Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Những điều chưa biết về ô-xy già

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.96 KB, 6 trang )

Những điều chưa biết về ô-xy già

Trong mỗi hiệu thuốc, nhà thuốc, nước ô xy già là loại thuốc không thể
thiếu. Tuy nhiên chúng ta mới chỉ biết đến tác dụng sát khuẩn, làm sạch vết
thương mà chưa khai thác hết công dụng của loại thuốc sát khuẩn này.
Nước ôxy già không lành như ta tưởng
Nước ô xy già còn có tên khoa học là Hydrogen peroxid được sử dụng như một
thuốc kháng khuẩn thứ yếu, có tác dụng tẩy uế, làm sạch vết thương và khử mùi.
Vì thế ngoài việc sử dụng để làm sạch vết thương, vết loét, nước ô xy già còn
được sử dụng kết hợp với những chất khử khuẩn khác để tẩy uế tay, da và niêm mạc;
rửa miệng trong điều trị viêm miệng cấp và súc miệng khử mùi; làm sạch ống chân
răng và hốc tủy răng, nhỏ tai để loại bỏ ráy tai.... Ngoài ra, nước ô xy già còn có tác
dụng cầm máu nhẹ.
Khi bôi ô xy già vào vết thương (ô xy già tiếp xúc với mô của cơ thể), ta thấy
có hiện tượng sủi bọt là do ô xy già giải phóng ra oxygen có tác dụng kháng khuẩn,
dẫn đến loại bỏ mảnh vụn của mô và loại bỏ mủ để làm sạch vết thương. Tuy nhiên,
tác dụng kháng khuẩn này chỉ duy trì trong thời gian oxygen giải phóng ra và thời gian
này rất ngắn.
Tuy nhiên nước ô xy già cũng không “lành” như ta tưởng. Chúng cũng có thể
gây ra những tác dụng phụ ngoài ý muốn như có thể gây ung thư (nên tránh dùng
nhiều lần trong thời gian dài). Dung dịch ô xy già có nồng độ đậm đặc có thể gây tổn
thương mô (vì thế đối với loại dung dịch ô xy già có nồng độ 27%, 30% được sử dụng
để pha những dung dịch loãng hơn và không được bôi lên các tổn thương dạng chưa
được pha loãng).
Nước ô xy già cũng có thể gây kích ứng “bỏng” da và niêm mạc. Khi sử dụng
nhắc lại nhiều lần đặc biệt dùng để súc miệng hoặc rửa miệng trong thời gian dài có
thể gây phì đại nhú lưỡi (còn gọi là hiện tượng lưỡi có lông) nhưng sẽ hồi phục.
Và cuối cùng cần lưu ý không bôi nước ô xy già lên những vết thương đang
lành (lên da non) vì sẽ gây tổn thương mô, khiến vết thương lâu lành hơn.
Ô xy già có nhiều nồng độ khác nhau từ 1,5-30%. Tùy theo mục đích
sử dụng mà chọn nồng độ thích hợp nhưng thông thường dùng loại có nồng


độ từ 1,5-3%.
Để làm sạch vết thương hoặc vết loét dùng dung dịch ô xy già 1,5-3%
hoặc dạng gel 1,5% bôi tại chỗ. Để rửa miệng và xúc miệng khử mùi trong
điều trị viêm miệng cấp dùng nước ô xy già 1,5-3% nhưng thường pha loãng
ra với cùng thể tích nước. Để làm sạch những vết thương nhỏ ở miệng hoặc
lợi, dùng ô xy già 1,5% dạng gel, bôi 4 lần/ngày (bôi một lượng gel nhỏ bôi
vào, để yên ít nhất một phút, sau đó khạc nhổ ra). Đối với trường hợp muốn
loại bỏ ráy tai, cần pha loãng một phần dung dịch nước ô xy già 6% với ba
phần nước trước khi nhỏ tai.

