Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật việt nam từ thực tiễn cục quản lý thị trường thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.63 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ LAN

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HÀ
NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ LAN

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HÀ
NỘI

Ngành : Luật kinh tế
Mã số : 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Lê Mai Thanh

Hà Nội, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện khoa học xã hội xem
xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ...................7
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ...................................................................... 7
1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ.................................................................................................... 17
1.3. Vị trí, vai trị của cơ quan quản lý thị trường trong hệ thống
các cơ quan bảo về quyền sở hữu trí tuệ................................................................ 27
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI............................................................................................................. 30
2.1. Thực trạng xác định hành vi xâm phạm và các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ.................................................................................................... 30
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
bởi cơ quan quản lý thị trường.................................................................................... 42
2.3 Thực tiễn bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua hoạt động của

Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội........................................................... 49
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ CỦA CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỚ HÀ NỘI.........66
3.1. Phương hướng hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động hệ thống cơ quan Quản lý thị trường trong việc bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ........................................................................................................................ 66
3.2. Các giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ của Cục quản lý thị trường thành phố Hà
Nội............................................................................................................................................. 70
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 82


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QLTT:

Quản lý thị trường

SHTT:

Sở hữu trí tuệ

SHCN

Sở hữu cơng nghiệp

TRIPS:

Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại


của quyền sở hữu trí tuệ
WTO:

Tổ chức Thương mại Thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế phát triển hiện nay, nhiều công ty, doanh nghiệp đã rất
thành cơng nhờ khai thác có hiệu quả quyền SHTT. Xu thế này đã khẳng định
tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Thực tế
này đã đặt ra yêu cầu phải gia tăng mối quan tâm đến vấn đề SHTT trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn.
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả khơng chỉ bảo vệ lợi ích chính
đáng của chủ sở hữu nhằm thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu sáng tạo, sản
xuất, kinh doanh mà cịn góp phần nâng cao đời sống đời sống vật chất và tinh
thần cho toàn xã hội. Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) nên vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống sản xuất, bn bán
hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cịn phải xác lập theo các cam kết
chung trong khuôn khổ tổ chức này. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, tình
trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ ở nước ta hiện nay vẫn khá phổ biến và ngày
càng phức tạp, trong khi đó các biện pháp phịng ngừa, ngăn chặn, xử lý các
hành vi xâm phạm này chưa thực sự phát huy hiệu quả. Vậy nên, bảo vệ
quyền SHTT là một trong những mục tiêu trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội. Cục QLTT thành phố Hà Nội là một trong những cơ quan chuyên trách
của Nhà nước thực hiện chức năng phòng, chống, xử lý các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ; gian lận thương mại; hành vi vi phạm pháp luật về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa bàn thành phố Hà Nội. Bảo vệ quyền
SHTT là một trong những chức năng nhiệm vụ của Cục QLTT thành phố Hà

Nội. Qua thực tiễn, hoạt động này của Cục QLTT thành phố Hà Nội đã đạt
được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, thực
tiễn áp dụng pháp luật còn nhiều vướng mắc chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra. Do vậy, cần phải nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể thực trạng bảo vệ
quyền SHTT thơng qua hoạt động mang tính chức năng của Cục Quản lý thị
trường thành phố Hà Nội để có giải pháp hồn thiện pháp luật cũng như nâng
cao hiệu quả công tác này trên thực tế.

1


Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập này, tác giả đã chọn đề tài “Bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Cục Quản lý thi

trường thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, SHTT
ngày càng trở thành một trong những công cụ được sử dụng để nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế các quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Do vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở
nước ta hiện nay để giải quyết được những thách thức trong quá trình phát
triển và hội nhập quốc tế có ý nghiaxm vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Liên quan đến việc nghiên cứu pháp luật, đánh giá thực tiễn hoạt động bảo vệ
quyền SHTT thực tế đã có khá nhiều các cơng trình nghiên cứu, các bài viết
trên báo và các tạp chí chun ngành,… nổi bật là các cơng trình đã được
cơng bố sau: Bùi Thị Dung Huyền (2006), “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng
biện pháp dân sự tại tồ án nhân dân”, Tạp chí Tồ án nhân dân, Số16/2006;
Tào Thị Huệ (2014), “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp kiểm soát
biên giới”, Tạp chí Luật học, Số 3/2014; Nguyễn Thanh Tú (2010), “Bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ: chế độ tài sản và chế độ trách nhiệm dưới góc độ pháp

luật cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 2/2010; Nguyễn Ngọc
Sơn (2005), “Bảo vệ và thực thi có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ của ngành
hải quan - điều kiện quan trọng để Việt Nam gia nhập WTO”, Tạp chí Luật
học, Số 2/2005; Trần Văn Hải (2016), “Một số vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ
ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, Số 4/2001; Đặng Vũ Huân (2005),
“Nâng cao vai trò nhận thức xã hội trong hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 5/2005; Hồng Anh Cơng (2006),
“Pháp luật hải quan với việc thực thi bảo vệ quyền SHTT”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, Số 12/2006; Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), “Thực thi bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ của hải quan Việt Nam đối với hàng hố xuất khẩu,
nhập khẩu”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 5/2008. Cùng một số luận án,
luận văn: Vũ Thị Hải Yến (2008), “Bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sỹ, Đại học Luật Hà Nội;

