A. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa xã hội ( CNXH ) là một khái niệm lớn bao hàm nhiều nội dung vấn đề tư tưởng ,
về tính chất của một chế độ , một cuộc cách mạng, một con người .CNXH có hệ thống quan
hệ xã hội lành mạnh,cơng bằng , bình đẳng , khơng cịn áp bức bóc lột , bất cơng , khơng còn
sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc , giữa thành thị và nơng thơn , con người
được giải phóng , có điều kiện phát triển tồn diện có sự hài hịa trong sự phát triển của xã
hội và tự nhiên .
Hồ Chí Minh coi công bằng xã hội là một trong những đặc trưng mang tính nhân văn của chế
độ xã hội mới: chủ nghĩa xã hội là “một xã hội khơng có chế độ người bóc lột người, một xã
hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng” Theo Người, cơng bằng và bình đẳng xã hội
cho tất cả mọi người chỉ có thể có được trong chế độ xã hội mới, đó là chế độ dân chủ cộng
hoà, là chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ dưới chế độ xã hội tốt đẹp ấy, nhân dân lao động mới
được hưởng ngày càng nhiều hơn, đầy đủ hơn sự cơng bằng và bình đẳng, mới vừa “có nghĩa
vụ, đồng thời có quyền lợi”.
Trong lĩnh vực giáo dục, công bằng xã hội trong giáo dục được các nhà Mác - xít đặc biệt
quan tâm, theo các ơng, giáo dục có tầm quan trọng trong đời sống xã hội, có ý nghĩa quan
trọng trong q trình xây dựng một chế độ mới: “muốn thay đổi những điều kiện xã hội phải
có một chế độ giáo dục thích hợp”. Lẽ tất nhiên, cơng bằng trong giáo dục nhằm phục vụ đắc
lực cho xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và chính xã hội đó đem lại sự công bằng xã hội
trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần đó, việc thực hiện cơng bằng xã hội
trong giáo dục chính là “tạo được nhiều cơ hội học tập phù hợp với mọi nhu cầu, nguyện
vọng riêng cũng như khả năng của mỗi người dân trong xã hội, để ai cũng có điều kiện phát
triển nghề nghiệp tài năng, hiểu biết” .
Đương nhiên, không thể ảo tưởng rằng với một nền giáo dục nào đó, người ta có thể tạo nên
sự ngang bằng về năng lực. Năng lực còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như di truyền, khí
chất, sức khỏe... Song, một điều chắc chắn là: với một nền giáo dục công bằng cho tồn dân,
chúng ta sẽ khơng để lọt hoặc để uổng phí các mầm mống tài năng và sẽ tạo được cơ hội
không quá chênh lệch để mọi người cùng tự do phát triển. Nền giáo dục cơng bằng có khả
năng tạo nên “cơ hội xã hội” theo đúng nghĩa.
Từ những lí do trên em đã chọn đề tài “Chủ nghĩa xã hội và công bằng xã hội, công bằng
trong giáo dục đại học ở Việt Nam – những mâu thuẫn cơ bản và giải pháp “ để nghiên
cứu
Mục lục
A. Phần mở đầu ……………………………………………………1
1. Tính cấp thiết của đề tài ………….............................................. 1
1
2. Mục lục ………………………………………………………… 2
B. Nội dung …………………………………………………………3
I
. Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội và công bằng xã hội …...3
1. Chủ nghĩa xã hội ………………………………………….3
a. Khái niệm , điều kiện ra đời của CNXH ………………3
b. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ………………..4
2. Công bằng xã hội …………………………………………6
a. Khái niệm công bằng xã hội …………………………..6
b. Nội dung ………………………………………………6
c. Điều kiện để thực hiện công bằng xã hội ……………..8
d. Công bằng xã hội – mục tiêu của chủ nghĩa xã hội……8
II
. Vận dụng thực tiễn ………………………………………….9
1. Lý thuyết chung …………………………………………..9
2. Thực trạng và nguyên nhân ................................................10
3. Giải pháp …………………………………………………12
C. Kết luận ………………………………………………………….12
BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
GCCN : Giai cấp công nhân
GCTS : Giai cấp tư sản
CBXH : Công bằng xã hội
B.Nội dung
I . Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội và công bằng xã hội .