Viên nang TINH CHẤT NHUNG HƯƠU ELK

Vì sao cơ thể bị bệnh ung thư?
Trong cơ thể, bình thường luôn có sẵn mầm ung thư, nhưng bị ức chế hoạt động
bởi gen đè nén bướu, là một cơ chế phòng bệnh chống ung thư (cơ chế miễn dịch).
Nếu cơ chế miễn dịch này suy yếu, gen sinh ung sẽ phát triển thành khối u. Nếu vì lý
do gì sức đề kháng của cơ thể ngày càng kém, khối u sẽ phát triển dần và lan xa đi
khắp nơi (ung thư di căn). Lúc này lực lượng phòng vệ trong cơ thể hoàn toàn bó tay,
chỉ còn cách nhờ đến lực lượng bên ngoài vào hỗ trợ. Điều trị ung thư chính là một
cuộc chiến tranh giữa địch (ung thư) và ta (hệ miễn dịch), ta có sự hỗ trợ của những
phương tiện hiện đại, sức công phá lớn như phẫu thuật, hóa trị và xạ trị. Nhờ vậy tiêu
diệt được khối ung thư, nhưng đồng thời tế bào lành của cơ thể bệnh nhân cũng bị tàn
phá nhiều do những phương tiện hiện đại kể trên. Vì cơ thể ngày càng suy sụp, sau khi
lực lượng từ bên ngoài (phẫu thuật-hóa-xạ trị) đã ngưng sử dụng thì tế bào ung thư còn
lại có thể sẽ phát triển trở lại (ung thư tái phát và di căn). Do đó, để ngừa tái phát, cần
phải củng cố lực lượng phòng vệ của cơ thể hay còn gọi là nội lực (hệ miễn dịch) để
chính lực lượng này tiêu diệt hoặc ngăn chặn các tế bào ung thư phát triển. Một Bs
Chuyên khoa ung thư nổi tiếng đã nói “Nếu ví việc điều trị ung thư như một cuộc
chiến tranh, các đợt hóa trị và xạ trị như những đại pháo chủ lực bắn phá trên
chiến trường, thì sau đó, việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ giúp bệnh nhân hồi

phục sức khỏe rất cần thiết như việc khôi phục lại trận địa”.
Rối loạn hệ miễn dịch, hệ nội tiết cũng là nguyên nhân phát sinh nhiều loại
bệnh khác nhau như nhiễm trùng, lupus ban đỏ, viêm đa khớp dạng thấp, hội chứng
thận hư, bướu giáp Basedow…
Sự khác biệt của nhung hươu ELK:
HƯƠU ELK có tên khoa học là Cervus canadensis. Là một loại hươu lớn nhất
thế giới, lông màu đỏ và cũng là loại động vật có vú lớn nhất Bắc Cực, chúng còn có
tên là hươu sừng tấm.
Thành phần của nhung hươu ELK chủ yếu là pantocrinum, calcium,
magnesium, phosphore, và estrogene, các hợp chất vô cơ và hữu cơ như
Mucopolysaccharit - Glycosaminoglycal, Chondroitin sulfat- Glucosamin sulfat -
hormon tăng trưởng, các hormon sinh dục: estrogen, testosteron, progesterone, các
chất có hoạt tính sinh học khác như: Chondroblast, Fibrochonoroblast, các yếu tố tăng
trưởng, và 18 axit amin (trong đó có đủ 8 axit amin thiết yếu), các Polyamin với hợp
chất Sphyngomyclin, Ectasaponin, các axit béo tự do: Lecithin, Phospholipid,
Gangliosid, Prostagladin, các muối khoáng đa lượng và vi lượng như Calcium, Sắt,
Mangan, Selen... Đại học Calgary và Albertia (Canada) thử nghiệm dùng nhung ELK
trị u bướu, viêm xương, khớp, có hiệu quả tốt. Học viện cảnh sát Edmonton (Canada)
thử nghiệm cho sinh viên dùng nhung hươu ELK thấy nồng độ testosteron trong máu
tăng, tập luyện dẻo dai hơn. Đại học Oxford (Anh) nghiên cứu thấy nhung hươu có tác
dụng ức chế hoạt tính của Mono Amino Oxydaza ở gan và não, các yếu tố tăng trưởng
(IFG1), yếu tố miễn nhiễm Internerkin kích hoạt sự phát triển của hệ miễn dịch dịch
thể và miễn dịch tế bào, ngừa u bướu và làm chậm quá trình lão hoá.
ELK có tác dụng đặc biệt tăng cường miễn dịch, chống đỡ được các mầm
bệnh ngoại lai cũng như các tác nhân nội sinh trong cơ thể. ELK giúp phòng
ngừa hoặc giảm sự phát triển của khối u, nâng đỡ thể chất tinh thần, tạo cảm giác
thèm ăn, tăng cường sinh lực, tặng hiệu quả của phẫu – hóa – xạ trị, đồng thời

×