Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

NHẬN DIỆN NHỮNG RÀO CẢN TRONG TƯ DUY, CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH, ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG TRƯỚC YÊU CẦU GIẢI PHÓNG NĂNG LỰC SÁNG TẠO VÀ TÂM HUYẾT CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.91 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NHẬN DIỆN NHỮNG RÀO CẢN TRONG TƯ DUY, CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH, </b>



<b>ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG</b>

<b>TRƯỚC</b>

<b>YÊU CẦU GIẢI PHÓNG NĂNG </b>



<b>LỰC SÁNG TẠO VÀ TÂM HUYẾT CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM </b>



<b>Trần Thị Lan*<sub> </sub></b>


<i>Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên</i>


TÓM TẤT


Việc nhận diện những rào cản trước yêu cầu giải phóng năng lực sáng tạo và tâm huyết của giảng
viên đại học đã và đang được đặt ra như một giải pháp chiến lược để chấn hưng giáo dục đại học
(GDĐH) mà Việt Nam phải hết sức quan tâm. Bài viết tập trung làm sáng tỏ những hạn chế trong
năng lực sáng tạo và tâm huyết với nghề của giảng viên đại học Việt Nam; yêu cầu giải phóng
năng lực sáng tạo và tâm huyết của đội ngũ này; những rào cản về tư duy, cơ chế, chính sách, điều
kiện đảm bảo chất lượng trước yêu cầu giải phóng năng lực sáng tạo cũng như tâm huyết của giảng
viên đại học Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.


<i><b>Từ khóa: Nhận diện, rào cản, tư duy, giải phóng, năng lực, sáng tạo, tâm huyết, giảng viên</b></i>


ĐẶT VẤN ĐỀ*


Đội ngũ giảng viên là một trong những nhân
tố quyết định chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực. Tuy nhiên, tình trạng chậm đổi mới tư
duy, thiếu những điều kiện cần thiết để đảm
bảo phát triển năng lực sáng tạo đang là
những rào cản khiến một bộ phận nhà giáo
<i>chưa tập trung tâm lực và trí lực cho trọng </i>


trách nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Điều này lý giải vì sao việc
nhận diện những rào cản trong tư duy, cơ chế,
chính sách và các điều kiện đảm bảo chất
lượng trước yêu cầu giải phóng năng lực sáng
tạo, tâm huyết của đội ngũ giảng viên là vấn
đề có ý nghĩa thiết thực để tìm kiếm và hoạch
định giải pháp phát triển.


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Bài viết sử dụng phương pháp luận chung của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp
phân tích, đánh giá, điều tra xã hội học.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
<b>Yêu cầu giải phóng năng lực sáng tạo và </b>
<b>tâm huyết của đội ngũ giảng viên đại học </b>
<b>Việt Nam trong bối cảnh hiện nay </b>


Dạy học vốn là lĩnh vực lao động đặc thù
không chỉ cần trình độ chun mơn, nghiệp
vụ cao mà căn bản còn đòi hỏi năng lực sáng



tạo. Đó cũng là một cơng việc vốn rất cần đến
niềm đam mê và tâm huyết. Đặt vấn đề giải
phóng triệt để năng lực sáng tạo và sự tâm
huyết với nghề của giảng viên đại học là xuất
phát từ những địi hỏi của khoa học sư phạm
chứ khơng phải đề cao hay tuyệt đối hóa vai


