Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.41 KB, 67 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ LINH CHI

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH
DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH HỊA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ LINH CHI

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH
DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH HỊA BÌNH

Ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THẾ HƯNG

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của tơi, các kết quả
nghiên cứu được nêu trong Luận văn hiện chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu được đề cập trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh
tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét
để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Linh Chi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1- CÁC CƠ SỞ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH
DỤC TRẺ EM...............................................................................................................................6

1.1 Cơ sở lý luận của định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em

6
1.2 Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em

18
1.3. Ý nghĩa của định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em...25
CHƯƠNG 2- THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ
EM TẠI TỈNH HỊA BÌNH.......................................................................................................28

2.1 Đặc điểm tình hình các tội dâm hại tình dục trẻ em tại tỉnh Hịa Bình . 28


2.2 Thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em tại tỉnh Hịa
Bình.....................................................................................................................33
2.3. Ngun nhân của những khó khăn vướng mắc trong việc định tội danh
các tội xâm phạm tình dục trẻ em tại tỉnh Hịa Bình.....................................44
CHƯƠNG 3 - CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH CÁC
TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM................................................................................48

3.1 u cầu hồn thiện các quy định của pháp luật về các tội xâm phạm tình

dục trẻ em...........................................................................................................48
3.2 Giải pháp hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em............................................50
3.3 Các giải pháp khác...................................................................................... 53
KẾT LUẬN.................................................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................59


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
BLHS

: Bộ luật hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

TNHS


: Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số vụ án khởi tố về các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở tỉnh Hịa Bình

từ năm 2015 đến năm 2019........................................................................................................... 30
Bảng 2.2. Số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về các tội xâm phạm tình dục
trẻ em ở tỉnh Hịa Bình từ năm 2015 đến năm 2019........................................................ 33


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là tương lai, thế hệ kế tục sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đảm bảo quyền lợi
cho trẻ em vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nhiệm vụ quan trọng của Nhà
nước và toàn xã hội. Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm
tăng cường hiệu quả công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em như: Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật trẻ em; Luật hôn nhân gia đình; Luật phổ
cập giáo dục, tiểu học; Bộ luật hình sự; Bộ luật tố tụng hình sự và các quyết
định, nghị định, chỉ thị, thông tư của các ban ngành. Ngồi ra, Nhà nước đã
triển khai các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia liên quan đến hoạt
động bảo trợ, cứu trợ xã hội, giáo dục, bảo vệ trẻ em; phòng chống bạo lực,
xâm hại trẻ em. Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra khơng chỉ ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phịng…
mà cịn xảy ra ở các khu vực nơng thơn miền núi nơi có điều kiện kinh tế, đời
sống, văn hóa thấp, nhiều vụ án xảy ra có tính chất rất nghiêm trọng, thể hiện
sự suy đồi đạo lý, coi thường tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
trẻ em, gây bức xúc trong dư luận xã hội.

Hịa Bình là tỉnh tiếp giáp với Thủ đơ Hà Nội, có diện tích tự nhiên
khoảng 4.600km²; đơn vị hành chính bao gồm 10 huyện và 1 thành phố; 21 xã,
phường, thị trấn. Dân số trên 80 vạn người, với 6 dân tộc chính (Mường, Kinh,
Thái, Tày, Dao, H’Mơng) trong đó dân tộc Mường chiếm đa số với trên 63%
tổng dân số. Với đặc điểm địa lý nổi bật đa phần là khu vực miền núi, hẻo lánh,
nơi có trình độ dân trí thấp, điều kiện kinh tế khó khăn là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em có những
diễn biến phức tạp. Thực tiễn đấu tranh phịng chống tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em trên địa bàn tồn quốc nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Hòa
1