1. Chủ nghĩa xã hội .
a. Khái niệm và điều kiện ra đời .
2
Khái niệm :
-
CNXH như là một phong trào lịch sử mang tính chính trị xã hội .
-
CNXH là một hệ tư tưởng của giai cấp công nhân .
-
CNXH là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa .
-
CNXH và chủ nghĩa Cộng sản là một chế độ xã hội đối lập với chế độ tư bản mà hình
thức xấu xa tàn bạo nhất của nó là chủ nghĩa thực dân cả chủ nghĩa thực dân mới và cũ .
Điều kiện ra đời :
-
Thứ nhất : do sự ra đời của sản xuất công nghiệp , áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật
cơng nghệ , lao động mang tính xã hội . LLSX phát triển mạnh mẽ và đạt tới trình độ xã
hội hóa ngày càng cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân TBCN về tư liệu sản xuất là chủ yếu . Mâu thuẫn ngày càng phát triển đây là mâu
thuẫn cơ bản trong phương tiện sản xuất TBCN
-
Thứ hai : cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng hình thành và
phát triển hai giai cấp cơ bản : giai cấp công nhân và giai cấp tư sản có lợi ích đối lập
nhau nên xã hội xuất hiện mâu thuẫn đối kháng . Mâu thuẫn phát triển đỉnh cao ở cuộc
đấu tranh của GCCN chống lại GCTS . Qua thực tiễn cuộc đấu tranh GCCN nhận thức
được rằng muốn giành thắng lợi phải tiếp thu chủ nghĩa xã hội khoa học hình thành chính
đảng của mình . Khi Đảng Cộng sản ra đời, toàn bộ hoạt động của Đảng đều hướng vào
lãnh đạo GCCN và nhân dân lao động lật đổ nhà nước của GCTS xác lập nhà nước của
GCCN và nhân dân lao động . Việc thiết lập nhà nước của GCCN và nhân dân lao động
là sự mở đầu của hình thái kinh tế - xã hội CSCN
Tóm lại : do sự vận động của những mâu thuẫn trong CNTB , cùng với cuộc đấu tranh
của GCCN và nhân dân lao động , khi xuất hiện tình thế và thời cơ cách mạng tạo ra
những điều kiện cần và đủ thì cách mạng XHCN tất yếu sẽ xảy ra và thắng lợi đưa đến sự
ra đời hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa
Trong thời đại ngày nay CNXH vẫn có thể ra đời từ một quốc gia tư bản có trình độ phát
triển tư bản thậm chí chưa qua TBCN phải đảm bảo các yếu tố sau :
Một là ,phải xuất hiện “ yếu tố thời đại “ tức là nhân loại đã chuyển sang giai đoạn cuối
cùng của TBCN . Từ đó xuất hiện các các mâu thuẫn “ cơ bản và gay gắt “ của thời đại
mới như : Mâu thuẫn giữa GCTS và GCCN, đây vẫn được coi là mâu thuẫn cơ bản nhất
trong xã hội ngày nay. Mâu thuẫn giữa Chủ nghĩa đế quốc xâm lược và các dân tộc bị
xâm lược, đây là mâu thuẫn đặc trưng cho thời đại mới. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản
với nhau do xung đột lợi ích . Mâu thuẫn giữa các nước giàu trong thế giới tư bản với các
nước nghèo , lạc hậu .
Hai là, phải có sự tác động tồn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (chủ nghĩa Mác - Lênin), đặc biệt là luận điểm về chủ
nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức, làm thức tỉnh phong trào dân tộc, phong trào yêu
nước của các quốc gia đấu tranh chống các chế độ áp bức, bóc lột, bất công của chủ nghĩa
tư bản hoặc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
3
Ba là, tất yếu hình thành các đảng chính trị lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm hệ tư tưởng
để lãnh đạo dân tộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
b. Các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội với tính cách là một chế độ xã
hội ra đời và tồn tại ở giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là
một xã hội tiến bộ, ưu việt, là quá trình lịch sử tự nhiên phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử xã hội loài người. Do đó, so với các xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử, chủ nghĩa xã
hội có một số đặc trưng cơ bản sau:
Một là, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội phải được tạo ra bởi một nền sản xuất tiên tiến,
hiện đại.
