Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.79 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>PHÁT TRIỂN KHÁN GIẢ - NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC TỔ </b>
<b>CHỨC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM</b>
PHẠM BÍCH HUYỀN
<b>Tóm tắt</b>
<i>Phát triển khán giả là những hoạt động khuyến khích cơng chúng đến xem hay</i>
<i>tham dự các chương trình văn hóa nghệ thuật, nhờ đó làm tăng lượng khán giả cho</i>
<i>tổ chức văn hóa nghệ thuật. Đây là điều kiện thiết yếu để một tổ chức có thể tồn tại</i>
<i>và phát triển bền vững. Các tổ chức văn hóa nghệ thuật có thể thực hiện nhiều</i>
<i>chiến lược nhằm tạo ra động cơ cho khán giả cũng như giúp họ vượt qua các rào</i>
<i>cản để đến với văn hóa nghệ thuật. Bài viết đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản</i>
<i>về phát triển khán giả, nhu cầu phát triển khán giả của các tổ chức văn hóa nghệ</i>
<i>thuật ở Việt Nam hiện nay và giải pháp cho vấn đề này.</i>
<i>(Audience Development are activities which encourage people to attend arts</i>
<i>programmes; therefore, increase the number of audiences for arts organisations.</i>
<i>This is a fundamental factor for the development of any arts organisation. Arts</i>
<i>organisations could organise a variety of programmes to motivate people or to help</i>
<i>them breaking down barriers to attending arts. The article refers to some</i>
<i>theoretical explanation of audience development as well as the need of and</i>
<i>solutions for Vietnamese arts organisations.)</i>
<b>1.</b> <b>Khán giả - vấn đề sống cịn của các tổ chức văn hóa nghệ thuật</b>
<i>Theo từ điển, khán giả được định nghĩa: “là những người xem hoặc nghe một</i>
chương trình biểu diễn, buổi hịa nhạc, trưng bày, phim hoặc buổi thuyết giảng; là
những người xem vô tuyến truyền hình, hoặc nghe đài phát thanh, xem tranh của
nghệ sỹ, đọc sách của nhà văn hoặc nghe bài thuyết trình của các diễn giả”(2, tr.82).
Trên thực tế, khán giả khơng chỉ xem, nghe mà cịn có thể tham gia vào những hoạt
động trong chương trình văn hóa nghệ thuật như các trị chơi, hoạt động giao lưu,
<i>Tổ chức văn hóa nghệ thuật là cách gọi chung cho các đơn vị, tổ chức, doanh</i>
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Các loại hình tổ chức văn hóa
nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay khá đa dạng, phong phú. Xét về quyền sở hữu có
các tổ chức thuộc khu vực nhà nước, tư nhân, liên doanh hay có yếu tố nước ngồi.
Bên cạnh đó cịn có thể chia các tổ chức này theo lĩnh vực văn hóa nghệ thuật mà
họ hoạt động như nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật thị giác, văn học, di sản, nghệ
thuật tổng hợp…
Có thể nói, khán giả là điều kiện đặc biệt quan trọng để các tổ chức văn hóa
nghệ thuật có thể tồn tại và phát triển. Mọi loại hình nghệ thuật, mọi chương trình
văn hóa nghệ thuật đều nhằm đến cái đích là khán giả. Nghệ thuật khơng đến được
với khán giả thì khơng thể phát huy những giá trị và ý nghĩa của nó. Từ một vở
chèo, tuồng, cải lương, kịch nói, một bộ phim hay triển lãm mỹ thuật, từ một lễ hội
truyền thống hay liên hoan âm nhạc hiện đại… nếu khơng có khán giả thì làm sao
có thể truyền tải được giá trị văn hóa, nghệ thuật và phát huy được ảnh hưởng tới xã
hội, cộng đồng. Phan Thọ (2009) khi bàn về ý nghĩa của khán giả đối với nghệ thuật
sân khấu cũng nhấn mạnh: “vở diễn mà khơng có người xem thì chẳng khác gì đồ
vật để chơi trong nhà”(6, tr.188). Vì vậy, hoạt động nghệ thuật, dù xuất phát từ cảm
xúc nội tâm, từ yếu tố chủ quan của nghệ sỹ, nhưng cuối cùng đều hướng tới khán
giả, tìm đến sự sẻ chia, đón nhận, khẳng định từ phía khán giả.