2


Nguyễn Thị Ly Na (2012), “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật
Hà Nội; Trần Văn Khanh (2012), “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện
pháp hình sự - Quy định của pháp luật Việt Nam, thực trạng và giải pháp”,
Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội; Ngô Thị Hoà (2012), “Bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ đối với tên thương mại bằng biện pháp hành chính - Pháp luật
Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sỹ Đại học Luật Hà Nội…
Các cơng trình nghiên cứu trên đây đã luận giải một số vấn đề lý luận
của việc bảo vệ quyền SHTT nói chung, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo
vệ quyền SHTT và thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền SHTT trên một số lĩnh
vực và bằng phương thức, biện pháp cụ thể. Tuy nhiên, nghiên cứu về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tác nghiệp của Cục
Quản lý thị trường thành phố Hà Nội, cơ quan quản lý thị trường lớn thứ hai

trong cả nước, chưa được nghiên cứu tổng thể. Trên cơ sở tham khảo và kế
thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài
đã cơng bố, luận văn đi sâu nghiên cứu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích cứu luận văn:
Luận văn đánh giá pháp luật bảo vệ quyền SHTT và các biện pháp bảo
vệ trong đó đặc biệt bảo vệ thông qua thiết chế bảo vệ là cơ quan quản lý thị
trường tại đại bàn cụ thể - Hà Nội để có thể đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật bảo vệ quyền SHTT và tăng cường hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền
SHTT tại Cục QLTT thành phố Hà Nội.
- Nhiệm vụ nghiên cứu luận văn:
+ Luận văn sẽ phân tích lý luận chung về bảo vệ quyền SHTT; chỉ ra
những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ quyền SHTT như: Căn cứ, các
biện pháp bảo vệ, thẩm quyền bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; vai trị của cơ quan
QLTT và chức năng nhiệm vụ trong bảo vệ quyền SHTT..
+ Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền
SHTT qua thực tiễn tại Cục QLTT thành phố Hà Nội.

3


+ Trên cơ sở đánh giá đó, luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền SHTT tại Cục QLTT
thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học, tác giả
giới hạn nghiên cứu đề tài vào một số nội dung cụ thể sau đây:
- Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn bảo vệ quyền
SHTT qua thực tiễn Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội;

- Về thời gian: Từ năm 2005 (thời điểm Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
được ban hành) đến nay;
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung vào vấn đề bảo vệ khi
quyền SHTT bị xâm hại mà không mở rộng đến vấn đề xác lập và thực hiện
quyền của các chủ thể khác. Ngồi ra, luận văn cũng khơng mở rộng đến hoạt
động bảo vệ quyền SHTT của các cơ quan/tổ chức liên quan khác mà chỉ dựa
trên hoạt động QLTT thực hiện bởi Cục Quản lý thị trường Hà nội.
Dựa trên mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn xác định đối
tượng nghiên cứu là cơ sở pháp luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thực tiễn
bảo vệ quyền SHTT tại Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong q trình nghiên cứu, luận văn
đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lenin. Đây là phương pháp luận khoa học
được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận văn.
- Bên cạnh đó, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, logic, phương pháp hệ
thống, nghiên cứu liên ngành v.v được sử dụng khi nghiên cứu Chương 1- lý
luận về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ;

4


Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh,
thống kê… được sử dụng khi đánh giá thực tiễn bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
theo pháp luật Việt Nam tại Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội;
Phương pháp tổng hợp, quy nạp… được sử dụng khi đề cập phương
hướng và giải pháp nâng cao hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Cục

Quản lý thị trường thành phố Hà Nội;
Phương pháp lập luận logic được sử dụng khi nghiên cứu đề xuất các
phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ theo pháp luật Việt Nam tại Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn có một số đóng góp nhất định khu trú vào một số vấn đề cụ
thể sau:
- Luận văn hệ thống hóa và góp phần bổ sung cơ sở lý luận về bảo vệ
quyền SHTT.
- Luận văn phân tích, bình luận, đánh giá tổng thể hoạt động bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ tại Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội trong những
năm qua.
- Luận văn đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam tại Cục Quản lý thị
trường thành phố Hà Nội.
- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm tìm hiểu
về lĩnh vực pháp luật này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ qua hoạt động Cục Quản lý thị trường thành phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trí tuệ tại Cục Quản lý thị trường thành
phố Hà Nội

5



6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Trí tuệ là khả năng nhận thức lí tính đạt đến một trình độ nhất định. Thuật
ngữ “sở hữu trí tuệ” được dùng để chỉ các loại quyền tài sản bắt nguồn từ những
thành quả sáng tạo trí tuệ của con người. Thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” trong Cơng
ước Thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới chưa có được một định nghĩa chính
thức. Các quốc gia thành viên soạn thảo Cơng ước Cơng ước Thành lập Tổ chức
sở hữu trí tuệ thế giới được ký tại Stockholm vào ngày 14 tháng 7 năm 1967 lựa
chọn cách đưa ra một danh mục mang tính liệt kê các quyền liên quan quy định
tại Khoản viii, Điều 2: “Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; chương
trình biểu diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình
phát thanh truyền hình; các sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của
con người, các phát minh khoa học; kiểu dáng cơng nghiệp; nhãn hiệu hàng
hố, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại; bảo hộ chống cạnh tranh
không lành mạnh; và “tất cả các quyền khác bắt nguồn từ hoạt động trí tuệ
trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học và văn học hoặc nghệ thuật” (Khoản viii,
Điều 2). Theo Từ điển Tiếng việt, khái niệm quyền sở hữu trí tuệ là “quyền của
tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ” [45] .