Đây được coi là đặc trưng cơ bản nhất trong số các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.Theo
V.I.Lênin, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về thực chất là cuộc cách mạng trong lĩnh
vực kinh tế nên chủ nghĩa xã hội phải có một nền kinh tế phát triển cao hơn so với chủ
nghĩa tư bản trước đó. Do đó chỉ khi chủ nghĩa xã hội tạo ra được một nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, với năng suất lao động ngày càng tăng, số lượng của cải vật chất tạo ra
ngày càng nhiều thì mới có khả năng đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn
hóa của nhân dân, khơng ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho tồn dân.
Hai là, chủ nghĩa xã hội từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đồng thời tiến hành
thiết lập chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất.
Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc
cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp cơng nhân. Tuy nhiên, khơng phải xóa bỏ chế
độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.Chủ nghĩa xã hội được
hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này được củng cố,
hồn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng
trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những
lợi ích căn bản.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng
suất cao.
Khi đạt tới trình độ xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa cao,khơng
cịn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đòi hỏi việc tổ chức vận hành và quản lý nền sản
xuất mới này phải hết sức khoa học, chặt chẽ và hiệu quả cao nếu khơng sẽ tạo ra một sự
lãng phí nguồn lực và suy giảm về động lực thúc đẩy phát triển dưới chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản của chủ nghĩa xã hội, là nguyên
tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
công hữu về tư liệu sản xuất. Theo V.I.Lênin, phân phối theo lao động là cách thức phân
4
phối trong giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách thức phân phối theo lao
động là thích hợp nhất với chủ nghĩa xã hội, bởi vì nó được dựa trên chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất
Năm là, nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội là nhà nước mang bản chất giai cấp côngnhân, nhưng
cũng đồng thời mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh
đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình
trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây
là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện
các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
Sáu là, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng và phát triển con người toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh tế và nô
dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển tồn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống xã hội chủ
nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình
trạng người bóc lột người, tình trạng nơ dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự cơng bằng, bình
đẳng xã hội.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của tồn thể nhân loại. Những đặc
trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải
quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.
2. Công bằng xã hội
a. Khái niệm công bằng xã hội
Trong lịch sử tư tưởng triết học ở cả phương Đông và phương Tây có rất nhiều cách tiếp
cận và lý giải khác nhau về vấn đề CBXH, đi cùng với nó là vấn đề thực hiện CBXH.
Việc đặt ra và giải quyết vấn đề này không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử mà
cịn phụ thuộc vào trình độ nhận thức và khả năng thực hiện của con người từng thời kỳ.
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra quan điểm
đúng đắn về thực chất vai trò của CBXH và phương pháp thực hiện nó trong đời sống xã
hội . Kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã khái quát lý
luận về CBXH vừa sâu sắc trong cốt lõi khoa học vừa giản dị vừa hàm súc . CBXH gắn
bó với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng con người , CBXH gắn với phát triển
kinh tế và phát triển xã hội, là trách nhiệm của Đảng , Nhà nước và toàn xã hội .
Quan điểm về CBXH trong CNXH sẽ bị thay đổi cùng với sự mất đi của CNXH để ra đời
một xã hội cao hơn- xã hội cộng sản chủ nghĩa . Sự mất đi sớm hay muộn tùy thuộc vào
sự phát triển của sản xuất , sự phát triển của kinh tế - xã hội . Do vậy công bằng xã hội là
một khái niệm mang tính lịch sử .
5
Công bằng xã hội là một giá trị nhằm định hướng cho sự phát triển con người được
hình thành trên cơ sở của bình đẳng giữa những con người về nghĩa vụ và quyền lợi, về
cống hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển
trên mọi phương diện của đời sống xã hội, phù hợp với điều kiện hiện thực của xã hội
b. Nội dung , đặc trưng , nguyên tắc của công bằng xã hội
Nội dung :
Công bằng xã hội mang tính tồn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,xã hội,
trong đó thể hiện tập trung ở hai nội dung chính: Cơng bằng trong phân phối và công
bằng về cơ hội, điều kiện phát triển.