Bình nói riêng cịn tồn tại một số hạn chế thiếu sót trong việc áp dụng pháp
luật, cụ thể trong định tội danh dẫn đến việc xử lý các tội xâm phạm tình dục
trẻ em chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Với thực tiễn cơng tác của học viên tại tỉnh Hịa Bình, học viên lựa chọn
đề tài: “ Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh
Hịa Bình" là đề tài luận văn của mình với hy vọng sẽ đóng góp một phần
vào việc hồn thiện quy định của pháp luật hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của trẻ em.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian vừa qua, vấn đề trẻ em bị xâm phạm tình dục đã và đang
nhận được nhiều sự quan tâm của Nhà nước, xã hội, các nhà nghiên cứu, các
nhà làm luật và cả những cơ quan trực tiếp tiến hành tố tụng. Có nhiều cơng
trình, tài liệu đã nghiên cứu về đề tài này như sau:
- Giáo trình:
+ Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2013.
+ Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, GS.TS Võ
Khánh Vinh, năm 2014.

- Sách:
+ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm, GS.TS Võ
Khánh Vinh, năm 2004.
+ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017), đồng chủ biên TS. Trần Văn Biên & TS. Đinh Thế Hưng, năm 2018.
+ Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
- Luận văn, luận án:

2


+ Luận văn thạc sĩ “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh”,
Nguyễn Công Sáng, bảo vệ tại Học viện khoa học xã hội, năm 2018.
+ Luận văn thạc sĩ “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”, Lê Thị Mỹ Ly, bảo vệ tại Học viện khoa học xã
hội, 2018.
+ Luận văn thạc sĩ “Định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ
thực tiễn tỉnh An Giang”, Lại Văn Giang, 2019.
Ngoài ra, còn rất nhiều các bài viết chuyên ngành khác có nội dung liên
quan. Có thể thấy rằng hầu như nội dung các cơng trình nghiên cứu này chủ
yếu phân tích về dấu hiệu pháp lý của một số tội danh cũng như một số nội dung
trong các tội xâm phạm tình dục trẻ em, thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các
tội xâm phạm tình dục trẻ em hoặc một tội cụ thể trong nhóm tội tại địa phương;
tuy nhiên chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về việc định tội danh các tội
xâm phạm tình dục trẻ em tại địa bàn tỉnh Hịa Bình. Do đó việc nghiên cứu đề
tài “Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ thực

tiễn tỉnh Hịa Bình" có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn nhằm đưa ra

những giải pháp cụ thể, khả thi và đáp ứng được tình hình cải cách tư pháp
của Nhà nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn: nhằm đưa ra các giải pháp hồn
thiện quy định của pháp luật hình sự đối với định tội danh các tội xâm phạm
tình dục trẻ em, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội
xâm phạm tình dục trẻ em.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận chung về định tội danh đối
với các tội xâm phạm tình dục trẻ em; nghiên cứu, phân tích thực tiễn hoạt động

3


định tội danh tại địa bàn tỉnh Hịa Bình, từ đó làm rõ những khó khăn, vướng
mắc nhằm đưa ra kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017; so sánh đối chiếu với các quy định

của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 và các văn bản pháp luật có
liên quan quy định về các tội xâm phạm tình dục trẻ em; thực tiễn áp dụng các
quy định đó trong việc định tội danh tại tỉnh Hịa Bình.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Nghiên cứu về hoạt động định tội danh đối với các tội
xâm phạm tình dục trẻ em tại địa bàn tỉnh Hịa Bình.
+ Về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và lịch sử của Mác – Lê nin , tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự.

- Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: Phương pháp tổng hợp.
phân tích, so sánh đối chiếu, thống kê để giải quyết những vấn đề lý luận,
thực tiễn đặt ra từ đề tài của Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Góp phần bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý luận về
định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, giúp cho các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa trong cơng tác phịng chống các
tội xâm phạm tình dục trẻ em, làm rõ được khó khăn, vướng mắc trong q trình
thực thi pháp luật hiện hành, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định
4


của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn,
qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm
này.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có ba chương như sau:
Chương 1: Các cơ sở định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ
em
Chương 2: Thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em tại
tỉnh Hịa Bình.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh các tội xâm
phạm tình dục trẻ em.