Khán giả khơng những là cái đích cần hướng tới mà cịn là cơng cụ để đạt
được các mục tiêu của tổ chức. Tổ chức văn hóa nghệ thuật thường có các mục tiêu
về văn hóa nghệ thuật, chính trị- xã hội và mục tiêu kinh tế. Phát triển khán giả là
phương thức để đạt được các mục tiêu này(5, tr.7-8). Có thể thấy, dù mục tiêu của
tổ chức là gìn giữ và phát huy một loại hình nghệ thuật, tuyên truyền đường lối,
Xét theo quan điểm kinh tế học văn hóa, khán giả là bên cầu cịn các tổ chức
văn hóa nghệ thuật là bên cung trên thị trường văn hóa nghệ thuật. Như vậy, khán
giả là động lực thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức văn hóa nghệ thuật vì khi nhu
cầu tăng đồng nghĩa với cơ hội cho sự phát triển của các sản phẩm và dịch vụ văn
hóa nghệ thuật. Ngược lại, nếu lượng khán giả giảm sút hay khán giả thờ ơ với nghệ
thuật thì các tổ chức văn hóa nghệ thuật sẽ hoạt động khó khăn vì thiếu đầu ra cho
sản phẩm và dịch vụ của mình. Chính vì vậy, ở một số quốc gia như Hàn Quốc,
chính phủ khơng chỉ tài trợ cho “bên cung” như các nghệ sĩ, nhà hát, bảo tàng mà
ngày càng quan tâm đầu tư cho “bên cầu” là khán giả như những biện pháp kích cầu
nhằm đảm bảo sự phát triển mạnh mẽ và lâu dài cho lĩnh vực văn hóa nghệ thuật
(1).
<i>Tình hình Việt Nam</i>
Hiện nay, khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, những thay đổi về chính sách, đặc biệt là chính sách tài chính đã đặt các
tổ chức văn hóa nghệ thuật trước yêu cầu phải chủ động về tài chính và tăng nguồn
thu từ bán vé. Vì vậy, các tổ chức phải cạnh tranh trong việc thu hút cơng chúng,
phải tìm cách để tăng trưởng và mở rộng các nhóm khán giả. Bên cạnh đó, để xây
dựng và phát triển thương hiệu cho tổ chức, để có căn cứ cho đề xuất tăng cường
nguồn ngân sách đầu tư của nhà nước hay thu hút tài trợ từ các tổ chức và cá nhân,
Trong khi đó, trên thực tế, các tổ chức văn hóa nghệ thuật của chúng ta đang
lâm vào tình trạng “khủng hoảng về khán giả”: “càng làm vở thì càng vắng khách,
sân khấu cố tìm đến khán giả thì khán giả lại càng xa cách hơn” (6,tr.200). Nghệ
thuật biểu diễn truyền thống thiếu vắng khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ, nghệ thuật
hiện đại cũng gặp khơng ít khó khăn trên con đường tiếp cận và chinh phục công
chúng. Không chỉ giới hạn ở nghệ thuật biểu diễn, các loại hình nghệ thuật khác
cũng đứng trước những thách thức tương tự.
Chính vì vậy, các tổ chức văn hóa nghệ thuật Việt Nam ngày càng nhận thấy
tầm quan trọng của khán giả và vấn đề phát triển khán giả. Để tồn tại và phát triển
trong điều kiện mới, nhất thiết phải lôi cuốn được khán giả đến với chương trình
văn hóa nghệ thuật. Do đó, vấn đề phát triển khán giả đã và đang trở thành mối
quan tâm đặc biệt trong lý luận và thực tiễn quản lý văn hóa ở nước ta.