-
Nội dung thứ nhất, công bằng trong phân phối. Phân phối là một trong những phạm trù
kinh tế chính trị cơ bản, phản ánh quan hệ xã hội trong việc phân chia các nguồn lực
trong quá trình sản xuất xã hội và tái sản xuất xã hội, nó phụ thuộc vào quan hệ sở hữu và
quản lý. Phân phối vừa là một khâu của quá trình sản xuất (sản xuất – phân phối - trao đổi
- tiêu dùng), vừa là một mặt của quan hệ sản xuất (sở hữu - tổ chức quản lý - phân phối).
Phân phối bao gồm việc phân phối các yếu tố đầu vào của sản xuất (tư liệu sản xuất) và
sản phẩm đầu ra (tư liệu tiêu dùng) phục vụ nhu cầu tái sản xuất xã hội và đời sống con
người. Do đó cơng bằng trong phân phối bao hàm cả việc phân phối công bằng các yếu tố
đầu vào của sản xuất lẫn các yếu tố đầu ra của sản xuất. Tính chất phân phối các yếu tố
sản xuất quyết định tính chất phân phối tiêu dùng, còn sự phân phối các yếu tố sản xuất
lại do phương thức sản xuất chi phối.
-
Nội dung thứ hai Công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển trước hết được hiểu là quyền
của mọi người được tiếp cận ngang nhau với một cơ hội nào đó bất kỳ (ở đây chính là
bình đẳng về cơ hội). Còn điều kiện phát triển được hiểu là những điều kiện về kinh tế,
chính trị,văn hóa, xã hội. Đó khơng chỉ bình đẳng về cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát
triển mà còn bao gồm tất cả các điều kiện và các dịch vụ xã hội nói chung từ hạ tầng cơ
sở (điện,nước sạch, đường sá, các cơ sở khám chữa bệnh, các cơ sở giáo dục, đào tạo; thị
trường tài chính, chứng khốn) đến thượng tầng kiến trúc (tham gia vào các cơ quan
quyền lực nhà nước, học tập và trao đổi thông tin, sáng tác, hưởng thụ văn học nghệ
thuật, giao lưu văn hóa…).Cơng bằng về cơ hội, điều kiện phát triển ở đây được xác định
như là tiền đề để đảm bảo công bằng xã hội thực sự.
Đặc trưng :
-
Thứ nhất, CBXH là một giá trị nhằm xác lập mối quan hệ giữa người với người trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, v.v..) theo nguyên
tắc tương xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất
và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển.
-
Thứ hai, CBXH là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể. CBXH không phải là một khái
niệm bất di bất dịch. Với tư cách là sản phẩm của đời sống xã hội, mà đời sống xã hội
luôn vận động, biến đổi nên nội dung của CBXH cũng phải biến đổi cho phù hợp. Không
6
thể có một quan niệm chung về CBXH cho mọi thời đại, dân tộc và giai cấp. Mỗi xã hội
có địi hỏi riêng về cơng bằng.
-
Thứ ba, CBXH là một trường hợp riêng của bình đẳng xã hội .Bình đẳng được thể hiện ở
các mối quan hệ: sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ; sự bình đẳng trong việc
được hưởng quyền lợi; sự tương ứng hay không tương ứng giữa sự bình đẳng trong việc
thực hiện nghĩa vụ với sự bình đẳng trong việc hưởng thụ quyền lợi khi thực hiện cùng
một nghĩa vụ ấy. CBXH được hiểu trong trường hợp thứ ba. Như vậy, bình đẳng xã hội
có phạm vi rộng và bao quát hơn CBXH.
Các nguyên tắc của công bằng xã hội .
Việc xây dựng các ngun tắc CBXH có ý nghĩa vơ cùng to lớn trong việc thực hiện
CBXH
-
Nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện CBXH .
+ Một là , dựa trên trình độ phát triển kinh tế của đất nước .
+ Hai là , dựa trên thể chế xã hội mà chúng đang xây dựng – đi lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN .
Phát triển kinh tế bao hàm sự tăng trưởng nhưng không phải mọi sự tăng trưởng đều dẫn
đến phát triển . Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần , là tiền đề cho việc thực hiện CBXH
.
