Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

(bài thảo luận tư tưởng hồ chí minh) quan niệm, đặc điểm và giải pháp hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.16 KB, 14 trang )

THÀNH VIÊN NHÓM 10
STT

Tên thành viên
Thị

Mã sinh viên

1

Nguyễn

Thu

19D170189

2

Trang
Nguyễn Thiên Trang

19D170259

3

Trần

Thị

Huyền


19D170051

4

Trang
Trần Thị

Quỳnh

19D170120

5

Trang
Trương Thanh Trúc

19D170260

6

Phan Thị Tuyến

19D170330

7

Phạm Ánh Tuyết

19D170121


8

Trần Thị Ánh Tuyết

19D170191

9

Nguyễn Thảo Vân

19D170122

10

Phạm Hồng Vân

19D170332

11

Phạm Thị Hải Vân

19D170123

1

Đánh giá

Chữ kí



ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

Đề tài chính: Quan niệm, đặc điểm và giải pháp hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Đề tài phụ: Sự ra đời, phát triển và bản chất của nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam
A. Đề tài chính: Quan niệm, đặc điểm và giải pháp hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước lấy pháp luật làm cơ sở pháp lí thống nhất cho việc
điều hành mọi mặt hoạt động của nhà nước, của xã hội, của mọi công dân, dùng pháp luật làm
chuẩn mực để phân biệt tính hợp pháp và khơng hợp pháp; việc được làm và không được làm
trong thi hành pháp luật của các cơ quan và cán bộ nhân viên nhà nước, trong việc tuân thủ
pháp luật của mọi cơng dân, tóm lại là một nhà nước phục tùng một trật tự pháp lí loại trừ tình
trạng vơ chính phủ và tư nhân phục thù, các quyền dân chủ công dân đều được bảo đảm. Ở
Việt Nam, việc xây dựng nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất
yếu khách quan. Sau hơn 30 năm đổi mới, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa (XHCN) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng. Tuy nhiên, để tìm ra những kế hoạch và giải pháp giúp xây dựng và phát triển nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì trước hết chúng ta phải hiểu rõ được quan
điểm, đặc điểm của nó. Vì vậy, nhóm tơi đã chọn đề tài" Quan niệm, đặc điểm và giải pháp
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" để cùng thảo luận, nhằm
hiểu được về bản chất không chỉ nhà nước pháp quyền Việt Nam mà cịn của các đất nước
khác trên thế giới. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm thực tế để áp dụng ở Việt Nam, giúp
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.
1. Quan niệm và đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a. Quan niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật, nhà
nước hướng tới những vấn đề phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do,
bình đằng, phát huy hết năng lực của chính mình. Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền,

các cơ quan của nhà nước được phân quyền rõ ràng và được mọi người chấp nhận trên
nguyên tắc bình đẳng của các thế lực, giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, cách tiếp cận và những đặc trưng về nhà nước pháp quyền
vẫn có những cách hiểu khác nhau. Song, từ những cách tiếp cận đó, nhà nước pháp quyền
được hiểu là nhà nước mà ở đó, tất cả mọi công dân đều được giáo dục pháp luật và phải

2


hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh; trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước, phải có sự kiểm sốt lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ
nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đưa ra những nội dung khái quát liên quan đến nhà nước pháp quyển: Đề cao
vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật; đề cao quyền lợi về nghĩa vụ của công dân,
đảm bảo quyền con người; tổ chức bộ máy vừa đảm bảo tập trung, thống nhất, vừa có sự phân
cơng giữa các nhánh quyền lực, phân cấp quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền
nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, tránh lạm quyền. Bên cạnh đó, tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân được Hiến pháp sửa đổi ghi nhận nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước, nhân dân thông qua quyền lập hiến giao quyền lực nhà nước của mình
cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp như các Hiến pháp trước đây.
Theo Điều 70 Hiến pháp sửa đổi năm 2013, nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm
quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ
về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước. Đồng thời, Điều 6 quy định nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không những bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước,
mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông qua việc thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ
chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 29 và Điều 120)... Như
vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mới đúng, mới bảo đảm được
thực hiện đầy đủ, khơng rơi vào chung chung, hình thức. Và như vậy, sự thống nhất quyền lực

nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tập trung thống nhất ở
nhân dân chứ không phải tập trung ở Quốc hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận sâu sắc và
thực tiễn thiết thực. Có thể thấy: cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất ở mục tiêu chính trị chung là
xây dựng một “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế, biện pháp kiểm sốt và
ngăn ngừa và trừng trị quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền
làm chủ của công dân. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI
của Đảng đã chỉ ra nhiều yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nước và cho rằng: “… cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề, nhiều tầng, nhiều
nấc. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và chức năng, tiêu chuẩn cán bộ chưa được xác định rõ
ràng”. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là cơ sở để đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ

3


máy nhà nước. Đồng thời, cải cách bộ máy nhà nước sẽ thúc đẩy việc xoá bỏ cơ chế quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp, tạo ra cơ chế quản lý mới phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của
cải cách kinh tế.
Để thực hiện mục tiêu này, Đảng ta chủ trương “… Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần
thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước theo phương
hướng: Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động ở tất cả các cấp. Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương và cơ sở thành một hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản
lý theo địa phương và vùng lãnh thổ phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội…” Tổ
chức và hoạt động của bộ máy quản lý của nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống
nhất quyền lực, có phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung

ương.
Theo tiến trình của cơng cuộc đổi mới đất nước, nhận thức của Đảng ta về Nhà nước
pháp quyền ngày càng sáng tỏ. Với chủ trương: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
của dân, do dân, vì dân”. Đảng ta xác định: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ
quan, tổ chức, cán bộ, cơng chức, mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp
luật. Nhận thức đó là tiền đề để Đại hội XII của Đảng làm rõ hơn về nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng phối hợp, kiểm
sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Để đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước được tổ chức thống
nhất thành ba bộ phận: Lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền đó nhằm bảo đảm quyền lực là
thống nhất, được sử dụng đúng mục đích và được thực thi có hiệu lực, hiệu quả. Kiểm sốt
quyền lực nhà nước trở thành nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; trong đó, hoạt động giám
sát tối cao của Quốc hội và của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội được quan tâm
tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước trong bộ máy hành pháp đã
được đẩy mạnh, góp phần quan trọng trong quản lý nhà nước và đấu tranh phòng, chống tham
nhũng. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội và nhất là vai trị của nhân
dân đã được phát huy trong việc bảo đảm việc thực thi thực chất, đầy đủ và rộng rãi quyền
làm chủ của nhân dân theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám
sát”. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng đã được kết hợp chặt chẽ với việc thực thi các cơ chế
thanh tra, kiểm soát bằng pháp luật.

4


b. Đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, có thể thấy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta có sáu
đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đó là Nhà nước của dân,

do dân và vì dân.
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến pháp và pháp
luật.
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rõ ràng, có cơ chế phối hợp
nhịp nhàng và kiểm sốt giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, phù hợp với điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của Nhà nước được giám
sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông qua các
tổ chức, các cá nhân được nhân dân ủy nhiệm.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền con
người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Quyền dân chủ của nhân dân
được thực hành một cách rộng rãi; “nhân dân có quyền bầu và bãi miễn những đại biểu không
xứng đáng”; đồng thời tăng cường thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
có sự phân cơng, phân cấp, phối hợp và kiểm sốt lẫn nhau, nhưng bảo đảm quyền lực là
thống nhất và sự chủ đạo thống nhất của Trung ương.
Như vậy, những đặc điểm trên của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam
ta đang xây dựng đã thể hiện được các tinh thần cơ bản của một nhà nước pháp quyền nói
chung. Bên cạnh đó, nó cịn thể hiện sự khác biệt so với các nhà nước pháp quyền khác, Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản chất giai cấp cơng nhân, phục vụ lợi
ích cho nhân dân; nhà nước là công cụ chủ yếu để Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng đi
lên chủ nghĩa xã hội.
2. Giải pháp hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, nhất là sau khi thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) về “Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong sạch, vững mạnh”, cơng cuộc xây dựng và hồn thiện Nhà nước ta đã có những tiến bộ
to lớn. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã có bước đổi
mới vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ
động của các cơ quan nhà nước. Bản chất giai cấp cơng nhân, tính dân tộc, tính nhân dân của


