Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

ĐÁP án đề THI kết THÚC học PHẦN TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.54 KB, 16 trang )

Học viên: Nguyễn Viết Việt Văn
MS: 3184120002
BÀI THI CAO HỌC TRIẾT HỌC
(khoa học xã hội) - K.40- Đà Nẵng

BÀI LÀM
CÂU 1: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất. Phân tích sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ?
TRẢ LỜI
Sản xuất vật chất luôn luôn được tiến hành bằng một phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài ngoài.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản
xuất quyết định tất cả các mặt của đời sống xã hội. Sự vận động, phát triển, thay thế
lẫn nhau của các phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của xã hội từ thấp đến
cao.
Phương thức sản xuất lại là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng: Sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất
lại do sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực lượng được sử dụng trong q trình sản xuất ra
của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với kỹ năng lao động nhất định và tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con
người kết hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành lực lượng
sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất Người lao động là yếu tố quan trọng nhất vì
người lao động là chủ thể của những tư liệu lao động, khơng có người lao động thì tư
liệu lao động không thể phát huy được tác dụng, giá trị, và hiệu quả của tư liệu sản
xuất phụ thuộc trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động
Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố động và cách mạng nhất thể hiện


trình độ chinh phục tự nhiên của con người và quyết định năng suất lao động.


Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trị ngày càng to lớn.
Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã thâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở
thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất
phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới,
nguyên vật liệu mới vừa năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học
vào sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách
mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại. Các ngành phải có chun gia, họ đặt hàng trở
lại khoa học nghiên cứu
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất
và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản
phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất. Giữa ba
mặt của quan hệ sản xuất thống nhất biện chứng với nhau. Trong đó, quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản
xuất trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ
phân phối sản phẩm. Trong lịch sử có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất:
sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó
tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, cịn đại đa số khơng có hoặc
có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và
bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu cơng cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu
sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Do đó, quan hệ giữa người với
người là quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến
việc tổ chức, điều khiển q trình sản xuất. Nó do quan hệ sở hữu quy định và phải
thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý

khơng thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện
chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Trong hai mặt đó, lực lượng sản
xuất là nội dung, thường xuyên biến đổi, phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã
hội của sản xuất, tương đối ổn định. Sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng
giữa hai mặt đó tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã


hội. Trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác
động trở lại lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, làm cho
quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời,
khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trạng
thái mà trong đó, quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản xuất.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho
lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là trình độ lực lượng sản xuất thể hiện
trình độ của người lao động và công cụ lao động. Lực lượng sản xuất như thế nào thì
quan hệ sản xuất như thế ấy, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Song, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định lại làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản
xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới

cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời
thay thế.
C. Mác viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất
vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay- đây chỉ là biểu
hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó- mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu,
trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích
của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính
độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong
lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng
khoa học vào sản xuất ... và do đó, tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực


thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu,
hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được
thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải
thơng qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai
cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản, phổ biến của xã hội. Nó chi phối sự vận động, phát triển của
tồn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Liên hệ sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ?
VN có nhiều trình độ luc luong san xuat, nên nhiều laoị sở hưuc khác nhau
1.Trước đổi mới do nhận thức chủ quan, duy ý chí, vừa đánh thắng siêu cường là
Mĩ. Nên vận dụng chưa đúng quy luật này nên kìm hảm sự phát triển lực lượng sản
xuất
Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay lại
càng gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém và chưa có
điều kiện phát triển.
Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết khơng có chun mơn tay nghề, phần lớn
lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt nam chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha ông để lại. Trường dạy nghề rất hiếm,
chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài Gịn,….Tại những đơ thị lớn, trình độ của người
lao động cao hơn các vùng khác trong cả nước.
Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này cịn thơ sơ, lạc hậu.
Là một nước nông nghiệp thế nhưng công cụ lao động chủ yếu là cày, cuốc, theo hình
thức “ con trâu đi trước, cái cày theo sau”, sử dụng sức người là chủ yếu, trong cơng
nghiệp máy móc thiết bị cịn ít và rất lạc hậu. Phát triển cơng cụ lao động giữa các
vùng, miền cũng có sự khác nhau.
Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng sản xuất ở Việt nam thấp kém, lạc hậu và
phát triển không đồng đều.