-
Nguyên tắc phân phối làm phương thức cơ bản để thực hiện CBXH
+ Một là , phân phối theo lao động
+ Hai là, phân phối theo đóng góp về vốn và tư liệu sản xuất .
+ Ba là , phân phối theo các hình thức khác cho xã hội : tài năng, công sức , xương máu,
đặc biệt là những cống hiến trong cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc .
-
Nguyên tắc giải quyết thấu đáo do những vấn đề của nền kinh tế cũ để lại
Đây là một vấn đề phức tạp , Nhà nước cần phải có cơ chế cụ thể trong quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp và tập thể để đảm bảo sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước ,
vừa đảm bảo được CBXH , chúng ta cần có chính sách,bước đi,cơ chế phù hợp.
c. Điều kiện thực hiện công bằng xã hội
Việc thực hiện CBXH cũng phụ thuộc những điều kiện lịch sử - cụ thể của từng chế độ xã
hội. Theo đó, thực hiện cơng bằng xã hội là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống
7
chính trị, các lực lượng, tổ chức xã hội và người dân theo chức năng, vị trí, vai trị của
mình làm cho những nội dung của CBXH trở thành hiện thực trong đời sống xã hội .
-
Chủ thể thực hiện công bằng xã hội : Xét trong phạm vi một quốc gia, chủ thể thực hiện
CBXH gồm: đảng cầm quyền, nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các
lực lượng, tổ chức xã hội, người dân ở quốc gia đó. Ngồi ra, cịn các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức hoạt động nhân đạo, từ thiện... hỗ trợ, tham gia thực hiện CBXH.
-
Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc thực hiện CBXH: Việc thực hiện CBXH do
nhiều nhân tố tác động, trong đó phụ thuộc chặt chẽ vào trình độ phát triển của phương
thức sản xuất (thơng qua trình độ phát triển kinh tế), vào chế độ chính trị, vào các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc và tính chất của thời đại.
d. Công bằng xã hội- mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Cơng bằng xã hội được cụ thể hóa thành các nguyên tắc ứng xử và được thể chế hóa
thành các quy định pháp luật hoặc thành các quy tắc bất thành văn. Công bằng xã hội
theo pháp luật là phương thức, là cơ chế để thực hiện bình đẳng xã hội thực chất. Công
bằng xã hội thường được thể hiện trong ứng xử giữa các tổ chức, các nhóm xã hội.
Với chủ nghĩa xã hội, cơng bằng xã hội được thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo
lao động. Theo C.Mác, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết nhất để duy trì sản
xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, tồn bộ số sản phẩm xã
hội cịn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ nhận trở lại từ xã
hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã
cung cấp cho xã hội (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội). Đây
là một nguyên tắc phân phối cơng bằng vì ở đây tất cả những người sản xuất đều có
quyền ngang nhau tham dự quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau.
Nguyên tắc phân phối theo lao động phản ánh: chủ nghĩa xã hội là chế độ đầu tiên trong
lịch sử được xây dựng trên nguyên tắc công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội hướng tới mục
tiêu: xóa bỏ áp bức, bất công và những cơ sở nảy sinh áp bức bất công, xây dựng các điều
kiện để con người phát triển tự do và tồn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Công bằng xã hội quan hệ mật thiết với dân chủ, đòi hỏi dân chủ vì dân chủ là điều kiện
tiên quyết để thực hiện công bằng xã hội.
Vấn đề công bằng trong xã hội chủ nghĩa diễn ra ở rấ nhiều nội dung khác nhau , dưới đây em xin
trình bày một trong các nội dung cụ thể .
II. Vận dụng thực tiễn : Công bằng trong giáo dục đại học ở Việt Nam – những mâu thuẫn cơ
bản và giải pháp .
1. Lý thuyết
Quan điểm về công bằng xã hội trong giáo dục của chủ nghĩa Mác-Lênin .