5



CHƯƠNG 1
CÁC CƠ SỞ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH
DỤC TRẺ EM
1.1 Cơ sở lý luận của định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ
em
1.1.1 Khái niệm, phân loại, ý nghĩa của định tội danh đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em
Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm các giai đoạn: Định tội danh
và quyết định hình phạt, trong đó giai đoạn định tội danh là hoạt động cơ bản
được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên cho đến nay khái
niệm định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em chưa được quy định cụ
thể trong bất kì văn bản pháp luật nào. Khi đề cập đến khái niệm này, có nhiều
quan điểm khác nhau được đưa ra:
Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh: “Định tội danh là việc xác
định và ghi nhận về mặt pháp lý hình sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu
của hành vi tội phạm cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự”.
[16,tr.14]
Theo quan điểm của PGS.TS. Trần Văn Độ: “Xét từ góc độ chung nhất,
định tội là hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự nhằm cá biệt hóa các quy định của BLHS vào trường hợp hành vi nguy
hiểm cho xã hội cụ thể xảy ra, được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ,
chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi được thực hiện và tình
tiết khác của vụ án, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy
định cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu
của một cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi
được thực hiện và các tình tiết khác của vụ án, bằng các phương pháp và
thông qua các giai đoạn nhất định.” [18, tr.9]
6



Theo quan điểm của GS.TS Lê Cảm: “Định tội danh là một q trình
nhận thức lý luận có tính logic đồng thời là một trong những dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự
và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được
và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác
định được sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do
luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự
đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá
thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách cơng minh, có căn cứ và
đúng pháp luật.” [21, tr.13]
Theo quan điểm của TS. Trịnh Quốc Toản cho rằng: “Định tội danh là việc
xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp đồng nhất giữa các dấu hiệu của hành

vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm
cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự”. [ 22, tr.7]
Có thể thấy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về định tội danh, điểm
thống nhất chung có thể nhận thấy ở tất cả các quan điểm trên khi nhận thức
về bản chất của hoạt động định tội danh đó là:
Thứ nhất, định tội danh là hoạt động nhận thức có tính logic về sự phù
hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế so với các quy định
của pháp luật hình sự về một tội phạm cụ thể.
Thứ hai, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền trong các cơ quan đó thực
hiện dựa trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự.
Thứ ba, định tội danh là cơ sở cho việc quyết định hình phạt và giải
quyết các vấn đề khác có liên quan đến TNHS đối với người phạm tội.

7



Dựa trên cơ sở các tiếp thu những ý kiến của các tác giả khác nhau về định
tội danh, dưới góc độ quan điểm cá nhân, người viết cho rằng: Định tội danh là
hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng
được thực hiện trên cơ sở pháp luật, các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các
tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho
xã hội do người phạm tội thực hiện với các quy định của BLHS.

Định nghĩa định tội danh có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở để xác định
các đặc điểm cụ thể của hoạt động này nói chung và tội phạm nói riêng.
Định tội danh chia thành hai loại: Định tội danh chính thức và định tội
danh khơng chính thức.
Thứ nhất, định tội danh chính thức. “Định tội danh chính thức là hoạt
động xác định tội danh trong một vụ án cụ thể do cán bộ được Nhà nước ủy
quyền Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành.”
[17,tr.18]
Định tội danh chính thức là hoạt động mang tính tổ chức - quyền lực
Nhà nước, chủ thể tiến hành hình thức định tội danh này được Nhà nước quy
định trong Bộ luật tố tụng hình sự là các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án; và người tiến hành tố tụng gồm có:
Điều tra viên, Phó Thủ trưởng, Thủ trưởng Cơ quan Điều tra; Kiêm sát viên,
Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân; Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký Tòa án. Định tội danh chính thức diễn ra ở tất cả các giai đoạn tố tụng.
Định tội danh của là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng để xử lý
vụ án, đồng thời phải tuân thủ chặt chẽ nhất các quy định về trình tự, thủ tục
tố tụng hình sự trong từng giai đoạn.
Hậu quả của định tội danh chính thức là việc xác định TNHS đối với
người phạm tội được thể hiện trong các văn bản tố tụng và làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ pháp lý của đối tượng bị định tội danh. Định tội danh chính thức đối