Trong hồn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã
hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần
kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế
hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành phần kinh tế cá thể,
kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân định tách bạch thuần khiết chế
độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối hóa
vau trị của chế độ cơng hữu, dẫn đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ các thành phần

kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn đến chủ
trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát triển lực
lượng sản xuất. Có những nơi nơng dân bị bắt ép đi vào các hợp tác xã, mở rộng nơng
trường qc doanh mà khơng tính đến lực lượng sản xuất cịn rất lạc hậu. Người lao
động khơng được chú trọng về cả trình độ và thái độ lao động, đáng ra là chủ thể của
sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp. Nước ta quá nhấn
mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho đó là nhân tố hàng đầu của
quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt lập với đối tượng lao động. Quan
hệ sản xuất lên quá cao, tách rời với lực lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị kìm
hãm, đời sơng nhân dân đi xuống nhanh chóng. Đến cuối năm 1985 ( 12/1985, giá bán
lẻ hàng hóa tăng 845.3%), năng suất lao động quá thấp, kinh tế lâm vào khủng hoảng
trầm trọng.
2. Thời kỳ sau đổi mới (1986)
Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã
thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh tế và
cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Người lao động nước ta đến năm 2005
là 44,3 triệu người, trong đó lao động đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ thống trường dạy
nghề các cấp được mở rộng. Đội ngũ trí thức cũng tăng lên nhanh chóng, năm 20072008, cả nước có 1 603 484 nghìn sinh viên.Năm 2008, nước ta có 160 trường đại học,
209 trường cao đẳng và 275 trường trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào
nhu cầu đào tạo lao động cho đất nước. Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn bị phân
mảng, tồn tại tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu lao động, nhất là thiếu thợ”. Nền
kinh tế đang thiếu đi nguồn nhân lực có tay nghề, chất lượng nhân lực của Việt Nam
còn thấp so với các nước lân cận. Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng
được sử dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy
bừa,…các giống cây trồng mới cũng được tìm ra và phổ biến. Trong công nghiệp, kỹ
thuật hạt nhân bắt đầu phát triển, đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên nhìn chung so với
nhiều quốc gia trên Thế giới thì tư liệu sản xuất nước ta còn nghèo nàn, chậm cải tiến,
hiệu quả chưa thật sự cao và cịn phân hóa giữa các vùng trong cả nước.



Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh đa dạng,
phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiểm năng của các thành phần kinh tế, các quan
hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản, manh mún của quan hệ sản xuất
phong kiến được cơng nhận. Theo đó Việt Nam xác định các thành phần kinh tế: Kinh
tế nhà nước (lãnh đạo), kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi..làm cho
nước ta sở hữu nhiều trình độ lực lượng sản xuất nhiều sở hữu tư liệu sản xuất
Như vậy, trong hồn cảnh lực lượng sản xuất khơng ngừng phát triển, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước đầu vận dụng đúng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và đx đạt hiều
thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta là 8,4 %, cao nhất
khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh nhiều nước rơi vào khủng hoảng thì vốn đầu tư
nước ngồi vào Việt Nam vẫn cao,cụ thể là 45 tỷ USD vốn FDI từ 2005-2010, GDP
trên người khoảng 1168 USD/người/năm.
Vấn đề bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa, vấn đề phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa như thế nào?
1. Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng tháng Mười Nga.
Khi đó, chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mơ hình kế hoạch hóa tập trung. Mơ hìn
h đó đã phát huy vai trị tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng đến cuối
những năm 80 của thế kỷ XX đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến chủ nghĩ
a xã hội hiện thực ởLiên Xô và Đông Âu sụp đổ. Từ đó, có quan điểm khẳng định chủ
nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ nhận chủ nghĩa xã hội.hiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Thực ra, khủng hoảng đó chỉ bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mơ hình kế hoạch hóa tâp
trung, chứ khơng phải bác bỏ chủ nghĩa xã hội với tính cách là xã hội cao hơn chủ
nghĩa tư bản. Chính sự khủng hoảng đó giúp cho chúng ta nhận thức rõ hơn về chủ

nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nếu như cách mạng công nghiệp
thế kỷ XVIIIvàXIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến,
thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất
để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định:
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội khơng tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của
cách mạng Việt
Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn
kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và
điều kiện cụ thể của nước ta.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng


sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới. Mục tiêu của chúng ta là:"Xây dựng một nước ViệtNam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
"Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nên phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế
, xã hội có tính chất q độ.

Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ"
2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta,
"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý c
ủa Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Ngày nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đíc
h khác nhau.Trong các nước tư bản, đó là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Ở nước ta, đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự ph
át triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của q trình phân cơng
lao động xã hội, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạnh mẽ t
húc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta,
"kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù
hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định:
"Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền v
ới xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở



hữu, quản lý và phân phối"
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
"Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giả
i phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động của tồn thể nhân dân
Câu 2: Phân tích mối liên hệ phổ biến? Chỉ ra và phân tích quan điểm tồn diện trong
cách mạng giải phóng dân tộc và cơng cuộc đổi mới ở nước ta?
TRẢ LỜI
Khái niệm: Khái niệm mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới.
Ví dụ, giữa cung và cầu (hàng hố, dịch vụ) trên thị trường ln ln diễn ra q trình: cung
và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển hố lẫn nhau, từ
đó tạo nên q trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu. Đó chính là
những nội dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến được sử dụng với hai hàm nghĩa:
+ Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ (ví dụ như: khi khẳng định rằng mối liên hệ
là cái vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật, hiện
tượng nào, lĩnh vực nào);
+ Đồng thời, khái niệm này cũng dùng để chỉ: những liên hệ tồn tại (được thể hiện) ở nhiều
sự vật, hiện tượng của thế giới (tức là dùng để phân biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc
thù chỉ biểu hiện ở một hay một số các sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vực nhất định).
Ví dụ, mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là mối liên hệ chung,
nhưng mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có tính chất đặc thù tuỳ theo từng loại
thị trường hàng hoá, tuỳ theo thời điểm thực hiện... Khi nghiên cứu cụ thể từng loại thị
trường hàng hố, khơng thể khơng nghiên cứu những tính chất riêng có (đặc thù) đó. Nhưng

dù khác nhau bao nhiêu thì chúng vẫn tuân theo những nguyên tắc chung của mối quan hệ
cung cầu.
Mối liên hệ phổ biến có các cặp phạm trù như nguyên nhân và kết quả, cái chung và cái
riêng, nội dung và hình thức, lượng và chất, các mặt đối lập..vv
VD: Mối liên hệ cặp phạm trù nội dung và hình thức của quyển sách Lịch sử 12


Nội dung: Kiến thức lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam thời hiện đại
Hình thức: Bìa sách, kích thước, giấy, cỡ chữ, kênh hình trong sách, ngồi ra cịn có bố cục
kiến thức được bố trí trong sách…
Có nhiều cấp độ, phạm vi của mối liên hệ phổ biến, trong đó phép biện chứng duy vật với tư
cách là khoa học triết học có nhiệm vụ nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến nhất, làm tiền đề
phương pháp luận chung cho việc nghiên cứu các mối liên hệ cụ thể trong từng lĩnh vực
nghiên cứu của các khoa học chuyên ngành; đó là các mối liên hệ như: cái chung và cái
riêng, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả...
Về tính chất mối liên hệ phổ biến có những tính chất như sau: tính khách quan, tính phổ biến,
tính đa dạng phong phú.
Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy
định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân
chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập khơng phụ thuộc vào ý chí của con người; con
người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của
mình.
Tính phổ biến của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng thì khơng có bất cứ sự vật,
hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác. Đồng thời, cũng khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ
thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ
một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với
hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ Quan điểm biện chứng của chù nghĩa Mác Lênin không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà cịn nhấn

mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên
hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối
liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó;
mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều
kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trị khác nhau. Như vậy, khơng thể đồng
nhất tính chất và vị trí, vai trị cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện
tượng nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên
ngồi, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực
tiếp và gián tiếp, v.v. của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Bài học phương pháp luận
Thứ nhất khi xem xét các sự vật hiện tượng phải có quan điểm tồn diện. Quan điểm này địi
hỏi chúng ta nhận thức hay xem xét các sự vật hiện tượng phải xem xét trong tất cả các mối