8
-
Trong lĩnh vực giáo dục, công bằng xã hội trong giáo dục được các nhà Mác - xít đặc biệt
quan tâm, theo các ơng, giáo dục có tầm quan trọng trong đời sống xã hội, có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình xây dựng một chế độ mới: “muốn thay đổi những điều kiện xã
hội phải có một chế độ giáo dục thích hợp”. Lẽ tất nhiên, cơng bằng trong giáo dục nhằm
phục vụ đắc lực cho xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và chính xã hội đó đem lại sự công
bằng xã hội trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần đó, việc thực hiện cơng
bằng xã hội trong giáo dục chính là “tạo được nhiều cơ hội học tập phù hợp với mọi nhu
cầu, nguyện vọng riêng cũng như khả năng của mỗi người dân trong xã hội, để ai cũng có
điều kiện phát triển nghề nghiệp tài năng, hiểu biết”.
-
Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Ph.Ăngghen đã khẳng định
vai trò của giáo dục đối với việc cải tạo xã hội tư sản và xây dựng thành công chủ nghĩa
cộng sản: “Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững
nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho họ có thể lần lượt chuyển
từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tùy theo nhu cầu xã hội hoặc tùy theo sở
thích của bản thân họ. Do đó, cơng tác giáo dục sẽ làm cho họ thốt khỏi tình trạng một
chiều và sự phân cơng lao động hiện nay đang buộc mỗi người phải theo”. Giáo dục trong
xã hội cộng sản sẽ tạo điều kiện cho mọi người phát triển được khả năng của mình và đi
đến làm chủ được bản thân trong đời sống xã hội.
-
V.I. Lênin đã kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác, Ph. Ăngghen về xây dựng nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo cơ hội cho mọi người dân lao động được học
tập và nâng cao trình độ tri thức. Trước tiên ông phê phán nền giáo dục tư sản đó là: “Một
khuyết điểm căn bản trong công tác giáo dục ở xã hội tư bản chủ nghĩa là nó tách rời
nhiệm vụ cơ bản là tổ chức lao động, vì các nhà tư bản cần đào tạo những cơng nhân
ngoan ngỗn dễ bảo. Trong xã hội tư bản, những nhiệm vụ thực tế về tổ chức lao động
quốc dân, gần như không liên hệ nhiều đến cơng tác dạy học. Vì thế, cơng tác dạy học bị
ảnh hưởng xấu của các thày tu, mang tính chất kinh viện, quan liêu”. Trên cơ sở phê phán
nền giáo dục tư sản, Lênin đưa ra yêu cầu của nền giáo dục mới: “Một quốc gia mù chữ
thì khơng thể xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản” và “Những người lao động khao
khát có tri thức, vì tri thức cần cho họ để chiến thắng.
2. Thực trạng , nguyên nhân
a. Thực trạng
Công bằng xã hội trong giáo dục luôn được coi là một nội dung quan trọng của chính sách
giáo dục vĩ mô. Điều 10 Luật Giáo dục (năm 2005) nêu rõ: “Học tập là quyền và nghĩa vụ
của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tơn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn
gốc gia đình, địa vị xã hội hoặc hồn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước
thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà
nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình vùng có điều kiện
kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật và đối
tượng hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình.”
Ở Việt Nam số người trong độ tuổi đi học đại học (từ 18-29 tuổi) tham gia học đại học rất thấp,
khoảng 28,3%, thuộc hàng thấp nhất thế giới. Trong khi đó, tỉ lệ này ở Thái Lan, Malaysia là
43% hay 48%, cịn tại những nước phát triển thì tỉ lệ này còn cao hơn nữa.
9
Động cơ học tập của sinh viên Việt Nam phản ánh mức độ định hướng và các nỗ lực của sinh
viên trong quá trình học tập và nghiên cứu, được thể hiện thông qua việc sinh viên dành thời
gian và việc ưu tiên đầu tư các nguồn lực cho việc học tập, kế thừa và sử dụng thang đo của
Cole & cộng sự (2004).
Năm học 2017-2018 tổng số sinh viên cả nước chỉ ở mức 1,7 triệu
Trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, mỗi cấp học và trình độ đào tạo đều có vị trí,
vai trị và ý nghĩa nhất định.
Giáo dục đại học là nơi chịu trách nhiệm cuối cùng của hệ thống giáo dục để đưa sản phẩm
giáo dục ra xã hội, là cấp học có vai trị quyết định trong việc xây dựng và phát triển lực
lượng lao động chất lượng cao cho công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước.