8


là sự đánh giá về mặt pháp lý chính thức của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng đối với hành vi phạm tội xảy ra trong thực tế thỏa
mãn cấu thành tội phạm (CTTP) quy định tại BLHS năm 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017.
Thứ hai, định tội danh khơng chính thức. Khác với định tội danh chính
thức, định tội danh khơng chính thức khơng phải do những chủ thể có thẩm
quyền thực hiện mà là sự đánh giá của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý,
tác giả bài báo, tạp chí, cơng trình khoa học, sinh viên hoặc bất kỳ một người
nào khác. Mục đích của định tội khơng chính thức là phương pháp nhằm thể
hiện quan điểm khoa học, nhận thức của mình về vụ án. Nhiều trường hợp,
chủ thể định tội tiến hành và sử dụng kết quả định tội để minh chứng cho luận
điểm khoa học của mình.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm định tội danh các
tội xâm phạm tình dục trẻ em đó là: Định tội danh các tội xâm phạm tình dục
trẻ em là hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng dựa trên các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các
tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm
cho xã hội do người phạm tội thực hiện với các quy định của các điều luật
142, 144, 145, 146, 147 của BLHS, từ đó xác định một người có phạm tội
xâm phạm tình dục trẻ em hay khơng, nếu phạm tội thì theo quy định tại điều
khoản nào của BLHS.
1.1.2 Chủ thể, các giai đoạn và các trường hợp định tội các tội xâm phạm
tình dục trẻ em
1.1.2.1 Chủ thể của định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em là hoạt động được thực
hiện ở tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự từ khi khởi tố vụ án cho tới khi
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự. Chủ thể

9


định tội danh là các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án. Để xử lý hành vi phạm tội, Cơ quan Điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án phải tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp
luật để chứng minh tội phạm, người phạm tội; xác định các tình tiết cần thiết
của vụ án để quyết định truy cứu TNHS, phán quyết một người có tội hay
khơng có tội. Tùy theo giai đoạn tố tụng hình sự hoặc địa vị tố tụng trong vụ
án mà chủ thể định tội cũng khác nhau, cụ thể:
- Cơ quan điều tra:
+ Trong giai đoạn khởi tố vụ án, khi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra tiến hành thu thập thông tin, chứng cứ,
đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn

tin tội phạm; thực hiện các biện pháp khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi, định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ làm căn
cứ để khởi tố và tiến hành điều tra vụ án. Trong giai đoạn này, sau khi xác
minh tin báo tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, nếu hành vi khơng có dấu
hiệu của tội phạm hoặc thuộc trường hợp loại trừ TNHS thì Cơ quan điều tra
ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự (Điều 158 BLTTHS).
+ Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, với quyền hạn của mình Cơ
quan Điều tra tiến hành các hoạt động điều tra theo luật định để xác định tội
phạm và người phạm tội nhằm làm rõ các tình tiết trong vụ án. Kết thúc điều
tra, Cơ quan điều tra xác định người phạm tội đã phạm tội gì thuộc khung,
khoản nào, cùng với các tình tiết khác sau đó đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị
can ra trước Tòa án.
+ Chủ thể định tội của Cơ quan điều tra bao gồm Điều tra viên, Phó
Thủ trưởng, Thủ trưởng Cơ quan Điều tra;
- Viện kiểm sát:


10


+ Viện kiểm sát có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp:
hủy bỏ quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội
phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.
+ Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hiện việc định tội để
kiểm sát hoạt động điều tra và thực hành quyền công tố vụ án hình sự. Viện
kiểm sát thực hiện việc định tội để đề ra các yêu cầu điều tra; phát hiện và
kiến nghị về các vi phạm pháp luật tố tụng của cơ quan thực hiện việc điều tra
vụ án hình sự; phê chuẩn hay khơng phê chuẩn các quyết định quan trọng của
Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra...
+ Trong giai đoạn truy tố, trên cơ sở bản kết luận điều tra, đề nghị truy
tố của Cơ quan điều tra và hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát xem xét ra quyết định
đình chỉ vụ án hoặc truy tố bị can ra trước Tòa án.
+ Trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát cũng thực hiện việc định tội để
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử; nhất là để luận tội bảo
vệ bản Cáo trạng đã truy tố.
+ Chủ thể định tội ở Viện kiểm sát là Viện trưởng, Phó Viện trưởng và
Kiểm sát viên.
- Tịa án:
+ Riêng Tịa án nếu phát hiện có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra
và hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm thì Hội đồng xét xử qua việc xét xử tại
phiên tòa ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình
sự ( Khoản 4 Điều 153 BLTTHS).
+ Xét xử là giai đoạn trọng tâm của quá trình tố tụng giải quyết vụ án,

trong đó, trên cơ sở hồ sơ vụ án và bản cáo trạng, Tòa án có thể quyết định đình
chỉ vụ án khi có căn cứ hoặc mở phiên tòa, thực hiện việc điều tra chính thức
11


để kiểm tra các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tố;
thu thập thẩm định các tài liệu, chứng cứ và nghe tranh luận để ra phán quyết về
tội phạm, người phạm tội, áp dụng biện pháp TNHS đối với người bị kết tội.

+ Tại cơ quan Tịa án thì Thẩm phán, Hội thẩm; hoặc chỉ Thẩm phán
trong thủ tục rút gọn là chủ thể định tội.
1.1.2.2 Các giai đoạn định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ
em
Thứ nhất, xác định tình tiết của vụ án. Đây là bước rất quan trọng
trong định tội danh, vì việc chứng minh tội phạm nói chung, và việc xác định
các tình tiết của vụ án xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng là hoạt động có ý
nghĩa quan trọng đối với việc định tội. Trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành thu thập và làm rõ tất cả các
tình tiết liên quan đến vụ án một cách khách quan bằng các biện pháp được
quy định trong BLTTHS. Theo Điều 85 BLTTHS quy định những vấn đề phải
chứng minh trong vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm tình dục
trẻ em nói riêng, cụ thể như sau:
- Các tình tiết thuộc các mặt khách quan của tội phạm: Cần xác định có
hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm, hậu quả do hành vi đó
gây ra, phương pháp, phương tiện và cơng cụ thực hiện tội phạm. Để định tội
trong các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em cần xác định có hay khơng có hành
vi hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ơ, giao cấu đối với người dưới 16 tuổi hoặc sử
dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm xảy ra trên thực tế. Hành vi
phạm tội luôn luôn phải được chứng minh; khơng có hành vi phạm tội thì khơng
có tội phạm. Việc xác định thời gian phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng trong

việc xác định tuổi chịu TNHS theo Điều 12 BLHS hoặc trong việc xác định tuổi
của người bị hại trong định tội đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Các
tình tiết khác thuộc hành vi phạm tội như tình tiết xác định tính chất hành vi,
12


nguyên nhân, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại
do tội phạm gây ra về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đối với bị hại
... là yếu tố định tội, định khung hình phạt.
- Các tình tiết thuộc mặt chủ quan của tội phạm như chủ thể của tội phạm,
hình thức lỗi (cố ý hay vơ ý), năng lực trách nhiệm hình sự, động cơ, mục đích
phạm tội. Để định tội danh, phải xác định được những người thực hiện hành vi
phạm tội, đồng thời xác định các đặc điểm nhân thân của những đối tượng đó về
độ tuổi khi thực hiện hành vi phạm tội và tình trạng năng lực trách nhiệm hình
sự. Mục đích, động cơ phạm tội trong nhiều trường hợp là tình tiết định tội hay
định khung hình phạt cần phải được xác định trong quá trình định tội.