<b>2.</b> <b>Mục đích và nhiệm vụ phát triển khán giả</b>
<i><b>Mục đích của phát triển khán giả</b></i>
Phát triển khán giả là những hoạt động khuyến khích cơng chúng đến xem hay
tham dự các chương trình văn hóa nghệ thuật nhiều hơn, thường xuyên hơn. Nói
cách khác, phát triển khán giả nhằm tăng lượng khán giả cho văn hóa nghệ thuật.
Như vậy, phát triển khán giả chính là việc phát triển mối quan hệ giữa cá nhân và
nghệ thuật, giữa cá nhân với tổ chức văn hóa nghệ thuật. Đây là những tác động
nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của những người đã hoặc chưa từng
tham dự nghệ thuật, nhằm thu hút họ đến với các sản phẩm/chương trình. Cơng việc
này cần nhiều thời gian và sự tham gia chủ động của các tổ chức văn hóa nghệ
thuật. Phát triển khán giả cho hơm nay và mai sau sẽ đảm bảo tương lai của văn hóa
thành viên, nhà tài trợ, tình nguyện viên hoặc người ủng hộ tổ chức… Như vậy,
phát triển khán giả hiện tại sẽ xây dựng đội ngũ khán giả cốt lõi của tổ chức.
Với nhóm khán giả mới, những khán giả chưa từng xem chương trình nghệ
thuật hoặc chưa đến xem tại một tổ chức văn hóa nghệ thuật cụ thể, phát triển khán
giả nhằm khuyến khích họ đến tham dự lần đầu. Nhóm khán giả mới có thể là
những người có đặc điểm về nhân khẩu học (ví dụ: giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp,
trình độ học vấn…) giống như những khán giả hiện tại của tổ chức hoặc thuộc
nhóm những người có hồn cảnh đặc biệt mà trước đây chưa được quan tâm đúng
mức (ví dụ nhóm trẻ em mồ cơi, lang thang, cơ nhỡ hay nhóm dân tộc thiểu số tại
một địa phương) (5, tr.9-10).
Tóm lại, dù hướng tới khán giả hiện tại hay khán giả mới, phát triển khán giả
bao giờ cũng gồm việc cải thiện, tăng cường hiểu biết và khả năng cảm thụ nghệ
thuật của những nhóm cơng chúng đối với loại hình nghệ thuật cụ thể, giúp họ cảm
thấy tự tin, u thích văn hóa nghệ thuật và sẵn sàng đến tham dự các chương trình
nghệ thuật.
<i><b>Nhiệm vụ của phát triển khán giả</b></i>
Để khuyến khích khán giả đến với nghệ thuật nhiều hơn, các hoạt động phát
triển khán giả phải nhằm vào việc phá bỏ các rào cản ngăn trở cơng chúng tham dự
các chương trình nghệ thuật. Một số rào cản cơ bản có thể kể đến là rào cản mang
tính vật lý và tâm lý.
Rào cản vật lý là những khó khăn khách quan về tiếp cận sản phẩm văn hóa
nghệ thuật như thiếu sự sẵn có của sản phẩm xét về mặt khơng gian hay thời gian.
Chẳng hạn công chúng muốn xem các chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền
lại e ngại khi đến nhà hát vì sợ rằng phải ngồi ở đó q lâu, hoặc do khơng am hiểu
về loại hình nghệ thuật nên có thể rơi vào tình huống “trớ trêu” như vỗ tay khơng
đúng lúc. Có thể thấy, các rào cản tâm lý của khán giả rất đa dạng, phức tạp và để
phát triển khán giả cần hiểu rõ họ nghĩ gì và e ngại những gì để có thể tác động một
cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần đề cập đến một rào cản cơ bản khác là thiếu thơng tin. Khi
khán giả khơng biết có chương trình nghệ thuật nào đang diễn ra ở đâu thì dù họ
mong muốn đến mấy cũng không thể tham dự được. Có trường hợp khán giả khơng
biết nhà hát ở đâu, làm thế nào để đến được, thậm chí khơng biết mua vé ở đâu,
bằng cách nào… Tất cả những yếu tố tưởng chừng như đơn giản ấy đều có thể ngăn
cản công chúng không đến với nghệ thuật (7, tr.67-92).
