Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghệ thuật quản trị các chuỗi cung ứng (Phần 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.01 KB, 7 trang )

Nghệ thuật quản trị các chuỗi
cung ứng (Phần 2)
3. Tác hại của “Quyền lực cứng”
Tất cả các nhà quản lý đều tìm cách phát triển “quyền lực cứng” nhằm củng
cố vị trí của mình trong con mắt khách hàng hay nhà cung cấp. Nhưng họ sẽ thật
sai lầm khi tìm cách sử dụng “quyền lực cứng” nhằm quản trị các “công ty bổ
sung”. Vì nếu sử dụng “quyền lực cứng”, họ sẽ đánh mất những nguồn lực thực sự
quan trọng khác nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác. Về cơ bản, “quyền lực cứng” dựa
trên các sức mạnh truyền thống như thị phần, thương hiệu, quyền kiểm soát các
kênh phân phối và tài chính. Nói chung, tốt nhất các công ty nên sử dụng “quyền
lực cứng” của mình ở những lĩnh vực khác.
“Quyền lực cứng” có thể đem lại những hiệu quả tức thời trong việc quản
trị “công ty bổ sung”, nhưng nó ẩn chứa rất nhiều nhược điểm. Nguy hiểm nhất là
khi các nhà quản lý chỉ chăm chăm sử dụng “quyền lực cứng” thay vì xây dựng
lòng tin giữa các công ty. Dù “quyền lực cứng” có thể giúp việc tạo dựng liên
minh giữa các công ty cùng sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ bổ sung cho nhau, thì
nó cũng không khuyến khích sự hợp tác sâu rộng. Vì vậy, những doanh nghiệp
phụ thuộc quá nhiều vào “quyền lực cứng” trong dài hạn có thể phải trả giá đắt.
Điều này đặc biệt đúng khi người sử dụng “quyền lực cứng” đưa ra sự thưởng phạt
tức thì. Thiếu đi cảm giác cùng phấn đấu vì mục đích chung, các công ty cung cấp
các sản phẩm hoặc dịch vụ bổ sung cho nhau dần mất đi tinh thần hợp tác và cùng
đưa nhau đến sự phá sản.
Sau cùng, việc sử dụng “quyền lực cứng” có thể gây ra phản ứng dữ dội.
Đây là điều đặc biệt nguy hiểm vì nó khiến doanh nghiệp tìm cách hạn chế sự phụ
thuộc của mình vào đối tác “chiếu trên” và cố gắng tái sắp xếp lại nền công nghiệp
nhằm phục vụ ý đồ của mình.
“Quyền lực cứng” và bài học từ Microsoft và Intel
Phải nhờ đến cuộc điều tra chống độc quyền của Cơ quan Tư pháp Mỹ đối
với Microsoft mà một vài khía cạnh trong mối quan hệ giữa Microsoft và Intel
mới được đưa ra ánh sáng. Mối quan hệ giữa hai tập đoàn lớn này là minh chứng
cụ thể cho những ưu điểm và nhược điểm trong sử dụng “quyền lực cứng”.


Từ năm 1980, khi IBM chọn bộ vi xử lý của Intel và hệ điều hành của
Microsoft là nền tảng cho các sản phẩm máy tính cá nhân của mình, Intel và
Microsoft đã trở thành những “công ty bổ sung”. Ngày nay, gần 80% máy tính cá
nhân (PC) toàn thế giới sử dụng sản phẩm vi xử lý mang nhãn hiệu “Intel Inside”
và hơn 90% sử dụng hệ điều hành Windows của Microsoft.
Trước hết cả Microsoft và Intel đều cùng chia sẻ hai mục đích: phát triển
song hành cùng sự lớn mạnh của thị trường máy tính cá nhân toàn thế giới và thúc
đẩy tiêu chuẩn Wintel (viết tắt của từ Windows và Intel). Bằng cách cùng đầu tư
thêm những chức năng ưu việt trong mỗi sản phẩm của mình, cả hai hãng không
chỉ mở rộng thị trường mà còn dựng lên những rào cản mới nhằm ngăn cản và gây
khó cho những đối thủ muốn chia sẻ miếng bánh thị phần của họ. Lợi ích đã gắn
kết hai công ty này với nhau. Và cùng với thời gian, Microsoft sáng tạo ra những
phần mềm mới với những đặc điểm nổi trội khi tích hợp với thế hệ chíp mới nhất
của Intel. Và như Bill Gates đã có lần nói với Ban quản trị của Intel “chúng tôi sẽ
lấp đầy ‘chiếc bình’ các anh làm ra bằng những phần mềm của mình”.
Nhưng mâu thuẫn cũng luôn tồn tại song hành trong mối quan hệ giữa hai
hãng. Buộc phải làm việc chung với nhau trong khi vẫn theo đuổi lợi ích của riêng
mình, hai công ty giống như “hai con nhím phải nằm chung ổ” – như lời một quan
chức cấp cao của Intel đã từng nói. Và rõ ràng cả hai “con nhím” này đều bị
thương vì đâm gai vào nhau. Tuy nhiên, thời gian đã cho thấy Intel không phải là
những kẻ giỏi thương thuyết. Microsoft đã liên tục sử dụng “quyền lực cứng” buộc
Intel làm theo ý mình.
Mâu thuẫn giữa Intel và Microsoft xuất phát từ những khác biệt trong mô
hình kinh doanh cũng như những khác biệt trong điều kiện cạnh tranh mà họ đang
phải đối mặt. Intel kiếm tiền bằng cách bán những bộ vi xử lý cho những máy tính
cá nhân mới. Và đổi mới bộ vi xử lý để máy tính ngày càng được tiêu thụ mạnh là
chiến lược chủ chốt của Intel. Và để quá trình đổi mới được thành công, Intel cần
đến sự hỗ trợ đắc lực của Microsoft. Ví dụ, Microsoft sẽ tạo ra một hệ điều hành
mới nhằm phát huy tối đa khả năng của các thế hệ chíp mới nhất của Intel. Tuy
nhiên, Microsoft có thể “sống tốt” mà không cần đến Intel vì lợi nhuận của hãng