Năm 2007 , Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) ở Việt Nam có một nghiên cứu
về tài trợ công trong giáo dục đại học và cho kết quả : có đến 35% ngân sách Nhà nước trợ
cấp cho giáo dục đã chảy vào túi con em 20% cư dân giàu nhất , trong đó chỉ có 15% chảy
vào con em của 20% dân cư nghèo nhất.Đó phải chăng có một phần là do kết quả của chính
sách học phí thấp , một chính sách đã tăng thêm mất cơng bằng xã hội . Chưa có thống kê
chính thức nhưng có một vài nghiên cứu có thấy , mất công bằng xã hội trong giáo dục đại
học ở Việt Nam cịn cao hơn mức mất cơng bằng xã hội về thu nhập kinh tế .Năm 2004 , nếu
tính theo vùng miền thì , tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân bình quân cả nước là 161 , của
Đồng Bằng Sông Hồng là 323 , trong khi của Đồng Bằng Sông Cứu Long là 40 , chênh lệch
nhau 8 lần , nếu tính theo đơn vị tỉnh , của Thừa Thiên Huế là 751,trong khi của Trà Vinh là
23, chênh lệch nhau 23 lần .
Hầu như năm nào Bộ Giáo Dục cũng đều có những sửa đổi, bổ sung hệ thống giáo dục đại
học từ việc thi cử cho đến nội dung giảng dạy nhưng đến nay thực sự vẫn chưa hồn thiện,
cịn q nhiều những vấn đề nảy sinh mà hàng ngày người ta phân tích đầy trên các mặt báo.
b. Nguyên nhân
-
Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt bất công bằng trong giáo dục đại học giữa các cá
nhân,vùng miền , sắc tộc là sự khác biệt về nguồn gốc tài sản bẩm sinh,cùng với chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế-xã hội nói chung
-
Gia tăng bất cơng của chính sách học phí thấp
-
Chưa cung cấp cơ hội cơng bằng cho tất cả những người có tài năng được hưởng giáo dục
đại học , nâng cao trình độ . Điều này thể hiện ở tình trạng những người xuất thân từ gia
đình có điều kiện thì khả năng tiếp cận với giáo dục đại học cao hơn những người đến từ
gia đình có thu nhập thấp . Nhiều sinh viên xuất thân từ gia đình khá giả có học lực kém
nhưng vấn khá dễ dàng có được vị trí trong các trường đại học tư nhân ,hệ mở rộng hay
10
thậm chí là ra nước ngồi du học . Trong khi nhiều người tuy đã thi đỗ đại học nhưng
không trang trải được chi phí đã phải bỏ .
-
Tuy nhiên, điều đáng nói hơn cả là vấn đề đầu tư cho nguồn lực con người. Nếu như đây
là nhân tố quan trọng hàng đầu trong tất cả mọi lĩnh vực, thì trong giáo dục đào tạo con
người là nhân tố quyết định sự thành bại. Con người ở đây là nói tới cả đội ngũ quản lý
các cấp và những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở các cơ sở. Chất lượng
chưa cao ở cả hai lực lượng này dường như khơng khó khăn lắm để nhận ra. Tuy nhiên
điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Gốc gác của vấn đề
chính là trên thực tế, giáo dục và đào tạo chưa được coi là quốc sách hàng đầu như được
nêu trong các văn kiện chính thức. Việc tuyển chọn cán bộ quản lý giáo dục cũng như
chính sách đãi ngộ khun khích người giỏi làm cơng tác giáo dục cịn nhiều bất cập và
chưa được chú ý đúng mức.
3. Giải pháp
Có thể nói giải quyết vấn đề cơng bằng trong xã hội chính là việc thu hẹp sự cách biệt xã hội ,
nhưng chúng ta chỉ có thể tiệm cận nó chứ ko thể gạt bỏ nó hồn tồn.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là điều kiện để phát triển nguồn nhân lực trong đó
vai trị của chính phủ đóng vai trị quyết định .Nhà nước phải vượt lên trên mọi quan niệm và xu
hướng xã hội ,nhìn vào nhu cầu tồn dân ,như thế mới mong giữ được công bằng trong giáo dục
Nhà nước thực hiện công bằng trong giáo dục , tạo điều kiện để ai cũng được đi học . Nhà nước
và cồng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập , tạo điều kiện để người có năng khiếu phát
triển tài năng
Luật giáo dục của Việt Nam cũng quy định : Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên đối với đối
tượng được hưởng chính sách xã hội , đối tượng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số , vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các đối tượng theo học các ngành đặc thù đáp ứng nhu
cầu nhân lực cho phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện bình đẳng giới trong xã hội.