Hiện nay, pháp luật các nước không định nghĩa thế nào là quyền SHTT
mà chỉ liệt kê các đối tượng của quyền SHTT. Ví dụ như pháp luật của Hoa
Kỳ không định nghĩa quyền SHTT mà chỉ quy định cụ thể về từng đối tượng
của quyền SHTT. Bộ luật Hoa Kỳ năm 1996 (United States Code 1996) dành
hẳn Quyển 7, Chương 58 để đưa ra quy định về bảo hộ giống cây trồng;

Quyển 15, chương 22 về nhãn hiệu; toàn bộ Quyển 17 về quyền tác giả;
Quyển 35 về văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công nghiệp [27].
Hiệp định TRIPS dành toàn bộ phần II để nêu ra các đối tượng của
quyền SHTT, gồm quyền tác giả, quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn
địa lý, kiểu dáng công nghiệp, patent (văn bằng bảo hộ sáng chế), giống cây

7


trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bảo hộ thông tin bị mất và giúp chống các
hoạt động cạnh tranh không lành mạnh [20].
Sở dĩ các quốc gia không đưa ra định nghĩa quyền SHTT vì các đối
tượng của SHTT ln thay đổi. Trong mơi trường kinh doanh tồn cầu hóa,
thị trường ngày càng đơng đúc, khoa học cơng nghệ phát triển nhanh chóng
con người đã tạo ra nhiều sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện đại
nên đưa ra định nghĩa về SHTT thì định nghĩa sẽ nhanh chóng lỡi thời. Do đó,
pháp luật về quyền SHTT của nhiều nước quy định định nghĩa bằng cách liệt
kê các đối tượng của tài sản trí tuệ.
Theo pháp luật Việt Nam, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi
bổ sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2019 Luật SHTT quy định: “Quyền
sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm
quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”. Như vậy, quyền SHTT bao gồm
các quyền sở hữu đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, tác phẩm khoa học,
sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn
hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và giống cây trồng.
1.1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ
Theo quy định cuả pháp luật, quyền SHTT là một loại quyền tài sản.
Quyền SHTT có những đặc điểm sau:
- Quyền sở hữu trí tuệ mang tính chất vơ hình

SHTT là loại tài sản vơ hình, phi vật chất khơng thể nhìn thấy bằng mắt
thường nên chủ sở hữu của loại tài sản này sẽ giữ quyên, không nắm giữ vật như
những loại tài sản hữu hình khác. Khác với các loại tài sản hữu hình, chủ sở hữu
có đủ ba quyền gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt, pháp
luật về quyền SHTT khơng quy định gì về quyền chiếm hữu. Điều này xuất phát
từ đặc tính vơ hình của các đối tượng SHTT. Chúng ta không thể nắm bắt, chiếm
hữu được các kiến thức về một giải pháp kỹ thuật hay một kinh doanh cơng
nghệ. Chỉ có một cách duy nhất để chiếm hữu chúng là giữ bí mật kiến thức đó.
Một khi kiến thức được cơng bố, phổ biến thì bất cứ ai cũng có khả năng sử dụng
và bắt chước theo. Chính vì điểm đặc thù này nên nếu các kiến

8


thức đó khơng được pháp luật bảo hộ, thì sẽ dẫn đến hậu quả là không ai chịu
phổ biến các bí quyết mà mình biết, mà hậu quả là trình độ khoa học kỹ thuật
khơng phát triển được. Ngồi ra, mặc dù quyền SHTT là tài sản vơ hình nhưng
nó thường có vai trị quan trọng và có giá trị kinh tế lớn, thậm chí loại tài sản này
có khả năng làm thay đổi vị thế của chủ sở hữu trên thương trường, hoặc quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp [19].