5


Nhà nước được giữ vững và củng cố. Hệ thống quan điểm, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân từng bước được hoàn chỉnh.
Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 cùng nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban
hành, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Tổ chức,
bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là các cơ quan hành chính nhà nước đã
được đổi mới và hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước được phân định rõ hơn và trong tổ
chức thực hiện đã có những bước tiến tích cực. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát
huy trên nhiều lĩnh vực, tác động mạnh mẽ đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp có
nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Chính phủ và các bộ tập trung hơn
vào quản lý nhà nước, điều hành vĩ mô và giải quyết những vấn đề chiến lược liên quan đến
quốc kế dân sinh. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, tháo gỡ được nhiều khó khăn,
vướng mắc cho người dân và doanh nghiệp. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải
cách tư pháp được thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai thực hiện
nghiêm túc, đạt những kết quả bước đầu quan trọng. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, tổ chức luật sư, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn,
chất lượng hoạt động được nâng cao, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, hạn chế được tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Bên cạnh những cơ hội, quá trình xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam cũng phải đối mặt với khơng ít thách thức như:
Một là, áp lực trong việc phải khẳng định cơ sở khoa học và thực tiễn của mô hình nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là làm rõ hơn đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng. Nhà nước pháp quyền là một giá trị phổ biến của

phương Tây hiện đại. Nhưng mơ hình chúng ta lựa chọn là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, ngoài những đặc trưng chung của nhà nước pháp quyền nói chung, cịn có những đặc
thù của Việt Nam. Những khó khăn, thách thức gặp phải trong q trình xây dựng và hồn
thiện mơ hình này đặt ra u cầu ngày càng cấp bách đối với việc phải có nhận thức một cách
sâu sắc, toàn diện để làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của mơ hình này.
Hai là, sự chống phá công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam của các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước. Xây dựng nhà nước pháp quyền trong
bối cảnh có những đặc thù đã là một thách thức, nhưng khó khăn hơn là chúng ta luôn phải
đối mặt với sự chống phá hoặc ngấm ngầm, hoặc trực diện từ các thế lực thù địch cả trong và

6


ngồi nước. Bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập và phát triển càng làm cho các hình thức và thủ
đoạn chống phá trở nên tinh vi hơn, đồng nghĩa nguy cơ ngày càng lớn hơn. Đây cũng là một
trở ngại đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ba là, thiếu những cơ sở thực tiễn để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Như đã biết, tư tưởng nhà nước pháp quyền xuất hiện từ rất sớm, nhưng phải
đến thời đại cách mạng tư sản mới có những điều kiện để phát triển thành học thuyết và hiện
thực hoá trong thực tế. Nước ta hiện nay vẫn cịn những hạn chế nhất định về trình độ phát
triển kinh tế, trình độ dân trí, ý thức thượng tơn pháp luật của người dân… Những điều này
nếu không được khắc phục kịp thời sẽ là một thách thức lớn ngăn cản quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Bốn là, thách thức trong quá trình bảo tồn và gìn giữ các giá trị truyền thống của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa thế giới, đưa các giá trị Việt Nam đến gần hơn với các giá trị thế giới.
Tồn cầu hóa, hội nhập và phát triển đòi hỏi khả năng tự khẳng định trong quá trình giao lưu
và tiếp biến. Mong muốn hội nhập nhưng khơng hịa tan, tiếp thu có chọn lọc và hiệu quả các
giá trị thế giới cho phù hợp với điều kiện và các giá trị truyền thống của người Việt Nam cũng
là một thách thức rất lớn.
Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó,
yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đặt ra rất cấp bách. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của
Đảng đã nhấn mạnh “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị... Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được
tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn
với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Để Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, quản lý, điều hành đất nước hiệu lực,
hiệu quả, trước hết cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước: “Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung
giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết
định tồn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên
nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với
dân tộc, với nhân dân. Tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đảm
bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