chủ yếu dựa trên việc bán những phiên bản nâng cấp và phần mềm ứng dụng dựa
trên nền tảng có sẵn. Quan trọng hơn, trong suốt lịch sử phát triển của mình,
Microsoft có rất ít đối thủ cạnh tranh còn đối với Intel thì ngược lại. Kết quả, Intel
cần Microsoft hơn là Microsoft cần đến Intel. Điều này cũng có nghĩa rằng, khi có
mâu thuẫn xảy ra, Microsoft luôn “chiếm thế thượng phong”.
Dự án MMX tiêu biểu cho mối quan hệ đầy sóng gió giữa hai hãng này.
Vào giữa những năm 90, Intel có kế hoạch tăng tốc độ xử lý công nghệ đa truyền
thông cho thế hệ chip mới. Hãng đã đầu tư 10 triệu USD vào dự án này và có kế
hoạch sẽ đầu tư thêm 250 triệu USD nhằm bảo đảm bộ vi xử lý MMX hoạt động
tốt. Nhưng kế hoạch của Intel sẽ không đi đến đâu nếu thiếu sự hỗ trợ của
Microsoft. Nếu Microsoft không đồng ý sửa đổi hệ điều hành Windows, thì những
ứng dụng mới nhất sẽ không thể phát huy ưu điểm trên con chíp mới của Intel.
MMX đưa Microsoft vào thế khó xử. Ít nhất cũng có một nhà sản xuất chip
khác, Advance Micro Devices (AMD), cũng đang muốn Microsoft hỗ trợ mình
trong công nghệ đa truyền thông 3DX. Nếu Intel muốn vượt lên dẫn đầu với chip
MMX, thì nền tảng phần cứng trong máy tính sẽ trở nên rất khác biệt so với AMD.
Microsoft sẽ phải cung cấp một phiên bản Windows tích hợp được với chip MMX
của Intel và một phiên bản Windows khác cho máy dùng chip của AMD.
Để giải quyết vấn đề này, Microsoft vận dụng đến “quyền lực cứng”. Hãng
yêu cầu Intel phải cho phép các nhà sản xuất chip khác được sử dụng miễn phí bản
quyền MMX để đổi lấy sự hỗ trợ của mình. Intel miễn cưỡng đồng ý. MMX đáng
lẽ là lợi thế cạnh tranh của Intel và hãng đã đầu tư rất nhiều tiền của vào dự án đó.
Nhưng cuối cùng, Intel thấy chẳng còn cách nào khác buộc phải làm theo yêu cầu
của Microsoft: MMX cho tất cả mọi người còn hơn là chẳng cho ai. Vào năm
1997, Intel giới thiệu sản phẩm MMX như một sản phẩm Pentium II. AMD cũng
tích hợp MMX vào thế hệ vi xử lý mới của mình. Như vậy, cả hai công ty, Intel và
AMD, đều nhận được sự hỗ trợ của Microsoft. Bộ xử lý với MMX đã thành công
ngoài mong đợi. Nhưng do Intel không thể độc quyền MMX, nên giá bán bộ vi xử
lý này cũng thấp hơn dự kiến và đương nhiên lợi nhuận của Intel cũng không được
như mong đợi.

Những hạn chế của “Quyền lực cứng”
Ban quản trị Intel đã rút ra hai bài học cần thiết từ dự án MMX.
Bài học đầu tiên: Intel cần phải nắm vững mô hình kinh doanh của
Microsoft. Sau này, Andy Grove đã thú nhận trong một cuộc phỏng vấn với tờ
Harvard Business School rằng, tại thời điểm đó ông đã không hiểu mô hình kinh
doanh của Microsoft. Để đề phòng những trường hợp tương tự, Intel bắt đầu tìm

×