Nhà nước tạo điều kiện về đàu tư cơ sở vật chất
Huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư giáo dục đại học có thể giải quyết được những vấn đề
nan giải của tài chính đại học .
Thiết lập các chương trình cho sinh viên vay vốn
Các chính sách hỗ trợ về tài chính bao gồm chính sách học bổng , học phí và tín dụng đề cập đến
chính sách học bổng và trợ cấp xã hội đối với sinh viên các trường hệ công lập
11
Phân bổ lại tài chính cho các dịch vụ xã hội cơ bản , trong đó bao gồm gia tăng tài chính cho
giáo dục để cải thiện lại chất lượng . Hiện nay tỉ lệ chi ngân sách cho giáo dục nhìn chung đã
giúp cho Việt Nam ngang hàng với các nước khác có cùng trình độ phát triển . Tuy nhiên mức
chi tuyệt đối cho giáo dục cơ bản vẫn còn thấp hơn so với các nước trong khu vực như Thái
Lan,Malaysia .
Đầu tư vào nâng cao chất lượng và đội ngũ nhân lực cơ sở - những giảng viên ,đội
ngũ quản lý giáo dục là một trong những cách tiếp cận cốt lõi . Tổ chức các khóa bồi
dưỡng nâng cao năng lực quản trị đối với cán bộ quản lý chủ chốt và đội ngũ cán bộ
quản lý cấp đơn vị trực thuộc của các cơ sở giáo dục đại học .
Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về đào tạo . Hợp tác và hội nhập quốc tế tạo
cơ hội cho sinh viên tham gia các chương trình trao đổi
Kết Luận
Bảo đảm cơng bằng trong giáo dục là nội dung quan trọng thể hiện trong luật của nước ta bảo đảm và
tôn trọng nhân quyền là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt trong luật và quy định giáo dục . Chính quyền
các cấp và các ban, ngành có liên quan nên nghiêm túc thực hiện chức trách bảo đảm công bằng trong
giáo dục theo quy định của pháp luật , không ngừng thúc đẩy tiến độ thực hiện công bằng trong giáo
dục . Cần quán triệt yêu cầu công bằng trong giáo dục đại học bằng các chính sách giáo dục . Cần dốc
sức thay đổi tình trạng thiếu hụt tài chính cho giáo dục , nỗ lực xây dựng chế độ tài chính cơng cộng .
Như vậy có thể thấy rằng , cơng bằng trong giáo dục đại học là mục tiêu thiết yếu của bất cứ quốc gia
nào trên thế giới nhằm đảo bảo quyền lợi cho mọi sinh viên . Thực hiện công bằng trong giáo dục là
một phần của nội dung thực hiện công bằng xã hội ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và để thực hiện mục tiêu giáo dục là: đào tạo nhân lực, nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Cho nên, cần phải tiếp tục thực hiện chống tái mù chữ, khắc phục tình trạng
bỏ học trong học sinh con em các gia đình nghèo và đối tượng chính sách, nhất là ở các vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có nhiều khó khăn. Cần giải quyết các bất hợp lý
trong chính sách và cơ chế đầu tư dẫn đến thiếu công bằng trong giáo dục giữa nông thôn và thành phố;
trong phân bổ ngân sách giữa các cấp học, bậc học; trong xây dựng cơ sở vật chất trường học. Cố gắng
giảm dần chênh lệch về điều kiện học tập và chất lượng giáo dục giữa các khu vực. Chính sách học
bổng, học phí, tín dụng học tập và các giải pháp hỗ trợ khác đã có cải tiến, nhưng vẫn còn chưa hợp lý,
nhất là đối với con em nông dân, công nhân nghèo và các đối tượng chính sách, phấn đấu vì mục tiêu:
“thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện
tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và
hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội ” .
12
13