- Các tình tiết loại trừ TNHS: Tình tiết loại trừ TNHS là tình tiết phản
ánh khơng có hoặc làm mất cơ sở của TNHS.
+ Tình tiết phản ánh khơng có cơ sở của TNHS bao gồm: Tình trạng
khơng có năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể (Điều 21 BLHS), sự kiện
bất ngờ (Điều 20 BLHS).
+ Tình tiết làm mất cơ sở của TNHS bao gồm: Phòng vệ chính đáng
(Điều 22 BLHS), tình thế cấp thiết (Điều 23 BLHS), gây thiệt hại trong khi
bắt giữ người phạm tội (Điều 24 BLHS), rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm,
áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25 BLHS), thi hành
mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (Điều 26 BLHS).
Thứ hai, nhận thức đúng đắn quy phạm pháp luật. Khi định tội danh phải
căn cứ chính xác khoản, điểm của điều luật cụ thể ở phần các tội phạm và các
quy định liên quan của phần chung trong BLHS để đánh giá đúng tính chất,

mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra. Quy định của BLHS chia
thành các nhóm:
- Quy định về các cấu thành tội phạm: các dấu hiệu thuộc mặt khách
quan, chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, cấu thành tăng nặng hay cấu thành
13


giảm nhẹ của tội phạm. Đối với cấu thành có quy định khái quát cần phải căn
cứ vào nhận thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để hiểu đúng tư tưởng
người làm luật. Đối với cấu thành có quy định miêu tả cần phải nhận thức
chính xác sự miêu tả pháp lý đó của người làm luật trong khi định tội. Đối với
cấu thành viện dẫn, tức BLHS viện dẫn sang các văn bản pháp luật khác, chủ
thể định tội cần nhận thức đúng đắn nội dung các quy định được viện dẫn.
- Quy định về các tình tiết loại trừ TNHS: Trong quá trình định tội, chủ
thể định tội nhận thức đúng đắn về bản chất, điều kiện áp dụng các tình tiết
loại trừ TNHS mà BLHS quy định; có trách nhiệm xác định trong từng vụ án
cụ thể có dấu hiệu của các trường hợp loại trừ TNHS quy định hay khơng.
Nếu có thì vụ án phải được đình chỉ trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố;
được đình chỉ hoặc tun bố bị cáo khơng phạm tội trong giai đoạn xét xử.
- Quy định về hiệu lực áp dụng của văn bản pháp luật hình sự: Để định
tội đúng, chủ thể định tội cần nhận thức đúng đắn về hiệu lực áp dụng của văn
bản áp dụng pháp luật hình sự, bao gồm BLHS và các văn bản pháp luật mà
BLHS viện dẫn.
Thứ ba, xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu
được quy định trong pháp luật hình sự, trên cơ sở đó rút ra kết luận. Để định tội
danh đúng, sau khi xác định sự thật khách quan của vụ án và nhận thức đúng đắn
nội dung của các quy phạm pháp luật hình sự, chủ thể định tội danh sẽ tiến hành
kiểm tra, đối chiếu, so sánh lại để xác định sự phù hợp, chính xác giữa hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy
định trong luật đã lựa chọn. Sau khi xác định được đối tượng vụ án

thì phải xác định các khoản cụ thể được quy định trong Điều luật tại BLHS. Tiếp
đó, phải xác định xem vụ án có đồng phạm khơng, ai là người đồng phạm, thực
hiện hành vi phạm tội với vai trị cụ thể nào. Tiếp đó phải xác định hành vi phạm
tội đang ở giai đoạn hoàn thành hay chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
14


đạt và kiểm tra các vấn đề khác có liên quan, đặc biệt là các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS quy định tại Điều 51 và Điều 52 BLHS, từ đó đưa ra kết luận.