Như vậy, nhiệm vụ của phát triển khán giả chính là việc giải quyết những khó
khăn, trở ngại này, đồng thời tạo ra những động cơ khuyến khích khán giả tham dự
các chương trình văn hóa nghệ thuật.
<b>3. Một số giải pháp phát triển khán giả cho các tổ chức văn hóa nghệ</b>
<b>thuật Việt Nam</b>
Để phát triển khán giả, các tổ chức văn hóa nghệ thuật cần sử dụng tổng hợp
nhiều biện pháp, từ việc thực hiện các hoạt động marketing đến việc tổ chức các
chương trình giáo dục về nghệ thuật cho cơng chúng. Các hoạt động này địi hỏi sự
tham gia của nhiều thành phần như nghệ sĩ, người làm marketing, người thực hiện
hoạt động giáo dục, đồng thời cần sự phối hợp của tất cả các thành viên khác trong
tổ chức. Hơn nữa, cũng như với bất kỳ một hoạt động quản lý văn hóa nào, phát
triển khán giả cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, lập kế hoạch nghiêm túc và đầu tư đủ
các nguồn lực thì mới có thể đạt hiệu quả cao. Hoạt động này cũng cần được tiến
hành thường xuyên để đảm bảo việc duy trì và cải thiện lượng khán giả.
<i><b>Phát triển khán giả thơng qua hoạt động marketing văn hóa nghệ thuật</b></i>
Hoạt động marketing với phương châm phát hiện và đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của khán giả là công cụ hữu hiệu trong việc thúc đẩy khán giả đến với các chương
trình của tổ chức nghệ thuật. Marketing văn hóa nghệ thuật gồm việc điều tra,
nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu và mong muốn về văn hóa nghệ thuật của
các bộ phận công chúng khác nhau, trên cơ sở đó thiết kế và sử dụng các cơng cụ
marketing hỗn hợp để đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu của khán giả. Một số
vấn đề then chốt cần thực hiện là:
Trên cơ sở phát hiện và dự đoán nhu cầu của khán giả, các tổ chức văn hóa
nghệ thuật cần thiết kế sản phẩm hay chương trình văn hóa nghệ thuật sao cho phù
hợp: từ việc lựa chọn thể loại, nội dung, chủ đề đến việc tuyển chọn đội ngũ nghệ sĩ,
diễn viên để đáp ứng tốt nhất nguyện vọng thưởng thức nghệ thuật của cơng chúng.
Sản phẩm văn hóa nghệ thuật là yếu tố rất quan trọng vì chất lượng nghệ thuật và sự
phù hợp với thị hiếu, sở thích của khán giả ln là điều kiện đầu tiên và cơ bản để
lôi cuốn khán giả đến với chương trình.
Bên cạnh việc xây dựng chương trình văn hóa nghệ thuật, vấn đề tổ chức biểu
diễn hay quá trình đưa chương trình đến với khán giả cũng khơng kém phần quan
Các công cụ marketing khác như giá cả cũng rất quan trọng trong việc thu hút
khán giả. Tổ chức văn hóa nghệ thuật phải tính tốn giá vé sao cho phù hợp với khả
năng chi trả của các nhóm khán giả mục tiêu, đồng thời đưa ra các mức giá linh hoạt
theo thời gian (thời gian cao điểm, thấp điểm), đối tượng khán giả (học sinh, sinh
viên, trẻ em, người lớn), địa dư (thành phố, nông thôn, vùng sâu vùng xa), địa điểm
(các vị trí ngồi khác nhau trong khán phịng)… Với những khán giả mới, có thể phải
thực hiện những đợt khuyến mại như giảm giá vé, thậm chí có những buổi biểu diễn
miễn phí để kéo khán giả bước qua cánh cửa nhà hát và hy vọng họ sẽ trở lại, mua
vé ở những lần tiếp theo.
