cũng đƣợc đề cập nhiều trong các cơng
trình nghiên cứu của các nhà lý luận và sử dụng nhiều trong thực tiễn hoạt
động của các nhà hoạt động nhân quyền. Điển hình là định nghĩa GDNQ của
bà Nancy Flowers trong cuốn sách mang tên “Hướng dẫn giáo dục nhân
quyền” xuất bản tại đại học Minnesota năm 2000, theo đó GDNQ “là tất cả
những hiểu biết nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị của nhân
quyền ”. Trong định nghĩa trên, bà Nancy muốn nhấn mạnh vào việc giáo dục
quyền con ngƣời nhằm đem lại sự phát triển toàn diện của con ngƣời trong
sự hiểu biết về nhân quyền, cách thức thực hiện quyền của mình và hƣớng
đến những giá trị nhân bản của con ngƣời.
Hoặc một cách đơn giản hơn theo nhƣ định nghĩa GDNQ của ông

Shulamith Koenig - ngƣời sáng lập Thập kỷ giáo dục nhân quyền tồn dân đó
là “để mọi người biết về nhân quyền và đưa ra đòi hỏi về nhân quyền ”[61,
tr.20]. Theo ông giáo dục nhân quyền là nhằm đƣa đến những hiểu biết về
vấn đề nhân quyền cho mọi ngƣời để từ đó họ biết mình có quyền gì, hiểu
những quyền đó và có những địi hỏi quyền của mình phải đƣợc thực thi.
Nhƣ vậy, khái niệm GDNQ có nhiều định nghĩa khác nhau xuất phát từ
các văn kiện pháp lý quốc tế, quốc gia, khu vực hay từ các nghiên cứu, lý
luận và cả từ hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực GDNQ, nhƣng tựu chung lại
có thể khái quát một định nghĩa chung nhất về nội hàm của khái niệm này
nhƣ sau “Giáo dục quyền con người là hoạt động có định hướng, có tổ chức,
có chủ thể của giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành lên
18


ở họ tri thức về quyền con người; biết tự mình bảo vệ quyền của mình và tơn
trọng quyền của người khác phù hợp với các yêu cầu, các chuẩn mực pháp
luật quốc tế, pháp luật quốc gia và tương lai tiến bộ của nhân loại về quyền
con người ” [39]. Đây là một định nghĩa thể hiện đầy đủ bản chất, mục đích
của hoạt động giáo dục quyền con người
Quyền con ngƣời là kết tinh những giá trị cao đẹp của nhân loại, con
ngƣời đã phải trả những cái giá rất đắt để giành đƣợc những quyền ấy nhƣng
có một thực tế là “có hàng triệu người sinh ra rồi chết đi mà không hề biết
rằng họ là chủ thể của các quyền con người...” [61, tr.29]. Mặt khác, sự vi
phạm nghiêm trọng quyền con ngƣời là nguyên nhân chính gây lên bao cuộc
chiến tranh thảm khốc trong lịch sử nhân loại và lịch sử của nhiều quốc g ia
trên thế giới, điển hình là hai cuộc chiến tranh đẫm máu trong thế kỷ XX kéo
lùi lịch sử phát triển của nhân loại. Có thể khẳng định sự hiểu biết về quyền là
điều kiện đầu tiên để con ngƣời thực hiện và bảo vệ quyền của mình, tơn
trọng quyền của ngƣời khác và thúc đẩy các quyền con ngƣời trong thực tiễn,
tránh những vi phạm về quyền từ đó bảo vệ hịa bình, an ninh thế giới, hƣớng

tới một xã hội công bằng, văn minh và phát triển. Điều đó chỉ có thể có đƣợc
thơng qua cơng tác giáo dục về nhân quyền, đem kiến thức về nhân quyền
truyền đạt đến mọi thành viên trong cộng đồng quốc tế để họ có đƣợc những
kiến thức, hiểu biết, kỹ năng về nhân quyền.
Để bảo vệ những thành quả về quyền con ngƣời, nhiều văn kiện pháp
lý quốc tế đã thể hiện quyết tâm của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ
nhân quyền đồng thời nêu lên những biện pháp hữu hiệu để thực thi quyết
tâm đó đặc biệt nhấn mạnh biện pháp giáo dục về quyền con ngƣời. Điểu
hình là ngay trong lời mở đầu của Hiến chƣơng LHQ đã khẳng định quyết
tâm “phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh đã
hai lần trong đời chúng ta, gây cho nhân loại đau thương không kể xiết.cần
phải thực sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của
19


×