lien hệ của chúng và trong cả sự tác động giữa sự vật hiện đó với sự vật khác…chỉ có trên cơ
sở đó chúng ta mới nắm bắt được tất cả các bản chất của sự vật hiện tượng. Đồng thời quan
điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối
lien hệ bên trong, mối lien hệ bản chất, tất yếu vd: Khi đánh giá sinh viên đánh giá tổng thể
trí lực, thể lực, các quan hệ thầy cơ, bạn bè,…
Thứ hai phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét sự vật hiện tượng. Quan điểm này yêu
cầu phải đặt sự vật hiện tượng trong quá trình phát sinh, trưởng thành và diệt vong riêng khá
cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và vận động diễn ra trong nhiều điều kiện và hồn cảnh,
khơng gian và thời gian khác nhau
Thứ ba cần tránh quan điểm chiết trung, phiến diện khi xem xét các sự vật, hiện tượng
VẬN DỤNG
Chỉ ra và phân tích quan điểm tồn diện trong cách mạng giải phóng dân tộc và cơng
cuộc đổi mới ở nước ta?
Trong cách mạng dân tộc dân chủ: Vận dụng trong việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của
xã hội, tìm ra mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu, trong đánh giá so sánh lực lượng giữa ta

với địch một cách toàn diện, tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp của cách mạng.

Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản. Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi
tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang trong mình khát vọng giải phóng dân
tộc, qua nhiều năm bơn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vơ sản”. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng
dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917 Con đường giải phóng dân
tộc theo khuynh hướng cách mạng vơ sản, là cuộc cách mạng tồn diện, sâu sắc và triệt
để. Cuộc cách mạng đó khơng chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội.
Trong q trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kiên
trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh một chiều đấu
tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm
cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vơ sản có sức sống mạnh
mẽ, thâm nhập trong đơng đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vơ
sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sau
khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó, Người dành nhiều tâm trí
vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở Việt Nam, hình thành nên những
quan điểm hết sức cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH từ một nước thuộc địa,
với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của CNXH,
mục tiêu và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một q trình cải biến cách mạng lâu dài,


gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con
người, làm cho con người phát triển tồn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý luận của Hồ

Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vơ sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc
Cách mạng Tháng Tám 1945 dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (29-1945). Trong Tun ngơn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ
Chí Minh trịnh trọng tun bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập”(4). Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tun
bố với tồn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và
quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho
việc xác lập và bảo vệ quyền con người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra một
thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Trong
cuộc đấu tranh trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc
lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt Nam, của
dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn
của thời đại.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí
Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách
mệnh mới thành cơng...”. Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới
của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng
Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc; thơng qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng,
xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân
tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam
chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn dân trên cơ sở
liên minh cơng nơng
Đánh giá cao vai trị, sứ mệnh của giai cấp nơng dân, nhưng Hồ Chí Minh ln khẳng

định, giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng
khối liên minh cơng - nơng làm nịng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh
chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân
mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất,
nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây


là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc
biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí
Minh về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã
được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang;
thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn
Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác định
phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng con
đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ
trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kế thừa và phát
huy nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực
lượng vũ trang lớn mạnh, với ba thứ quân và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến
thuật của quân đội để đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù; đồng thời, kết hợp với xây
dựng lực lượng chính trị mạnh mẽ của quần chúng để khi thời cơ đến tiến hành tổng tiến
công, giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp giải phóng dân tộ
Trong cơng cuộc đổi mới: tiến hành đổi mới toàn diện, triệt để, đồng thời phải xác định khâu
then chốt. Nắm vững mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và đổi mới tư
duy, kết hợp giữa nội lực và ngoại lực.


+ Đảng đưa ra những đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội( kinh tế, chính
trị. Xã hội , văn hóa, tư tưởng…) Đại hội VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi
mới “một là phải giữ vững định hướng XHCN trong q trình đổi mới , hai là đổi mới
tồn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi hình thức và cách làm phù hợp”.
Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội.
Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ
chức, cán bộ, phơng cách và lề lối làm việc.
+ Đổi mới toàn diện trên tất cả lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm như xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường để tạo ra động lực nhằm phát huy, kiến trúc nền
kinh tế trong nhân dân, khai thác vốn đầu tư và trình độ cũng như vốn của nước ngồi,
nâng cao tay nghề, tiếp thu khoa học cơng nghệ tiên tiến của thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế
VN ngày càng đi lên hội nhập tồn cầu hóa kinh tế thế giới. Đó là sự vận dụng hết sức
sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lenin vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam đặc biệt là vận dụng
nguyên lý của mối liên hệ phổ biến


Trong xu thế tồn cầu hóa: Cần nắm bắt các mối liên hệ tương hỗ nhiều mặt như thực hiện
chính sách hội nhập, nắm thời cơ và phát huy nội lực để phát triển đất nước. Chẳng hạn như
việc xuất nhập khẩu các mặt hàng.