Thứ tư, đưa ra kết luận. Trong từng giai đoạn tố tụng, các chủ thể định
tội sẽ kết luận về hành vi phạm tội thể hiện trong các văn bản tố tụng khác
nhau, cụ thể:
- Trong giai đoạn khởi tố vụ án: Sau khi tiếp nhận và tiến hành xác minh

tin báo tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, nếu nhận thấy không có dấu
hiệu của tội phạm hoặc thuộc trường hợp loại trừ TNHS, cơ quan có thẩm
quyền giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố (Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát) ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố
thì ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự (Điều 158
BLTTHS). Nếu có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra và hành vi đó có dấu
hiệu của tội phạm thì các cơ quan có thẩm quyền nêu trên ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự; riêng Hội đồng xét xử qua việc xét xử tại phiên tịa mà phát
hiện có dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm
sát khởi tố vụ án hình sự (Điều 153, Điều 154 BLTTHS).
- Trong giai đoạn điều tra vụ án: Sau quá trình điều tra làm rõ các tình tiết
sự việc, nếu chứng minh được tội phạm và người phạm tội thì Cơ quan điều tra
ra Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, trong đó ghi rõ tên bị can; lý do và căn
cứ đề nghị truy tố; tội danh, điểm, khoản, điều của BLHS được áp dụng (Điều


233 BLTTHS). Nếu kết quả điều tra trong quá trình định tội không chứng
minh được tội phạm, người phạm tội hoặc có các tình tiết loại trừ TNHS, có
căn cứ miễn TNHS theo quy định của BLHS, thì Cơ quan điều tra ra Bản kết
luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra, trong đó ghi rõ lý do và căn cứ
đình chỉ điều tra (Điều 234 BLTTHS).
- Trong giai đoạn truy tố: Nếu chứng minh được tội phạm và người phạm
tội thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án bằng Bản cáo
15


trạng (Điều 243 BLTTHS). Nếu trong quá trình định tội, theo Viện kiểm sát
không chứng minh được tội phạm, người phạm tội hoặc có các tình tiết loại
trừ TNHS, có căn cứ miễn TNHS theo quy định của BLHS, căn cứ khơng
khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 155, Điều 157 BLTTHS,
thì Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án,
trong đó ghi rõ lý do và căn cứ đình chỉ vụ án (Điều 248 BLTTHS).
- Trong giai đoạn xét xử: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán
Chủ tọa phiên tịa ra quyết định đình chỉ vụ án hình sự nếu có một trong
những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155, các điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 157
BLTTHS. Riêng khi có căn cứ quy định tại điểm 1 (khơng có sự việc phạm
tội) hoặc điểm 2 (hành vi không cấu thành tội phạm) Điều 157 BLTTHS thì
Thẩm phán chủ tọa phiên tịa khơng có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ
án mà phải quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai, để Hội đồng xét xử phán
quyết bằng một bản án tuyên không phạm tội; đảm bảo thực hiện quyền được
suy đốn vơ tội của người bị buộc tội và quyền không bị kết án hai lần về một
tội phạm mà Hiến pháp ghi nhận.
1.1.2.3 Các trường hợp định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em
- Định tội danh theo cấu thành cơ bản: Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu
thành tội phạm chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng của mỗi tội phạm cụ thể, thể
hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm đó và chứa đựng yếu tố

định tội nhằm xác định tội phạm và phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm

khác. Cấu thành tội phạm cơ bản của các tội xâm phạm tình dục trẻ em được
thể hiện ở Khoản 1 của các Điều 142, 144, 145, 146, 147 BLHS năm 2015
sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Định tội danh theo cấu thành tăng nặng: Cấu thành tội phạm tăng nặng

là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội cơ bản thơng thường, cịn có
thêm những yếu tố khác khiến cho tội phạm tăng tính nguy hiểm cho xã hội
16


một cách đáng kể. Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng là việc định
tội danh theo các dấu hiệu định khung tăng nặng hay nói cách khác đó là các tình
tiết định khung tăng nặng TNHS được quy định tại các Khoản 2, Khoản 3 Điều
142, 144, 145, 146, 147 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Định tội danh trong trường hợp đồng phạm: Khoản 1 Điều 17 BLHS
năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Đồng phạm là trường hợp
có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.” (Điều 17 BLHS).. Để
xác định các tội xâm phạm tình dục trẻ em có đồng phạm cùng thực hiện hành
vi phạm tội hay khơng có thể dựa vào dấu hiệu như sau:
+ Hành vi phạm tội đồng phạm đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em
phải xâm phạm cùng khách thể là xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về
tình dục, danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe của trẻ em. Đối tượng tác

động là người dưới 16 tuổi.
+ Trong trường hợp đồng phạm thì hành vi phạm tội của người thực
hành là căn cứ để định tội, người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn
nào thì những người đồng phạm khác sẽ phải chịu TNHS đến giai đoạn đó..