- Quyền SHTT bị giới hạn về thời hạn bảo hộ
Sự bảo hộ độc quyền của loại tài sản này bị khống chế bảo hộ trong
một khoảng thời gian nhất định. Theo Luật SHTT của Việt Nam, quyền tài sản
của các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết
danh có thời gian bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công
bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng
chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được
định hình thì thời gian bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định
hình. Quyền sở hữu cơng nghiệp, ngoại trừ các đối tượng như tên thương mại,

chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh sẽ được pháp luật SHTT bảo hộ vô thời hạn
khi những đối tượng này thỏa mãn các điều kiện theo như quy định của Luật
SHTT; các đối tượng sở hữu công nghiệp khác chỉ được pháp luật bảo hộ
trong một khoảng thời gian nhất định. Một trong những lý do quyền SHTT bị
khống chế như vậy là để đảm bảo nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu
tài sản SHTT và lợi ích xã hội bởi tài sản SHTT được con người sáng tạo ra
nhằm phục vụ cho cuộc sống của nhân loại được tốt hơn, do đó chủ sở hữu,
sau một khoảng thời gian được độc quyền sử dụng như khai thác giá trị
thương mại của tài sản trí tuệ do mình tạo ra, thì sản phẩm trí tuệ ấy phải được
nhân loại sử dụng thì mới có ý nghĩa [19].
- Quyền SHTT có tính lãnh thổ triệt để và bị giới hạn về không gian bảo
hộ Sự giới hạn bảo hộ và thực thi quyền trong phạm vi lãnh thổ mỗi quốc

gia cũng là một đặc điểm của loại tài sản này. Xuất phát từ điểm đặc thù này
nên tất cả các đối tượng SHTT ở lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan và
các đối tượng SHTT ở lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp sau khi được pháp

9


luật của một số quốc gia nhất định ghi nhận hoặc cơng nhận bảo hộ, thì các
quyền SHTT chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó [27].
1.1.1.3. Nội dung quyền sở hữu trí tuệ
Quyền SHTT là một loại quyền dân sự, các tác giả đồng thời là chủ sở
hữu của các loại tài sản này được pháp luật bảo hộ quyền nhân thân và quyền
tài sản. Trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu hai quyền này
sẽ tách bạch giữa tác giả và chủ sở hữu. Quyền nhân thân được pháp luật trao
cho các tác giả sáng tạo ra những đối tượng SHTT được bảo hộ trong các lĩnh
vực văn học, nghệ thuật hay kỹ thuật. Quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ
vô thời hạn (trừ quyền công bố tác phẩm) như quyền đặt tên cho tác phẩm,

quyền được đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, quyền được bảo vệ sự
toàn vẹn của tác phẩm, quyền được ghi tên là tác giả trong Bằng độc quyền
sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Bằng độc quyền sở hữu công
nghiệp và Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
Quyền tài sản là những quyền được pháp luật trao cho chủ sở hữu hoặc người
sử dụng hợp pháp các đối tượng SHTT của mình. Hiện nay pháp luật của Việt
Nam chỉ bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản đối với các đối tượng quyền
ở lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan, quyền đối với giống cây trồng và
một số đối tượng thuộc lĩnh vực sở hữu công nghiệp như sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. Các đối
tượng sở hữu công nghiệp khác như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại,
bí mật kinh doanh, pháp luật chỉ bảo hộ quyền tài sản, không bảo hộ quyền
nhân thân
- Chủ sở hữu quyền SHTT có quyền độc quyền sử dụng đối tượng
SHTT dưới những hình thức do pháp luật quy định
Sử dụng đối tượng SHTT có thể được hiểu một cách đơn giản nhất là
việc chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp quyền SHTT ứng dụng các đối
tượng SHTT được pháp luật bảo hộ của mình vào cuộc sống, vào việc sản
xuất, kinh doanh. Khai thác quyền SHTT là việc chủ sở hữu hoặc người sử
dụng hợp pháp quyền SHTT tiến hành khai thác các giá trị thương mại của
các đối tượng quyền SHTT thông qua các hoạt động như việc sử dụng các đối

10


tượng SHTT trong sản xuất, kinh doanh, chuyển giao quyền SHTT; chuyển
giao quyền sử dụng, quyền sở hữu, nhượng quyền thương mại, chuyển giao
cơng nghệ, góp vốn, hợp tác kinh doanh bằng quyền SHTT…Sau khi sản
phẩm trí tuệ được pháp luật bảo hộ, chỉ có chủ thể quyền SHTT mới có quyền
khai thác thương mại các đối tượng của mình vào cuộc sống, chỉ có họ mới có

quyền chuyển giao, chuyển nhượng quyền của mình. Nếu thiếu từ độc quyền
thì toàn bộ chế định về SHTT sẽ mất hết ý nghĩa bởi bất cứ ai cũng có thể ăn
cắp một sản phẩm sáng tạo, sáng kiến của các chủ thể quyền và làm giàu trên
công sức của những người lao động sáng tạo. Tuy nhiên, mặc dù quyền SHTT
là một dạng độc quyền song đây không phải là sự độc quyền mang tính tuyết
đối, trong một số trường hợp chủ sở hữu quyền SHTT sẽ khơng có quyền
ngăn cấm người khác sử dụng sản phẩm trí tuệ của mình nếu nó thuộc vào
những trường hợp pháp luật cho phép chủ thể khác sử dụng mà không cần xin
phép chủ sở hữu, những trường hợp này được gọi là giới hạn quyền SHTT.
1.1.1.4. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ
Quyền SHTT bao gồm các lĩnh vực truyền thống đó là quyền tác giả,
quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Pháp luật về SHTT của Việt Nam quy định, quyền SHTT là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên
quan; quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
- Quyền tác giả và quyền liên quan
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình
sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là
quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình
được mã hóa. Các tài sản quyền SHTT ở lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên
quan luôn được pháp luật bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản. Chủ sở
hữu quyền tác giả và quyền liên quan được độc quyền sử dụng và khai thác
tác phẩm của mình. Ngoại trừ những trường hợp được pháp luật cho phép sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận
bút, thù lao thì mọi hành vi sao chép, dịch, cơng bố, phổ biến…nhằm mục