trị của sáng tạo và tâm huyết như một cái gì
thái quá. Thực tiễn giáo dục đại học đang đòi
hỏi mỗi giảng viên với tư cách nhà giáo cần
có trình độ chun mơn nghiệp vụ và năng
lực sáng tạo, chất lượng lao động của đội ngũ
giảng viên được đồng thời thể hiện và bị qui
định trước tiên bởi năng suất, hiệu quả của
hoạt động giảng dạy, bởi giá trị thực tế của
năng lực sáng tạo. Theo đó, cùng với giảng
dạy, NCKH phải trở thành nhu cầu thiết yếu
của giảng viên. Nếu tuyệt đối hóa nhiệm vụ
giảng dạy mà xem nhẹ NCKH thì ngay cả
những giảng viên có học hàm, học vị cao
cũng rất khó tránh khỏi tình trạng tri thức dần
dần bị lạc hậu, bài giảng vì thế sẽ trở nên
thiếu chiều sâu, tẻ nhạt và thiếu tính thuyết
phục. Thực trạng đó cịn có thể dẫn đến sự lạc
hậu của GDĐH cả về nội dung lẫn phương
pháp mà hậu quả tất yếu không tránh khỏi là
sự tụt hậu tiềm lực trí tuệ của giảng viên nói
riêng, của dân tộc nói chung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nhiệm, tâm huyết với nghề cũng là yêu cầu
quan trọng mà mỗi trí thức nhà giáo phải
quan tâm đáp ứng, nhất là trong bối cảnh hiện
nay khi cơ chế thị trường đang chi phối đến
đời sống của con người, tác động mặt trái của
nó cũng để lại khơng ít những tiêu cực và hệ
lụy xã hội. Thực tiễn đang khách quan đòi hỏi
mỗi giảng viên phải nêu cao tinh thần trách


nhiệm đối với sự nghiệp “trồng người”, phải
tự ý thức về sự đào thải như một lẽ tất yếu
khó tránh khỏi nếu khơng ngừng vươn lên để
khẳng định chất lượng hoạt động chun
mơn, nghiệp vụ mà mình đảm nhận.


<b>Những hạn chế về năng lực sáng tạo và </b>
<b>tâm huyết gắn bó với nghề của giảng viên </b>
<b>đại học Việt Nam </b>


Mặc dù đội ngũ giảng viên đại học đã có
nhiều cố gắng, nỗ lực trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng để nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ, tuy nhiên năng lực của giảng viên
còn nhiều hạn chế, biểu hiện sự bất cập trước
yêu cầu nghề nghiệp. Đáng lưu ý là tỷ lệ
giảng viên có trình độ tiến sĩ hoặc có chức
danh khoa học GS, PGS còn rất thấp. Theo số
liệu thống kê của Bộ Giáo dục- Đào tạo, tại
thời điểm năm 2016 – 2017, số lượng giảng
viên có trình độ tiến sĩ là 16.514/69.591 giảng
viên; ở trình độ đại học và cao đẳng là
12.519/69.591 giảng viên; số lượng giảng
viên có học hàm giáo sư là 574/69.591 giảng
viên; có học hàm phó giáo sư là 4.113/69.591
giảng viên [2]. Thực tế GDĐH ở Việt Nam
cũng cho thấy, “trí thức tinh hoa và hiền tài
cịn ít, chun gia đầu ngành còn thiếu
nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hụt hẫng, chưa
có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở


khu vực và quốc tế” [3].


Về lĩnh vực quản lý giáo dục, hiện thời chúng
ta đang rất thiếu những nhà quản lý giáo dục
<i>tài năng. Hạn chế, yếu kém của đội ngũ này </i>
biểu hiện chủ yếu ở năng lực lãnh đạo, tổ
chức, quản lý. Tầm nhìn của một bộ phận
giảng viên làm công tác quản lý còn hạn chế
so với yêu cầu thực tiễn.


Năng lực sáng tạo của giảng viên còn nhiều
hạn chế. Theo Cục Thông tin Khoa học và
Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Cơng
nghệ, tính tại thời điểm năm 2017, “trong khu
vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ tư về
số lượng công bố quốc tế (6.356), sau
Singapore (43.779), Malaysia (28.799), Thái
Lan (25.965). Cùng với đó, Việt Nam đứng
thứ ba về tăng trưởng bình quân hàng năm
sau Malaysia (23,48%) và Lào (21,58%). So
sánh với các nước phát triển, tổng lượng bài
của Việt Nam chỉ bằng 1/30 Australia, 1/6
New Zealand, 1/58 Nhật Bản, 1/256 Mỹ; so
sánh với các nước Đông Nam Á, Việt Nam
chỉ xếp thứ 3 về tỷ lệ tăng trưởng và đứng thứ
5 về số lượng bài sau Singapore (5.791),
Malaysia (2.436), Thái Lan (2.018) và
Philippines (680). Nếu so sánh với các nước
phát triển, tổng lượng bài của Việt Nam chỉ
bằng 1/58 Australia, 1/22 New Zealand, 1/28


Nhật Bản và 1/473 Mỹ [5].