Các hệ thống truyền thông marketing như quảng cáo, marketing trực tiếp và
quan hệ cơng chúng có thể hỗ trợ tích cực việc phát triển khán giả. Các công cụ này
khắc phục rào cản thiếu thông tin, nâng cao hiểu biết của công chúng về sản phẩm,
truyền đạt những lợi ích của chương trình văn hóa nghệ thuật, từ đó tác động vào
nhận thức, thái độ và thúc đẩy hành vi tham dự nghệ thuật của khán giả. Các hoạt
động truyền thông này cịn có khả năng xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa khán giả
và tổ chức cũng như hỗ trợ đáng kể trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu
cho các tổ chức văn hóa nghệ thuật.
Như vậy, việc sử dụng linh hoạt và tổng hợp các công cụ marketing văn hóa
nghệ thuật sẽ tác động tích cực đến khán giả, khiến khán giả thấy nhu cầu của họ
được lắng nghe và đáp ứng một cách đầy đủ. Khi đó, khán giả sẽ có phản hồi tốt đối
với sản phẩm văn hóa nghệ thuật như đến xem, tiếp tục quay trở lại xem các chương
trình nghệ thuật khác, tuyên truyền tốt về chương trình và tổ chức với người thân,
<i><b>Phát triển khán giả thông qua hoạt động giáo dục về nghệ thuật</b></i>
thì dù nhà hát xây dựng những vở chèo có chất lượng nghệ thuật cao, điều kiện tổ
chức biểu diễn tốt, giá vé rẻ, thậm chí miễn phí cùng với các hoạt động quảng cáo
rầm rộ thì cũng chưa chắc đã thành cơng trong việc thu hút khán giả, nhất là khán
giả trẻ. Vì vậy, bên cạnh hoạt động marketing, các tổ chức văn hóa nghệ thuật cần
tổ chức các hoạt động giáo dục về nghệ thuật như những biện pháp đào tạo hay
“chuẩn bị” khán giả.
Hoạt động giáo dục của tổ chức văn hóa nghệ thuật là các hoạt động đa dạng
nhằm nâng cao hiểu biết của khán giả về các loại hình nghệ thuật. Ví dụ, một bảo
tàng mỹ thuật có thể tổ chức buổi nói chuyện về nghệ thuật sắp đặt hay tổ chức cuộc
thi tìm hiểu về các tác phẩm nghệ thuật được trưng bày. Bảo tàng cũng có thể hình
thành câu lạc bộ những người u thích hội họa với các sinh hoạt chuyên môn hay
tổ chức cuộc thi vẽ cho thiếu nhi vv. Ví dụ khác, một nhà hát Tuồng có thể tổ chức
những buổi sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh các trường tiểu học, trong đó giới
thiệu về nghệ thuật tuồng, biểu diễn một số trích đoạn và giao lưu, tổ chức các trò
chơi liên quan cho học sinh.
Bên cạnh đó, hoạt động giáo dục nghệ thuật cịn có thể hỗ trợ các chương trình
nghệ thuật của tổ chức nhằm nâng cao sự cảm thụ và hài lịng của khán giả. Ví dụ,
một chương trình biểu diễn kịch nói, nếu có các hoạt động đi kèm như giao lưu giữa
đạo diễn, diễn viên và khán giả, giới thiệu về thủ pháp nghệ thuật, những nét đặc
sắc của chương trình hay quá trình dàn dựng vở diễn, tham quan hậu trường, sân
khấu, kho đạo cụ, phục trang… sẽ làm tăng hứng thú và giúp cảm nhận của khán
giả sâu sắc hơn.
Như vậy, các hoạt động giáo dục nghệ thuật sẽ tăng cường và cải thiện khả
năng thưởng thức nghệ thuật, tạo ra mối quan tâm, yêu thích và làm nảy sinh nhu
cầu tham dự nghệ thuật ở công chúng. Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan niệm coi
hoạt động giáo dục nghệ thuật như một công cụ phát triển khán giả là mối quan tâm,
yêu thích nghệ thuật của con người thường được hình thành và phát triển theo thời
gian, thơng qua q trình học hỏi và tích lũy. Ở đây, vai trị của giáo dục trong việc
cung cấp những hiểu biết và kỹ năng cơ bản làm nền tảng cho năng lực cảm thụ
nghệ thuật ở công chúng là vô cùng quan trọng. Điều này sẽ tạo nên những tố chất
thiết yếu để một người có thể trở thành khán giả của văn hóa nghệ thuật. Tuy nhiên,
đây khơng phải là một q trình dễ dàng vì các chương trình giáo dục nghệ thuật
thường phát huy hiệu quả sau một thời gian lâu dài (bên cạnh những tác động tức
thời). Một vấn đề mang tính thực tiễn nữa là nhiều khi hiệu quả của các chương
trình này khó được đo đếm một cách trực tiếp hoặc chính xác(4).