11



đích kinh doanh mà khơng có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả và
quyền liên quan đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.
Quyền tác giả và quyền liên quan được xác lập tự động.
Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa
đổi, bổ sung năm 2019 đã quy định các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học cụ thể sẽ được bảo hộ quyền tác giả, bao gồm các loại hình tác
phẩm sau: a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác
phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; bài giảng, bài
phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí; tác phẩm âm nhạc; tác phẩm sân
khấu; tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự
(sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh); tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng
dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản
vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, cơng trình khoa học; tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian; chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu. Đối với quyền
liên quan, phát sinh trong các trường hợp như: người biểu diễn đồng thời là
chủ đầu tư có các tài sản đối với cuộc biển diễn như định hình cuộc biểu diễn
trực tiếp của mình; phát sóng hoặc truyền theo các khác đến cơng chúng cuộc
biểu diễn của mình chưa được định hình mà cơng chúng có thể tiếp cận được;
phân phối bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn dưới hình thức bán, cho thuê…
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, bao gồm: sao chép trực tiếp
hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình của mình; phân phối bản gốc và bản sao
cuộc biểu diễn dưới hình thức bán, cho thuê…Quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm, ghi hình, bao gồm: sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình
của mình; phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình
của mình và được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình của mình
và được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình đó được phân phối
đến cơng chúng. Quyền của tổ chức phát sóng như phát sóng, tái phát sóng
chương trình phát sóng của mình; phân phối đến cơng chúng chương trình
phát sóng của mình; định hình chương trình phát sóng của mình; được hưởng
các quyền lợi vật chất khi chương trình phát sóng của mình được


12


ghi âm, ghi hình, phân phối đến cơng chúng (Điều 29, 30, 31 Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, sửa đổi, bổ sung năm 2019).
- Quyền sở hữu công nghiệp
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được hầu hết các nước trên thế
giới thừa nhận, bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch
tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa
lý. Có nhiều tiêu chí để phân nhóm các đối tượng của quyền sở hữu cơng
nghiệp, căn cứ vào tính sáng tạo của sản phẩm thì quyền sở hữu cơng nghiệp
có thể phân chia thành hai nhóm: quyền sở hữu cơng nghiệp đối với thành tựu
sáng tạo trí tuệ (sáng chế, kiểu sáng cơng nghiệp, bí mật kinh doanh và thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn) và quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn
thương mại (nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và tên gọi
xuất xứ hàng hóa).
Nhóm quyền sở hữu trí tuệ là các thành tựu sáng tạo công nghệ là các
sản phẩm mang hàm lượng trí tuệ cao, có tính ứng dụng trong đời sống khoa
học, sản xuất để tạo ra các sản phẩm mới có giá trị sử dụng và kinh tế. Sáng
chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết
một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Kiểu dáng
cơng nghiệp là giải pháp mang tính mỹ thuật, dùng làm mẫu để chế tạo sản
phẩm công nghiệp, thủ cơng nghiệp. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là
cấu trúc không gian của các phần tử mạch và các mối liên kết các phần tử đó
trong mạch tích hợp bán dẫn, được bảo hộ nếu có tính nguyên gốc và tính mới
về thương mại. Bí mật kinh doanh là những thông tin thu được từ hoạt động
đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh
doanh. Nhóm thứ hai là các đối tượng liên quan đến chỉ dẫn thương mại được
sử dụng phổ biến trong các hoạt động kinh doanh thương mại, là dấu hiệu để

phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân, tên gọi của các tổ chức,
cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh (tên thương mại), những chỉ dẫn về
hàng hóa bắt nguồn về lãnh thổ của một nước thành viên hoặc từ khu vực hay
địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng uy tín hoặc đặc tính khác của
hàng hóa chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định (chỉ dẫn địa lý).

13


Quyền sở hữu công nghiệp bảo hộ quyền sử dụng độc quyền vì mục
đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công
nghiệp. Luật về sở hữu công nghiệp bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo và uy
tín kinh doanh. Sở hữu công nghiệp là sở hữu quyền dưới dạng tài sản vơ
hình. Quyền sở hữu cơng nghiệp được bảo hộ trên cơ sở văn bằng hoặc khi
đối tượng được bảo hộ vẫn đáp ứng điều kiện bảo hộ.
- Quyền đối với giống cây trồng
Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại
thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống,
có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự
phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây
trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di
truyền được. Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc
được hưởng quyền sở hữu. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống
cây trồng và vật liệu nhân giống. Quyền đối với giống cây trồng được xác lập
trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định pháp luật.
1.1.2. Ý nghĩa của quyền sở hữu trí tuệ và nhu cầu bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ
1.1.2.1. Ý nghĩa của quyền sở hữu trí tuệ