Thiên hướng xem nhẹ NCKH ở một bộ phận
giảng viên tự nó đang làm giảm đi giá trị tiềm
năng trí tuệ của đội ngũ giảng viên mà đáng lẽ
nó phải được coi trọng và phát huy. Sự tách
rời giảng dạy và nghiên cứu làm cho việc học
tập của sinh viên và thậm chí việc giảng dạy
của trí thức nhà giáo không được đặt trong
môi trường nghiên cứu - môi trường của
phương pháp tư duy sáng tạo, của sự suy luận
và phán đoán.


<b>Những rào cản về tư duy, cơ chế, chính </b>
<b>sách và điều kiện đảm bảo chất lượng </b>
<b>trước yêu cầu giải phóng năng lực sáng tạo </b>
<b>và tâm huyết của giảng viên đại học </b>


<i>Một là, giải phóng năng lực sáng tạo và tâm </i>
<i>huyết với sự nghiệp “trồng người” của giảng </i>
<i>viên trước rào cản ngại đổi mới về tư duy </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

ngại đổi mới; từ những yếu kém về kỹ năng
sư phạm của khơng ít giảng viên; từ nhận
thức thiếu thống nhất về sự gắn kết giữa các
trường đại học và doanh nghiệp. Hiện nay,
vẫn tồn tại tình trạng thiếu thông tin về thị
trường lao động và nhu cầu của nhà tuyển
dụng về các kỹ năng cần thiết của nguồn nhân
lực; mức độ nhận thức của toàn xã hội về đào


tạo theo định hướng nghề nghiệp cịn thấp;
tầm nhìn, chiến lược phát triển và quy trình
quản lý đào tạo của nhiều trường còn bộc lộ
sự bất cập. Nghịch lý là ở chỗ, trong khi mục
<i>tiêu của GDĐH là đào tạo theo định hướng </i>
thực hành, rèn luyện kỹ năng theo nhu cầu xã
hội thì tâm lý trọng bằng cấp, thói quen quan
tâm đến bảng điểm hơn là tay nghề và năng
lực thực sự của sinh viên đang tồn tại phổ
biến trong các nhà tuyển dụng. Hệ quả trực
tiếp của tư tưởng này là người học cũng như
người dạy hiện nay vẫn đang quá chú trọng
đến kiến thức hàn lâm thay vì ứng dụng, thêm
vào đó là tình trạng nhà trường tách rời doanh
nghiệp đã trở thành rào cản hạn chế khả năng
cung ứng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của thị trường lao động của đội ngũ giảng
viên đại học ở nước ta.


Việc xem nhẹ yêu cầu phải phát triển năng
lực sáng tạo thông qua NCKH ở đội ngũ
giảng viên cũng có thể được lý giải từ những
rào cản về tư duy, đó là quan niệm lệch lạc,
phiến diện của khơng ít nhà giáo đã giản lược
trách nhiệm của giảng viên, xem chất lượng
lao động của trí thức nhà giáo chỉ biểu hiện ở
phương diện giảng dạy. Theo số liệu điều tra
xã hội học, có 61,1% ý kiến cho rằng, phần
lớn giảng viên chỉ chuyên tâm vào hoạt động
giảng dạy. Tỷ lệ 81,9% ý kiến thừa nhận chỉ


có một bộ phận giảng viên kết hợp NCKH với
giảng dạy đã phản ánh rõ tình trạng xem nhẹ
hoạt động NCKH ở đại đa số giảng viên.
Khơng ít giảng viên cho rằng, để hoàn thành
định mức NCKH theo từng chức trách, mỗi
nhà giáo phải bỏ rất nhiều công sức cho một
đề tài nghiên cứu hay một vài bài báo đăng
trên tạp chí chun ngành. Đó là chưa kể đến
những khó khăn khác do kinh phí cung cấp có


