Chỉ số EQ và vấn đề giáo dục nhân cách
Trí tuệ có đại diện cho nhân cách? Cốt lõi của việc giáo dục nhân cách?
Trong sự phát triển tâm lý học ở cả phương Tây và phương Đông, một thời
gian rất dài người ta đề cao trí tuệ đến mức xem tài trí như là cốt lõi của
nhân cách. Các nhà tuyển dụng trước đây chỉ lấy IQ (Intelligece Quotient -
chỉ số thông minh) làm thước đo giá trị cá nhân. Với cách nhìn như thế, suốt
hơn một thế kỷ vừa qua, ngay các nước tự xưng là "văn minh" vẫn coi chỉ số
IQ bậc cao là ưu thế tuyệt đối, là yếu tố duy nhất để thành nhân và thành
công.
Sai lầm đó mãi đến cuối thế kỷ 20 mới được phản tỉnh, khi mà các mạng
tuyền thông Internet với những cấu trúc dữ liệu tối mật của nhiều quốc gia bị
đánh cắp hoặc bị quấy rối bởi những "tin tặc" có chỉ số IQ siêu đẳng! Loài
người còn phản tỉnh nhiều hơn (dù muộn màng) khi người ta thấy mạng lưới
tội phạm quốc tế ngày càng đông, với những tên trùm mafia vừa cực kỳ
thông minh lại cũng cực kỳ gian ác! Thì ra nếu chỉ đo lường nhân cách theo
chỉ số IQ, ta không thể rạch ròi được hai loại người: thiện - ác; tốt - xấu; hữu
ích - có ích. Thật nguy hiểm nếu kẻ ác lại có chỉ số IQ bậc cao!
Thực tế đã chứng minh: nhiều người rất thông minh mà thuộc loại đục
khoét, quấy nhiễu... có hại cho cộng đồng và xã hội. Ngạn ngữ Italia đã có
câu: "Không phải đằng sau sự thông minh bao giờ cũng có một nhân cách
cao cả". Giá trị bản thân/ giá trị cá nhân được xác định chủ yếu bằng một đại
lượng khác, dùng một thước đo khác căn bản hơn, nhân bản hơn. Có ích -
không có ích đối với công việc và đối với cộng đồng trước hết xuất phát từ
hệ thống cảm xúc của cá nhân trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích cộng đồng.
Chỉ số EQ & nhân cách
EQ là viết tắt của cụm từ "Emotional Quotient" - chỉ số cảm xúc. Những
người có công trong nghiên cứu chẩn đoán và đưa ra chỉ số EQ là hai nhà
tâm lý học: Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshine
(Mỹ) năm 1996. Nhưng trước đó một năm (1995), trong cuốn sách của mình
(với đề tựa Emotional intelligence), nhà tâm lý học Daniel Goleman đã đề
cập đến chỉ số cảm xúc trong lĩnh vực trí tuệ, còn gọi là sự thông minh của
tâm hồn hoặc thông minh trong cảm xúc.
Trên thực tế, ta thấy có nhiều người không thông minh về chữ nghĩa, về
khoa học nhưng họ ứng xử rất nhân bản, rất được lòng người. Họ không
được rèn luyện nhiều về tư duy, nhưng họ đã tự rèn luyện nhiều về cảm xúc
theo hướng chân - thiện - mỹ. Nhờ vậy họ vẫn thành công, ít nhất là thành
công trong sự chinh phục nhân tâm, đó lại là sự thành công cơ bản nhất. Một
sự rèn luyện mà được như thế có gốc gác từ giáo dục gia đình từ thuở ban
sơ, từ thời còn nhỏ.
Hai nhà tâm lý học Peter Salovey và John Mayer đã bỏ ra 15 năm liên tục
theo dõi một nhóm trẻ 10 em sống trong những môi trường giáo dục khác
nhau (đặc biệt là môi trường gia đình). Thoạt đầu, lúc nhóm trẻ đó ở lứa tuổi
lên 4, hai ông đưa từng em vào một căn phòng hấp dẫn với nhiều hoa quả
tươi ngon và dặn: hãy ngồi chờ 20 phút sau mới cho ăn thả cửa, còn không
thì sau 20 phút chỉ cho ăn một trái nhỏ mà thôi. Nói xong hai ông ra ngoài,
để các em được tự do.