Thứ nhất, SHTT là nhân tố đem lại sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục
cho chủ thể sở hữu và xã hội
Nhìn vào lịch sử phát triển của các quốc gia, nhất là các nước công
nghiệp phát triển, SHTT được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí quan trọng
nhất đối với sự tăng trưởng của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng chế ra đời
và được bảo hộ, chủ thể sở hữu sản phẩm trí tuệ đó khơng những có được tỷ
lệ tiền bản quyền cao hơn và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các
tài sản vơ hình khác, mà chính người mua quyền SHTT đó và người xin cấp
giấy phép sử dụng cũng vui lòng trả nhiều tiền hơn do có sự bảo hộ. Việc bảo
hộ này nhằm giảm rủi ro trong các giao dịch thương mại về quyền SHTT,

14


nhưng đồng thời cũng tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua việc cung cấp
các hiệp định bảo hộ và nhân lên nhiều lần giá trị sử dụng của các tài sản trí
tuệ đã được bảo hộ đó bằng việc thương mại hố chúng, chính việc thương
mại hố các tài sản trí tuệ đã đem lại cho chủ thể sở hữu cũng như những
người mua quyền sử dụng tài sản trí tuệ đó những lợi ích kinh tế.
Thứ hai, SHTT là công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp cũng
như nền kinh tế quốc gia trong hội nhập
Hiện nay, năng lực SHTT là một trong những năng lực nội sinh quan
trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Quốc gia, doanh nghiệp nào có được
càng nhiều quyền SHTT thì năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp
đó càng cao. Với các nước đang phát triển, năng lực cạnh tranh thường thấp,
khả năng tiếp cận thị trường hạn chế, cho nên để có thể phát triển bền vững và
hội nhập hiệu quả, cần thiết phải đánh giá đúng vị trí quan trọng của SHTT.
Cách hiệu quả nhất là phải tiếp cận các chuẩn mực quốc tế về SHTT nhằm
xây dựng hệ thống SHTT có hiệu quả. Điều đó làm cho hoạt động SHTT xét
trên phạm vi quốc gia ngày càng có khuynh hướng tiến gần hơn tới chuẩn

mực chung của thế giới.
Thứ ba, SHTT là phương tiện đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia cũng như từng doanh nghiệp
Sở hữu các tài sản hữu hình là sở hữu cái có giới hạn, cịn sở hữu tri
thức, trí tuệ của nhân loại là sở hữu cái vơ hạn, vì vậy sẽ là vơ cùng bền vững
nếu biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả. SHTT là sở hữu một thứ tài
sản đặc biệt, khi sử dụng khơng những khơng mất đi mà cịn có khả năng kiến
tạo những sản phẩm trí tuệ cao hơn, là những tiền đề cho sự phát triển mạnh
mẽ và bền vững đối với những chủ thể sở hữu và xã hội.
Thứ tư, tuân thủ hệ thống quản lý SHTT là cách thức để các nước đang
phát triển tiếp cận bền vững hơn với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công
nghệ và hội nhập hiệu quả.
Nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí tuệ bao gồm sao chép, mơ phỏng,
thậm chí đánh cắp nguyên vẹn các thành quả sáng tạo kỹ thuật – kinh doanh là
nguy cơ thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế

15


cơng nghiệp hố. Bởi vậy, các nhà đầu tư nước ngồi chỉ chấp nhận chuyển
giao cơng nghệ và thực hiện các biện pháp đầu tư nếu nhận thấy đủ cơ hội
khai thác an tồn, hiệu quả cơng nghệ đó ở quốc gia dự định đầu tư.Vì vậy,
xác lập được một hệ thống bảo hộ SHTT hiệu quả và việc tuân thủ hệ thống
quản lý bảo hộ SHTT một cách nghiêm túc sẽ là một điều kiện tiên quyết tác
động đến quyết định đầu tư và chuyển giao của các công ty nước ngoài.
Thứ năm, một hệ thống bảo hộ quyền SHTT hiệu quả là một yếu tố để
chống lại nguy cơ tụt hậu và phát triển đất nước
Một khi cơ sở hạ tầng và khả năng kỹ thuật cho việc cải tiến công nghệ
đã được thiết lập ở một nước, nhất là ở các nước đang phát triển, hệ thống bảo
hộ SHTT sẽ thành một yếu tố thúc đẩy sự nghiệp cải tiến kỹ thuật. Bởi vậy,

câu hỏi đặt ra cho các nước đang phát triển khơng phải là có thiết lập hệ thống
bảo hộ SHTT hay không, mà phải là thiết lập như thế nào và vào lúc nào trong
quá trình phát triển kinh tế, kỹ thuật của đất nước sẽ là phù hợp cho việc áp
dụng một hệ thống bảo hộ toàn diện và hiệu quả [24].
1.1.2.2. Nhu cầu của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Quyền SHTT là một tài sản có tính đặc thù, được hình thành từ hoạt động
sáng tạo của con người và có tác dụng đem lại cuộc sống văn minh hơn cho con
người về cả mặt tinh thần và vật chất. Quyền SHTT khơng chỉ khuyến khích
người sáng tạo, nhà sáng chế mà những người khác có thể đưa ra những sáng chế
kế tiếp dựa vào những thông tin này. Tại thị trường sản phẩm và dịch vụ với các
chỉ dẫn thương mại của nhà kinh doanh cần được bảo hộ để thúc đẩy sản xuất.
Do đó, xã hội cần những biện pháp cụ thể để khuyến khích sáng tạo cũng như
bảo đảm thành quả đầu tư của doanh nghiệp, mặt khác nếu bảo hộ q chặt chẽ
thì sản phẩm trí tuệ sẽ không được xã hội khai thác triệt để.