hạn. Quan niệm có tính thực dụng ấy đã qui
định hành vi ứng xử đối với hoạt động NCKH
của phần lớn giảng viên khi sẵn sàng dạy
nhiều để bù vào số tiết bị khấu trừ do thiếu
giờ NCKH hơn là tự nguyện say mê nghiên
cứu. Đáng lo ngại là khuynh hướng xem nhẹ
NCKH trong giảng viên đại học sẽ tiếp tục có
chiều hướng gia tăng nếu không có qui định
pháp lý về trách nhiệm NCKH của trí thức nhà
giáo và thực hiện qui định đó một cách chặt chẽ,
nghiêm túc trong các trường đại học.


Mặt khác, chính phương thức phát triển theo
bề rộng tồn tại lâu dài trong nền kinh tế cộng
với sự phân khúc giá trị, phân công lao động
quốc tế ở Việt Nam và sự chi phối bởi quan
niệm về hệ giá trị cũ đã làm suy giảm, lệch
lạc nhu cầu coi trọng chất lượng lao động của
trí thức GDĐH. Thực chất phương thức phát
triển theo bề rộng cần ít sự sáng tạo trong lao


động. Theo đó, các trường đại học trở thành
nơi cung ứng nguồn nhân lực thừa hành và
chất lượng lao động của giảng viên cũng tất
yếu bị chuyển dịch theo hướng ấy. Đây là rào
cản rất lớn nếu chúng ta không chủ động dỡ
bỏ bằng quyết sách thay đổi phương thức phát
triển theo chiều sâu và đổi mới tư duy định
hướng giá trị về nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước thì sự tách rời giữa
nhà trường - giảng viên- sinh viên - doanh
nghiệp và thị trường lao động ngày càng trở
nên nghiêm trọng.


<i>Hai là, giải phóng năng lực sáng tạo và tâm </i>
<i>huyết với sự nghiệp “trồng người” của giảng </i>
<i>viên đòi hỏi các yếu tố tạo động lực trong khi </i>
<i>cơ chế, chính sách và điều kiện đảm bảo chất </i>
<i>lượng còn nhiều bất cập </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

sử dụng hiệu quả nguồn vốn chưa hợp lý dẫn
đến “chi phí thường xuyên/1 sinh viên quy
chuẩn thực tế ngày càng giảm và chỉ bằng
<i>30% định mức ngân sách” [4]. Rào cản lớn </i>
nhất lúc này là mặc dù nguồn vốn đầu tư cho
GDĐH đã tăng lên đáng kể theo đà phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, song giá trị đầu
tư tuyệt đối và so với nhu cầu của bản thân
đội ngũ giảng viên thì cịn ở mức thấp và
chưa tương xứng. Đây là thách thức rất lớn,
khó có thể giải quyết thỏa đáng trong tương


lai gần.


Qua tìm hiểu thực tế có thể thấy, chúng ta
đang bàn nhiều đến chất lượng của đội ngũ trí
thức nhà giáo nhưng tiêu chí về trình độ, kỹ
năng, nghiệp vụ sư phạm của người dự tuyển
chưa được chuẩn hóa ở mức cao, nhiều sinh
viên ra trường không qua lớp đào tạo nghiệp
vụ sư phạm vẫn được tuyển dụng.


Việc bổ sung lực lượng giảng viên kế cận có
trình độ cao cũng khơng đơn giản vì đào tạo
phải có thời gian và bị qui định bởi kinh phí
trong khi chưa có thang bậc lương riêng cho
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, cho các nhà giáo có
học hàm GS, PGS. Ở các trường đại học chỉ
vận dụng hỗ trợ thêm cho các giảng viên có
trình độ tiến sĩ, học hàm, học vị với mức hỗ
trợ còn eo hẹp, dao động trong khoảng 300
đến 900 nghìn đồng/1 tháng. Vì vậy, động lực
để đào tạo nâng cao trình độ của giảng viên bị
hạn chế.