Câu 3: Giaỉ thích nhận định
1. Trực quan sinh động là quá trình đầu tiên của quá trình nhận thức cung cấp cơ
sở cho nhận thức lí tính
2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội
TRẢ LỜI
Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính )là một giai đoạn đầu tiên trong q trình nhận
thức. Có mối quan hệ biện chứng với giai đoạn sau của quá trình nhận thức là tư duy trừu

tượng (nhận thức lí tính). LêNin viết “con đường biện chứng từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
Trực quan sinh động hay còn gọi là nhận thức cảm tính. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận
thức gắn liền với thực tiễn.

Nhận thức cảm tính bao gồm 2 q trình chính là cảm giác và tri giác.
Cảm giác: Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện
tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí, sơ đẳng, đơn giản nhất. Biểu tượng của nó chỉ là
những thuộc tính riêng rẽ của sự vật. Tuy nhiên nó lại đóng vai trị khởi đầu cho các q
trình tâm lí khác như tưởng tượng, tư duy, trí nhớ… Cảm giác cũng là khâu đầu tiên trong
sự nhận thức hiện thực khách quan của con người.
Tri giác là một q trình tâm lí nhận thức cảm tính, phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc
tính bề ngồi của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan người ta.
Cũng giống với cảm giác, tri giác là một q trình nhận thức cảm tính.
Là một q trình vì có khởi đầu, diễn biến và kết thúc.
Là quá trình nhận thức vì biểu tượng tri giác giúp cho con người nhận biết được hiện thực
khách quan bên ngồi.
Là cảm tính vì chỉ gọi là biểu tượng tri giác khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác
động vào giác quan.
Tuy nhiên biểu tượng tri giác là là một hình ảnh trọn vẹn về sự vật, hiện tượng. Biểu tượng
này được cấu thành từ các cảm giác. Ví dụ: hình ảnh ngơi nhà mà chúng ta đang nhìn
thấy bao gồm những cảm giác khác nhau về màu sắc, kích thước. Lẽ đương nhiên đó khơng
phải là một tổng số học mà là một tổng thể các cảm giác.
Cuối cùng là yếu tố biểu tượng là hình ảnh cảm tính và tương đối hồn chỉnh cịn lưu lại trong bộ óc
con người về sự vật khi sự vật đó khơng cịn trực tiếp tác động đến các giác quan. Như vậy ở giai
đoạn nhận thức cảm tính thì con người vẫn chưa phân biệt được cái là bản chất với cái không phải là
bản chất, đâu là tất yếu, đâu là ngẫu nhiên.



Trực quan sinh động là cơ sở cho nhận thức lí tính, khơng có trực quan sinh động thì khơng có nhận
thức lí tính
VD: Tục ngữ có câu: Họa hổ, họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm
VD: Khi A đến dự khai giảng năm học mới từ lớp 9 sang lớp 10. A làm quen nhiều bạn trong lớp, khi
về nhà A không thể nhớ hết tên và khuôn mặt của các bạn