Lợi ích xã hội sẽ tăng lên khi càng có nhiều người tiếp cận và sử dụng
tài sản trí tuệ ấy. Việc cung cấp miễn phí là đi ngược với các nguyên tắc thị
trường. Việc cung cấp miễn phí sẽ làm nảy sinh tình trạng hạn chế đầu tư hoặc
sáng tạo. Tình trạng này làm nản lịng các nhà đầu tư đồng thời nếu sử dụng
miễn phí sẽ làm mất đi động lực phát triển, cạnh tranh. Do đó, cần một cơ chế
quản lý nhà nước đứng ra bảo hộ quyền SHTT là một giải pháp tránh

16


hiện tượng kẻ ăn khơng sử dụng tài sản trí tuệ. Đề đảm bảo cân bằng lợi ích
giữa người chủ sở hữu và xã hội, Nhà nước phải duy trì việc bảo hộ quyền
SHTT trong một thời gian thích hợp.
Vấn đề bảo vệ quyền SHTT có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
quốc gia mà trước hết là quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền SHTT, chủ

thể sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng. Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, sở
hữu trí tuệ là một công cụ đắc lực đối với việc phát triển kinh tế- xã hội của các
quốc gia. Nhiều công ty, doanh nghiệp trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã rất
thành công và trở nên nổi tiếng nhờ khai thác có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ.
Sở hữu trí tuệ trở thành một tài sản có giá trị của doanh nghiệp, có thể được khai
thác để tăng doanh thu và lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong và ngồi nước. Tuy nhiên, cũng vì lợi nhuận kinh tế mà có hiện tượng một
số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xâm phạm quyền SHTT của người khác
khi khai thác mà khơng được phép. Tồn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế sâu rộng
trên khắp thế giới đã khiến các hành vi này ngày càng thể hiện đa dạng dưới
nhiều hình thức với thủ đoạn tinh vi, khó lường mà hệ thống pháp luật về SHTT
quốc gia chưa kịp thời điều chỉnh được. Vậy nên xu hướng coi trọng sự bảo vệ
SHTT từ chính chủ thể quyền bởi lẽ, nếu như quyền sở hữu một tài sản hữu hình
cho phép chủ sở hữu có quyền năng như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với
tài sản và thực tế, chủ sở hữu có thể kiểm sốt tài sản một cách trực tiếp thì đối
với tài sản hữu hình như SHTT thì khả năng xâm phạm quyền từ chủ thể khác sẽ
dễ dàng khi được công bố. Đồng thời, chủ thể quyền SHTT gặp khó khăn khi tự
bảo vệ quyền SHTT của chính họ sẽ đạt được hiệu quả tối ưu hơn. Vì vậy, địi
hỏi Nhà nước có thiết chế và cơ chế phù hợp để những đối tượng này phát huy
khả năng, vai trò.

1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các biện pháp bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, trong đó các
bên tham gia đáp ứng được những điều kiện do nhà nước quy định, có những quyền
và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Quan hệ pháp luật được

17



các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Do đó, bảo vệ quan hệ pháp luật sẽ căn cứ
vào pháp luật; cụ thể là các văn bản pháp luật đảm bảo điều kiện cho việc
thực thi quyền và quy định các hình thức chế tài khi quyền đó bị xâm hại.
Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác, những tranh chấp liên
quan đến việc xác lập quvền, sử dụng và chuyển giao các đối tượng thuộc
quyền SHTT thường phát sinh trong xã hội. Việc bảo vệ quyền SHTT là bảo
vệ quyền tài sản của các chủ thể và được hiểu dưới hai phương diện sau đây:
- Theo phương diện khách quan: Bảo vệ quyền SHTT là tổng hợp các
quy định của pháp luật được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp các chủ thể quyền
SHTT và các biện pháp xử lí hành vi xâm phạm quyền SHTT.
- Theo phương diện chủ quan: Bảo vệ quyền SHTT là những biện pháp
cụ thể được áp dụng để xử lí hành vi xâm phạm quyển sở hữu trí tuê tuỳ theo
tính chất, mức độ xâm phạm [19].
Theo từ điển Tiếng Việt, “Bảo vệ có nghĩa là giữ gìn cho khỏi hư
hỏng”, hay “Bảo vệ là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm để giữ cho được
nguyên vẹn…”. Tựu chung lại, đa phần các từ điển, tài liệu đều thừa nhận bảo
vệ là chống lại sự xâm phạm, hủy hoại tài sản hay các lợi ích hợp pháp khác
nhằm giữ gìn, bảo đảm sự nguyên vẹn của các giá trị.
Bảo vệ quyền sở hữu hiểu theo cách thức thông thường là sự chống lại
mọi sự xâm phạm đến tài sản, qua đó, bảo vệ chủ sở hữu được thực hiện đầy
đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của
mình. Dưới góc độ pháp lý, bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện
pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con người,
nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu,
khắc phục thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu.
Tóm lại, bảo vệ quyền SHTT là tổng thể các nguyên tắc, quy định pháp
luật và các biện pháp tương ứng được ghi nhận trong pháp luật nhằm xử lý
hành vi xâm phạm quyền SHTT và khắc phục hậu quả của hành vi đó.
Cho dù được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, bảo vệ quyền SHTT