Để biểu hiện mình như một nhà khoa học
chân chính, có những sản phẩm sáng tạo đích
thực, giảng viên đại học có nhu cầu mạnh mẽ
về sự phát triển cá nhân và khẳng định tính
độc lập của cá thể. Đáng tiếc là chính sách tơn
vinh, đãi ngộ và vấn đề sở hữu trí tuệ, bảo vệ
bản quyền chưa được quan tâm, đảm bảo để


tạo động lực cho lao động sư phạm của giảng
viên đại học. Cái khó hiện nay là chúng ta
chưa có đủ kinh phí để đầu tư, đãi ngộ xứng
đáng, chưa có chính sách vĩ mơ về lương và
điều kiện đảm bảo môi trường làm việc cho
đội ngũ giảng viên có trình độ cao. Điều này
nằm ngồi tầm với của các trường trong khi


ngân sách nhà nước còn eo hẹp. Thêm vào đó,
tâm lý trọng bằng cấp một cách hình thức và
cơ chế tính lương theo bằng cấp, theo thâm
niên đang là rào cản không nhỏ trước yêu cầu


<i>thực học để có thực lực và thực tài, thực cống </i>
<i><b>hiến của giảng viên đại học. Rõ ràng, thu </b></i>


nhập thấp, chưa tương xứng với đặc thù lao
động trí tuệ, nhiều áp lực cộng thêm khơng ít
phí tổn về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chun mơn nghiệp vụ là nguyên nhân
chính khiến nhiều năm gần đây thiếu những
nhân tài có nguyện vọng, tâm huyết gia nhập
hay gắn bó lâu dài với sự nghiệp “trồng
người” cao quí. Việc thu hút thí sinh vào nghề
sư phạm vì thế cũng trở nên khó khăn.
Do tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị
trường nên những biểu hiện thương mại hóa
giáo dục có điều kiện phát triển. Một mặt, nó
kìm hãm, gây trở lực cho việc phát huy tính
năng động, sáng tạo trong lao động để đáp


ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của cá nhân.
Mặt khác, thay vì tâm huyết ươm mầm những
hạt giống trí tuệ cho tương lai, một bộ phận trí
thức GDĐH đã sa vào lối sống thực dụng, tiêu
dùng, thờ ơ, phai nhạt lý tưởng. Tất cả những
điều này ít nhiều đều làm suy yếu mối quan hệ
giữa giữa trách nhiệm và tâm huyết vốn là cơ
sở nền tảng đảm bảo chất lượng lao động của
đội ngũ giảng viên ở nước ta hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhân căn bản của việc xem nhẹ NCKH diễn
ra phổ biến trong đội ngũ giảng viên ở nước
ta hiện nay.


<i>Ba là, năng lực sáng tạo và tâm huyết của </i>
<i>giảng viên được đảm bảo bởi trách nhiệm của </i>
<i>nhà giáo nhưng cơ chế kiểm tra, giám sát, </i>
<i>đánh giá chưa được coi trọng đúng mức </i>


Ở hầu hết các trường đại học, việc đánh giá
giảng viên mặc dù đã được tiến hành thường
xuyên mang tính định kỳ nhưng vẫn nặng về
đánh giá tổng kết, chủ yếu nhằm vào việc thu
thập thông tin để bình xét các danh hiệu thi
đua mà chưa gắn với những quyết định sa thải
hay sàng lọc đội ngũ. “Các kiểu đánh giá này
đôi khi để lại những dấu ấn tiêu cực như sự
khơng hài lịng về tính khách quan của sự
đánh giá, sự thờ ơ với các danh hiệu thi đua
khen thưởng” [1]. Tiêu chí đánh giá chưa rõ


ràng, những chế tài qui định trách nhiệm lao
động của giảng viên thiếu tính cụ thể, thiếu sự
phân định rõ ràng về mức độ hoàn thành hay
kết quả đóng góp của từng cá nhân.