này như các chương trình nghệ thuật được dàn dựng, đội ngũ nghệ sỹ chuyên
nghiệp, cơ sở vật chất (hội trường, khán phòng cùng các thiết bị âm thanh, ánh
sáng)… là những điều kiện rất tốt để tổ chức các chương trình giáo dục nghệ thuật
sinh động, hấp dẫn và có hiệu quả.
<b>Kết luận</b>
Khán giả là một yếu tố cơ hữu trong hoạt động nghệ thuật. Nhiều ý kiến cho
rằng chỉ khi công chúng trải nghiệm những gì nghệ sỹ muốn chuyển tải qua các tác
phẩm thì quá trình sáng tạo nghệ thuật mới được coi là hồn thành. Khán giả cũng
có ý nghĩa rất thực tế đối với các tổ chức văn hóa nghệ thuật vì một tổ chức khơng
thu hút được khán giả thì khó có thể có thu nhập dù là từ bán vé hay từ các nhà tài
trợ (3, tr.25). Chính vì vậy, phát triển khán giả là một nhiệm vụ quan trọng trong
quản lý văn hóa nói chung và đối với các tổ chức văn hóa nghệ thuật nói riêng. Đặc
biệt, trong điều kiện hiện nay của nước ta, vấn đề này càng mang tính thực tiễn và
cấp bách.
Phát triển khán giả chính là việc tìm cách tháo rỡ những rào cản hay nói cách
khác tạo điều kiện tiếp cận văn hóa nghệ thuật cho cơng chúng. Các điều kiện tiếp
cận này bao hàm cả khía cạnh vật chất, địa lý lẫn khía cạnh xã hội và tâm lý. Phát
triển khán giả cần duy trì những khán giả hiện có và khuyến khích họ đến với các
chương trình văn hóa nghệ thuật thường xuyên hơn, đồng thời phải chú ý thu hút
những khán giả mới. Như vậy, phát triển khán giả cần làm tăng về số lượng đồng
thời đạt đến sự đa dạng của các nhóm khán giả.
Các hoạt động marketing và giáo dục nghệ thuật là những giải pháp quan trọng
cho phát triển khán giả, cần được phối hợp để có thể đạt hiệu quả cao và bền vững.
Ở các nước phát triển, những hoạt động này đã được các tổ chức văn hóa nghệ thuật
thực hiện một cách chuyên nghiệp, trong khi đây vẫn còn là điều mới mẻ ở Việt
Nam. Để giải quyết tình trạng “khủng hoảng khán giả”, góp phần thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ của lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, các tổ chức văn hóa nghệ thuật
nước ta cần nghiên cứu và triển khai một cách sáng tạo các hoạt động này. Đây là
hướng đi đầy triển vọng có thể đem lại những thay đổi có tính cách mạng cho hoạt
động quản lý văn hóa của nước nhà.
P.B.H
<b>Tài liệu tham khảo</b>
1. <i>Arts Vision, International Arts Managers, Magazine for the Performing</i>
Arts. Seoul. March 2006.
2. <i>Collins Cobuild English Language Dictionary, Ed. in chief John Sinclair.</i>
Collins Cobuild, London, 1987.
4. <i>Gerald Lidstone, Cultural Policy and Practice in the United Kingdoms </i>
<i>-Arts Education,Goldsmiths- University of London, London, 2004.</i>
5. <i>Heather Maitland, A Guide to Audience Development, Arts Council of</i>
England, London, 2000.
6. <i>Phan Thọ, Mấy vấn đề về công chúng của nghệ thuật sân khấu, NXB Sân</i>
khấu, H, 2009.