+ Những người tham gia trong đồng phạm thực hiện tội phạm với lỗi cố
ý.
- Định tội danh với trường hợp tội phạm chưa hoàn thành:
+ Định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội: Chuẩn bị phạm tội
là giai đoạn người phạm tội có những hành vi tạo ra điều kiện cần thiết cho
việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó và khơng
phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu TNHS.
Theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 14 BLHS năm 2015 đã liệt kê các
tội phạm mà người phạm tội phải chịu TNHS trong giai đoạn chuẩn bị phạm
tội không quy định giai đoạn chuẩn bị phạm tội đối với các tội xâm phạm tình
dục trẻ em phải chịu TNHS.
17


+ Định tội danh trong trường hợp phạm tội chưa đạt: Trong một vụ án
hình sự, để xác định về trường hợp phạm tội chưa đạt, ta cần xem xét các yếu
tố sau: Về mặt khách quan của tội phạm: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện
hành vi khách quan hoặc hành vi liền trước đó được mơ tả trong cấu thành tội
phạm, tuy nhiên, người phạm tội đã dừng lại khi chưa thực hiện hết các dấu
hiệu trong mặt khách quan. Về mặt chủ quan của tội phạm: Có thể thấy rằng
nguyên nhân khiến cho việc dừng hành vi phạm tội lại khi chưa hoàn thành
được tội phạm là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Về mặt ý chí, họ vẫn muốn thực hiện đến cùng các hành vi để hoàn thành tội
phạm. Đây cũng là một điểm để phân biệt giữa trường hợp phạm tội chưa đạt
(Điều 15 BLHS) và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 BLHS).
Do đó, tuy trên thực tế, phạm tội chưa đạt tuy chưa phải là hành vi thực hiện
tội phạm hoàn thành nhưng đã phần nào xâm phạm trực tiếp đến khách thể
hoặc trực tiếp đe doạ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tội danh mà họ bị
truy cứu trong trường hợp này chính là tội phạm mà họ dự định thực hiện
nhưng chưa thể thực hiện đến cùng hành vi của mình.

1.2 Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ
em
1.2.1 Khái niệm định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Khái niệm tội phạm là vấn đề cơ bản nhất của Bộ luật hình sự, là cơ sở
thống nhất cho việc xác định những tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm
của BLHS, mặt khác thể hiện rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự
Việt Nam. BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định khái niệm
của tội phạm cụ thể tại Khoản 1 Điều 8.
Đối với độ tuổi chịu TNHS, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi

18


tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác…” ( Điều 12
BLHS)
Theo Từ điển Tiếng Việt thì khái niệm: “Xâm phạm là động chạm đến
quyền lợi của người khác” [29, tr.1054], cịn “tình dục là nhu cầu tự nhiên
của con người về quan hệ tính giao” [29, tr.917]. Theo đó xâm phạm tình dục
trẻ em là xâm phạm, động chạm đến quyền tự do, nhu cầu phát triển tự nhiên
của trẻ em về quan hệ tính giao. Theo quy định tại khoản 5,8 Điều 4 Luật trẻ
em năm 2016:“Xâm phạm tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến
tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử
dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày
01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại các Điều 141,142,143,144,145, 146, 147 của BLHS và việc
xét xử vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi (sau đây gọi tắt là Nghị
quyết số 06) quy định tại Khoản 1 Điều 2: “Xâm phạm tình dục người dưới 16

tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới
16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm,
cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16
tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm
phạm tình dục được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng
bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví
dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...).”
Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là nhóm tội thuộc Chương XIV
BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là Chương “Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” bao gồm các tội : tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS), tội cưỡng dâm người từ đủ 13
19


×