7


Đồng thời, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội;
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu và con đường xã
hội chủ nghĩa; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, như Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa
XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đề ra. Thứ hai, cần cải cách thể chế và phương thức
hoạt động của Nhà nước. Kiệt toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Quốc hội để đảm bảo đây là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở nước ta, là cơ
quan cao nhất ở nước ta, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiên và lập pháp; thực hiện một số

nhiệm vụ thuộc quyền hành pháp và tư pháp, quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước; tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám
sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và sự giám sát của
nhân dân. Các cơ quan hành chính nhà nước phải nghiêm túc chấp hành các quyết định của cơ
quan dân cử trong trách nhiệm, quyền hạn được pháp luật quy định và chịu sự kiểm tra, giám
sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của nhân dân.
Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại
hóa. Đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà
cho tổ chức và nhân dân. Nâng cao năng lực, chất lượng và tổ chức thực hiện các cơ chế,
chính sách. Đẩy mạnh xã hội hóa các ngành dịch vụ cơng phù hợp với cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, quản lý
nhà nước có hiệu quả, giảm mạnh, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, đáp ứng tốt
nhất yêu cầu chính đáng của người dân, doanh nghiệp. Phân định rõ hơn vai trị và hồn thiện
cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Quy định rõ trách nhiệm và cơ
chế giải trình của các cơ quan nhà nước, đề cao đạo đức công vụ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương
trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức.
Thông qua các công cụ quản lý vĩ mơ và vai trị của kinh tế nhà nước để quản lý thị
trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hịa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện cơng bằng,
tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền và các tầng lớp dân cư.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực. Nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, cơng chức về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, điều hành
quản lí đất nước. Rà sốt, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, cơng chức theo hướng
khuyến khích cán bộ, cơng chức nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, đạo đức cơng vụ,
hồn thành tốt nhiệm vụ; chú trọng tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài; xây dựng cơ chế loại bỏ,
miễn nhiệm những người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm kỉ luật, đạo đức công vụ.

8



Bên cạnh đó, cần tích cực chuẩn bị đội ngũ luật sư, cán bộ các cơ quan tư pháp, bổ trợ
tư pháp có đủ khả năng tham gia tố tụng trong các vụ, việc có yếu tố nước ngồi và giải quyết
các tranh chấp quốc tế, bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp đối với từng lĩnh vực hoạt động tư pháp; thường xuyên cập nhật thông tin hợp
tác quốc tế về tư pháp và các lĩnh vực liên quan. Thứ tư, đấu tranh phịng chống tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm. Phịng chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm là
nhiệm vụ cấp bách lâu dài của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Với quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: Tiếp tục hoàn thiện các thể chế
đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ nhiệm vụ, phịng chống tham nhũng, lãng phí
Tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, đề cao tinh thần “thượng tôn pháp luật”, cần
coi trọng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp sức mạnh của pháp
luật với sức mạnh đạo đức, văn hóa và dư luận xã hội. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công
việc quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện
tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước cũng như trong đời sống xã hội. Xây dựng và
hồn thiện cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu trang chống tham nhũng, xây
dựng các chế tài để xứ lí các cá nhân và tổ chức vi phạm; động viên và khuyến khích tồn
Đảng, tồn dân thực hiện tiết kiệm.
Khơng những vậy, cần chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính
với trách nhiệm, quyền tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cụ thể hóa
đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm
sát nhân dân. Tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan điều tra tăng cường
tổng kết thực tiễn, bổ sung và hoàn thiện lý luận, rút ra những bài học kinh nghiệm về cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trên cơ sở đó, cung cấp những luận cứ
khoa học để tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội; Nhà nước hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả; nhân dân ngày càng tham gia nhiều

hơn vào các công việc của Nhà nước. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh
vực: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính cơng khai, minh bạch cao, phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Cần chỉ đạo chặt chẽ q trình chuẩn bị và thơng qua các dự án luật, bảo đảm quán triệt
đường lối, quan điểm của Đảng, tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp

9


tiên tiến của nước ngồi; tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, ý kiến đóng
góp của nhân dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Các bộ luật,
luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm tình trạng phải chờ
đợi văn bản hướng dẫn mới thi hành được. Tăng cường thơng tin, tun truyền, giải thích,
giáo dục pháp luật để nhân dân hiểu và tự giác chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, đấu tranh chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ cương, phép
nước. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời
cơ, vượt lên mọi khó khăn, thách thức, nhất định cơng cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân sẽ giành được những
thành tựu to lớn hơn nữa, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

10


*KẾT LUẬN:
Như vậy chúng ta có thể khẳng định từ bản chất trên của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, từ lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời gian qua, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản chất của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

dựa vào nhà nước chủ nghĩa xã hội và sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân. Đây là nền dân chủ
mà con người là thành viên trong xã hội với tư cách công dân, tư cách người làm chủ. Quyền
làm chủ của nhân dân là tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm
chủ. Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện thơng qua các hình
thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Và từ thực tiễn cho thấy bản chất tốt đẹp và tính
ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc.
Bên cạnh đó ta cịn hiểu được phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Một là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hai
là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Ba là, từng bước hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế
vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bốn là, hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là cơng việc hồn
tồn mới mẻ, cần đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng, tuyệt đối không
thể rập khuôn theo các giá trị và mơ hình xây dựng của các nước phương Tây với các mơ hình
và thể chế chính trị khác.
Cơng cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo đảm
nguyên lý của mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Vì vậy, yêu cầu
đặt ra là Đảng phải luôn đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy
tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của nhân dân. Đồng thời, để tiến nhanh
cùng với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, sự cầm quyền của Đảng trong quan hệ với xây
dựng nhà nước pháp quyền cần không ngừng được đổi mới: quyền lực chính trị của Đảng gắn
liền với quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân; cần gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp
của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân dân, thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân là thống nhất.

11



B.Đề tài phụ: Sự ra đời, phát triển và bản chất của nền dân chủ
XHCN ở Việt Nam.
1. Sự ra đời, phát triển của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.
a. Sự ra đời, phát triển của nền dân chủ của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.
Sự ra đời Chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta được được xác lập sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945. Đến năm 1976, tên nước được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nhưng trong các Văn kiện Đảng hầu như chưa sử dụng cụm từ "dân chủ XHCN" mà
thường nêu quan điểm "xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa" gắn với "nắm
vững chuyên chính vơ sản". Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa dân chủ
XHCN và nhà nước pháp quyền XHCN, cũng chưa được xác định rõ ràng.
b. Sự phát triển của nền dân chủ của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối ra mới toàn diện đất nước đã nhấn
mạnh phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho phát triển đất. Đại hội khẳng
định “ Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc,
xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động"; Bài học “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng” bao giờ cũng quan trọng. Thực tiễn cách mạng chứng minh rằng: ở
đâu , nhân dân lao động có ý thức làm chủ và được làm chủ thật sự, thì ở đấy xuất hiện phong
trào cách mạng". Hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trị
của dân chủ ở nước ta đã có nhiều điểm mới. Trước hết Đảng ta khẳng định một trong những
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là do nhân dân làm chủ. Dân chủ đã được đưa vào
mục tiêu tổng quát của cách mạng Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta , vừa là mục tiêu , vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.
Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp
luật bảo đảm”.
c. Bản chất nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.
Bản chất của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam là dựa vào Nhà nước xã hội chủ nghĩa và
sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân. Đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong xã hội
với tư cách công dân, tư cách của người làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân là tất cả quyền

lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm chủ. Điều này đã được Hồ Chí Minh
khẳng định:
“Nước ta là dân làm chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân.