đều có một số đặc điểm sau đây:

18


- Đối tượng được bảo vệ là quyền SHTT. Chủ thể quyền SHTT là tác
giả của tác phẩm, tác giả của sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
kiểu dáng công nghiệp; chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan, chủ sở hữu
quyền sở hữu công nghiệp và một số chủ thể khác được chủ sở hữu quyền cho
phép sử dụng các đối tượng SHTT theo quy định của pháp luật.
- Cách thức bảo vệ quyền SHTT là áp dụng các biện pháp khác nhau để
xử lí hành vi xâm phạm tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm.
Khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, chủ thể của quyền bị xâm phạm
có quyền tự bảo vệ bằng các biện pháp mà pháp luật cho phép nhằm ngăn
ngừa hành vi xâm phạm. Chủ thể có quyền bị xâm phạm có quyền yêu cầu tổ
chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành
vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai, bồi thường thiệt hại. Ngồi ra chủ
thể có quyền bị xâm phạm có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình hoặc khởi kiện ra tòa
án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Chủ thể áp dụng biện pháp bảo vệ có thể là chủ thể quyền SHTT hoặc
các cơ quan nhà nước khác. Các công ước quốc tế về SHTT cũng như pháp
luật Việt Nam đều cho phép chủ thể quyền SHTT tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền SHTT của mình. Chủ sở hữu là
chủ thể đương nhiên có quyền bảo vệ quyền sở hữu của chính mình. Đây là
chủ thể phải có tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong việc sử dụng các phương
thức để tự bảo vệ quyền sở hữu nhằm đảm bảo quyền lợi cho chính bản thân
mình. Trong trường hợp tài sản của chủ sở hữu bị xâm phạm thì tự chủ sở hữu
được quyền yêu cầu các bên có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm
phạm, đòi lại tài sản hoặc yêu cầu bồi thường. Bên cạnh các phương thức tự

bảo vệ, theo quy định của pháp luật nước ta, thẩm quyền xử lý hành vi xâm
phạm quyền SHTT thuộc về: Tồ án, thanh tra, quản lí thị trường, hải quan,
công an, uỷ ban nhân dân các cấp (Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005,
sửa đổi bổ sung năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2019).

19


- Mục đích của bảo vệ quyền SHTT là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể quyền SHTT; ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm
quyền SHTT.
Quyền sở hữu trí tuệ của các chủ thể được bảo vệ, tạo ra những điều
kiện để chủ sở hữu quyền SHTT có cơ hội khai thác có hiệu quả những thành
quả sáng tạo trí tuệ của con người trong sản xuất, kinh doanh. Pháp luật bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam tạo ra sự cân bằng lợi ích của các chủ thể
sáng tạo, các chủ thể khai thác, sử dụng sản phẩm sáng tạo nhằm đảo bảo các
lợi ích của các chủ thể có liên quan đến việc tạo ra và sử dụng các đối tượng
của quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện hữu hiệu, đồng thời ngăn chặn, chấm
dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT. Đối với mỗi phương thức bảo vệ quyền
sở hữu khác nhau thì mục tiêu hướng tới cũng khơng giống nhau. Tùy từng
trường hợp trên thực tế và theo quy định của pháp luật, mỗi một trường hợp
bảo vệ quyền sở hữu có thể áp dụng các trường hợp khác nhau sao cho phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh.
1.2.2. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền
SHTT
Một trong những nội dung hết sức quan trọng mà chủ thể quyền SHTT
và các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cần quan tâm, đó là
xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT và nhận biết rõ ai là người xâm
phạm quyền SHTT. Việc xác định đúng hành vi xâm phạm quyền SHTT sẽ
giúp cho chủ thể quyền chủ động trong việc bảo vệ quyền cũng như yêu cầu

các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền SHTT của mình một cách chính xác
và có hiệu quả, hạn chế được những rủi ro hoặc bất lợi, thậm chí là bị kiện
ngược lại. Cịn đối với các cơ quan có thẩm quyền sẽ bảo đảm việc xử lý
chính xác, đúng người, đúng hành vi và mức độ xâm phạm, tránh được những
sai sót. Đồng thời việc đó góp phần giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức
tôn trọng quyền SHTT cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ
thể quyền, người tiêu dùng và xã hội, trên cơ sở đó khuyến khích các tổ chức
cá nhân tích cực tạo dựng và đăng ký quyền sở hữu trí tuệ làm cho sở hữu trí

20


×