Mơ hình quản lý GDĐH chưa thật sự tạo nên
tính tự chủ, sáng tạo, năng động của từng chủ
thể nhà giáo. Trách nhiệm giải trình trước xã
hội của đội ngũ giảng viên về chất lượng
giảng dạy, NCKH và quản lý giáo dục ở nước
ta hiện nay chưa được chú trọng nâng cao.
Thêm vào đó, việc đánh giá, kiểm tra, giám
sát hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng và
cán bộ quản lý còn bỏ ngỏ nên chất lượng lao
động của đội ngũ này chưa được đánh giá
<b>toàn diện. Hơn nữa, cơ chế sa thải những </b>
giảng viên yếu kém chưa trở thành yếu tố căn
bản được chú trọng trong văn hóa và khoa
học lãnh đạo, quản lý của ngành giáo dục.
Điều này lý giải tại sao giảng viên chưa nhận
thấy áp lực thực sự từ trách nhiệm và bổn
phận của một nhà khoa học trước những yêu
cầu, đòi hỏi của thực tiễn cũng như sự mong
đợi và kỳ vọng của xã hội.


KẾT LUẬN


Nếu như sáng tạo là yếu tố căn bản để xác lập
giá trị đích thực của khoa học sư phạm thì
tâm huyết với nghề là động lực cho lao động


sáng tạo của mỗi giảng viên. Vấn đề đặt ra là
cần thống nhất nhận thức rằng, chất lượng lao
động của đội ngũ giảng viên đại học là vấn đề
mang tính phức hợp, địi hỏi trách nhiệm của
tồn hệ thống chính trị, của tồn Đảng, tồn
dân. Trong đó, việc đổi mới tư duy của mỗi
giảng viên, việc đổi mới cơ chế, chính sách
đãi ngộ cũng như điều kiện đảm bảo chất
lượng dạy và học được xem là những nhân tố
quyết định tạo nên hiệu quả và giá trị lao
động của toàn đội ngũ.


<b>Nhận diện những rào cản trước yêu cầu giải </b>
phóng năng lực sáng tạo và tâm huyết của
giảng viên đại học là cơ sở thực tiễn quan
trọng để tiếp tục luận chứng vấn đề thời cơ,
thách thức cùng những giải pháp về đổi mới
tư duy, cơ chế, chính sách để nâng cao chất
<i>lượng lao động sư phạm của đội ngũ giảng </i>
viên ở các trường cao đẳng, đại học của Việt
Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và phát triển
kinh tế tri thức.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


<i>1. Trần Xuân Bách (2010), Đánh giá giảng viên </i>
<i>đại học theo hướng chuẩn hóa trong giai đoạn </i>
<i>hiện nay, Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục, Hà </i>
Nội, tr.18.



2. Bo Giao dục và Đao tạo/moet.gov.vn/So lieu
<i>thong ke giao duc đai học nam 2016 – 2017. </i>
<i>3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội </i>
<i>nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung ương khoá </i>
<i>X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.85 </i>


4. Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (2002),
<i>Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI - </i>
<i>Kinh nghiệm của các quốc gia, Nxb Chính trị </i>
quốc gia, Hà Nội, tr.609.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

ABSTRACT


<b>IDENTIFYING THE BARRIERS IN THINKING, MECHANISMS, POLICIES, </b>
<b>QUALITY ASSURANCE CONDITION IN ADVANCE OF THE DEMAND </b>
<b>FOR CREATIVITY AND ENTHUSIASM OF UNIVERSITY LECTURERS </b>
<b>IN VIETNAM </b>


<b> </b>
<b>Tran Thi Lan* </b>


<i>University of Education - TNU </i>
<b> </b>


The identification the barriers to the liberation of creativity and the enthusiasm of university
lecturers has been posed as a strategic solution to promote higher education that Vietnam has to
pay great attention to. The paper focuses on clarifying the limitations of creativity and enthusiasm
for the career of Vietnamese university lecturers; This requires the release of creative and
enthusiastic capacity of this team; the barriers of thinking, mechanism, policy, quality assurance
before the need to release creative capacity as well as the enthusiasm of Vietnam university


lecturer in the current context.


<i><b>Keywords:. To identifi, bariers, to think, to liberate, ability, creative, confidential, lecturer </b></i>


<i><b>Ngày nhận bài: 29/8/2018; Ngày hoàn thiện: 20/9/2018; Ngày duyệt đăng: 28/12/2018 </b></i>



*


</div>

<!--links-->

×