12


Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở dân”.
Kế thừa tư tưởng dân chủ trong lịch sử và trực tiếp là tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh, từ khi ra đời cho đến nay, nhất là trong thời kì đổi mới, Đảng ln xác định xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là đôngnj lực phát triển xã hội , là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ gắn liền với kỷ cương và phải thể chế hóa bằng pháp
luật, được pháp luật bảo đảm... Nội dung này được hiểu là:
Dân chủ là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh).
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa (do dân làm chủ, quyền lực thuộc về
nhân dân).
Dân chủ là động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội (phát huy sưc mạnh của nhân dân,
của toàn dân tộc).
Dân chủ gắn với pháp luật (phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương).
Dân chủ phải được thực hện trong đời sống thực tiễn ở tất cả các cấp, mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội về lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện thông qua các hình
thức: dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp.

Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện do nhân dân
“ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu ra những con
người và tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm chủ cho nhân dân.
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thơng qua đó nhân dân bằng hành động trực
tiếp của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một yêu cầu tất yếu là không
ngừng củng cố, hoàn thiện những điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và chăm lo
đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Các quy chế dân chủ từ cơ sở đến trung ương và
trong các tổ chức chính trị - xã hội đều thực hiện phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm
và dân kiểm tra”. Bên cạnh đó, việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra
trong điều kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, lại chịu hậu quả chiến tranh tàn
phá nặng nề đi cùng với đó là những tiêu cực trong đời sống xã hội chưa được khắc phục triển
để gây trở ngại đối với quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ
thực tiễn cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc. Đây là chế độ đảm bảo quyền làm chủ trong đời

13


sống nhân dân từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội; đồng thời phát huy tính tích cực, sáng
tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi dân chủ là mục tiêu cơ bản và khơng ngừng phát
triển, hồn thiện mục tiêu đó. Trong gần 25 năm đổi mới, nền dân chủ XHCN ở nước ta
không ngừng phát triển, góp phần ổn định chính trị xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc
độ tăng trưởng cao và bền vững, góp phần bảo đảm trật tự, an ninh, an toàn xã hội, đưa nước
ta từng bước vững chắc tiến lên theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ XHCN ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy địi hỏi tất cả quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc cơ bản để
chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân

dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa. Trong cương lĩnh
xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
VII thơng qua năm 1991 đã ghi: Dân chủ XHCN là bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân
dân. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và
phải được thể chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn liền
với kỷ luật, kỷ cương và công bằng xã hội đòi hỏi phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trải qua 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện cương lĩnh 1991 nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng và được thế giới thừa nhận. Để tiến lên chủ nghĩa
xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát
triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu “tối thượng” của cách mạng: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của Đảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền
dân chủ XHCN vì nó là mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến lượt
nó, nền dân chủ XHCN được phát triển và hoàn thiện lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc
đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến
chín muồi, từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển. Q
trình này cần có thời gian và môi trường ổn định, đặc biệt là ổn định chính trị, xã hội. Muốn
duy trì ổn định chính trị, xã hội để tiến lên phải phát triển nền dân chủ XHCN và lấy đó làm
động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội từ thấp đến cao.
Bản chất chính trị của giai cấp cơng nhân đòi hỏi phải dùng phương pháp dân chủ để
quản lý nhà nước, cải tạo xã hội. Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới trong tiến trình lịch
sử, dân chủ XHCN là thực hiện quyền nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đây là bản
chất tốt đẹp của nhà nước XHCN đã và đang tồn tại, phát triển ở một số nước trên thế giới,
trong đó có nước ta. Vì vậy, địi hỏi chúng ta cần tự giác tuân thủ quy tắc dân chủ, xây dựng
và kiện tồn thể chế dân làm chủ, hình thành trật tự dân chủ ổn định, bền vững.

14




×