Ngay sau khi rời khỏi phòng, nhờ hệ thống camera gắn sẵn ở mỗi phòng, họ
thấy 4/10 em luôn dán mắt vào trái cây, nuốt nước miếng liên tục, chỉ sau
hơn 5 phút đã vội lấy 2-3 trái ăn ngầu nghiến. 3/10 em khác chỉ chờ được 10
phút cũng không nhịn nổi, ăn luôn. 1/10 em chờ đến phút thứ 17 rồi cũng ăn.
Còn lại 2/10 em hoặc ngó lơ (không nhìn vào trái cây) rồi nghêu ngao vài
câu hát, hoặc gục đầu xuống bàn rồi thiếp ngủ, không ăn.
Tiếp tục theo dõi sự lớn lên của 10 em đó sau 15 năm (đến tuổi 19), các nhà
tâm lý học ấy thấy rằng chỉ có hai em nói trên trở thành những công dân
vững vàng và chín chắn trong cảm xúc, tự tin và thành đạt trong học tâp.
Những em khác, nhất là bốn em đã không tự kiềm chế nổi cảm xúc ngay từ
đầu, trở nên "có nhiều khuyết tật" về tâm hồn: sống ích kỷ, giàu lòng tham,
ngại thử thách, cứng đầu, thích nổi loại, mau chán nản, khó tự tin... đến mức
khó thích ứng với công việc và khó hoà nhập với cuộc sống.
Cuộc khảo sát trên đây cho thấy những biến đổi tâm lý của mỗi cá nhân (và
kéo theo là sự hình thành nhân cách) thường xoay quanh "trục" cảm xúc. Và
trên thực tế, trục cảm xúc ấy ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến nhân cách và
chất lượng sống của cá nhân đó. Nếu trục cảm xúc luôn được điều chỉnh và
cải thiện để liên tục được "nâng cấp" theo hướng nhân bản, thì mọi cơ chế
hoạt động của người đó sẽ được hoàn chỉnh dần trên con đường thành nhân
và thành công. Chính sự "nâng cấp ấy đã làm tăng trưởng nhân cách, cũng
góp phần tăng trưởng cả IQ và EQ.
Làm sao để nâng cao chỉ số EQ?
Khi đo (hay tự đo) chỉ số EQ, vấn đề đáng quan tâm không chỉ là xác định
được chỉ số EQ của ai đó đang ở vị trí cao hay thấp, mà chủ yếu là tự bản
thân mỗi người dần có một nhu cầu tự cải thiện và nâng cao chỉ số đó lên.
Dưới đây là tóm tắt những giải pháp tâm lý được tổng hợp thành "4 không":
1. Không chạy theo nhũng cảm xúc thấp kém.
2. Không lệ thuộc vào cảm xúc của người khác.
3. Không lấy nhận thức cảm tính làm cơ sở cho việc lựa chọn cảm xúc.
4. Không lấy thành tích danh nghĩa làm thước đo cho sự đánh giá cảm xúc.
Ở các nước phát triển cao, việc nghiên cứu chỉ số EQ cho phép các công ty
tuyển dụng được người có "căn bản" (hơn là chỉ có tay nghề). Họ sẽ loại
người có IQ cao mà EQ thấp, để giữ lại người IQ và EQ đều cao. Việc đề
bạt và tưởng thưởng cũng thế. Họ quan niệm chỉ số EQ cao cũng là một
dạng thông minh đặc biệt. "Nếu IQ là chỉ số đặc trưng cho sự thông minh trí
tuệ thì EQ được coi là chỉ số đặc trưng cho sự thông minh tâm hồn" (Peter
Salovey).