VD: Hay trong q trình giảng dạy, chúng ta nhận thấy có học sinh có những biểu hiện
như: thờ ơ, mệt mỏi, buồn chán và hay buồn ngủ. Chúng ta nhận định được những biểu
hiện khác lạ của học sinh để có những biện pháp hay hướng giải quyết phù hợp nhất.
Từ cảm giác sang tri giác đến biểu tượng có sự tác động qua lại với nhau. Tuy nhiên, ở
giai đoạn cảm tính, nhận thức vẫn phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan để
nhờ đó nhận thức có thể lý giải được đúng đắn các sự vật, hiện tượng được phản ánh
trong giai đoạn nhận thức cảm tính, có khả năng đáp ứng được nhu cầu nhận thức phục vụ
hoạt động thực tiễn, nhu cầu hoạt động cải biến sáng tạo thế giới khách quan
b) Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ của những quan hệ
xã hội
Con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới, luôn được các nhà
khoa học nghiên cứu sâu sắc với nhiều chiều cạnh. Trước Mác, những nhà triết học cho
rằng: con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, v.v.. nhưng đến
Các Mác, ông đã nghiên cứu con người với tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, tồn
tại và phát triển trong sự gắn bó hữu cơ với giới tự nhiên và xã hội lồi người; chịu sự tác
động, nhưng khơng phải là sản phẩm thụ động của tự nhiên và các quan hệ xã hội mà là
chủ thể giữ vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của thế giới và của chính
mình.
Theo Các Mác, lao động quyết định của sự hình thành con người, đánh dấu sự chuyển
biến từ động vật thành con người. Tính hiện thực của con người - “những cá nhân con
người sống thể hiện ở sự tồn tại khách quan trong hoạt động thực tiễn của nó: “Con người
khơng phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngồi thế giới. Con người chính là
thế giới con người, là nhà nước, là xã hội” . Và vì vậy, “bản chất của con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản

chất của con người là tổng hồ của những mối quan hệ xã hội”. Quan điểm của Các Mác
là một bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người, về bản chất con người và vị
trí, vai trị của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại. Đồng thời quan điểm
của Các Mác cũng cho thấy, mọi hoạt động lao động sản xuất con người đều khơng ngồi
mục đích sáng tạo ra tồn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Cũng với ý nghĩa đó, bằng
các hoạt động cách mạng, con người đánh dấu các trang sử mới cho chính mình phù hợp
với nhu cầu và mục đích của mình trong tiến trình phát triển.
Trong các tác phẩm của mình: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen” (1843),
“Bản thảo kinh tế - triết học” (1844), “Luận cương về Phoiơbắc” (1845)… Các Mác đã
chỉ rõ con người là thể thống nhất hoàn chỉnh, là thực thể sinh học - xã hội, hình thành


nên từ hai mặt: tự nhiên và xã hội; tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất
con người; đồng thời khẳng định mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội. Xã
hội có vai trị quan trọng đối với sự hình thành cá nhân và cá nhân cũng có vai trị khơng
kém phần quan trọng đối với sự hình thành xã hội: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người
với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”. Trình độ
giải phóng xã hội luôn được thể hiện ra ở sự tự do của cá nhân con người, vì cá nhân
được giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã
hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân. Con người tự giải phóng
cho mình và qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội - đó chính là sự khẳng
định vị thế và vai trị của con người trong tiến trình lịch sử.
Theo Các Mác, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn
của con người và xã hội; Với khả năng và năng lực của mình, con người chính là động lực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, tạo nên những nền văn
minh trong lịch sử nhân loại.
Hơn nữa, mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa là
giải phóng con người, giải phóng xã hội, vì thế mà, có thể nói, chủ nghĩa xã hội mang tính
nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu
giải phóng con người, mà trong hiện thực, con người đã từng bước được giải phóng: con

người đã từ “vương quốc của tất yếu” chuyển sang “vương quốc tự do”. Trong chủ nghĩa
xã hội, tự do cá nhân không chỉ biểu hiện trong các quyền cá nhân được
hưởng, mà còn được biểu hiện trong nghĩa vụ và trách nhiệm - thể hiện sự phát triển xã
hội và con người.
Quan điểm của Các Mác về con người, về giải phóng con người có giá trị to lớn về lý
luận và thực tiễn, trở thành cơ sở lý luận cho nhiều ngành khoa học, cho Đảng ta trong
việc giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội và con người: “Chủ nghĩa Mác có một ý nghĩa
triết học; nó là một triết học: một “chủ nghĩa nhân bản”… chủ yếu nó là triết học về sự
giải phóng và của tự do”. Quan niệm của Mác về phát triển xã hội lấy sự phát triển của
con người làm thước đo cho sự phát triển càng được khẳng định khi loài người đang sống
trong bối cảnh quốc tế đầy những biến động, khi tính đa dạng trong các hình thức phát
triển của xã hội lồi người đang ngày càng thể hiện rõ nét trong cộng đồng quốc tế. Song
dù phát triển ở các nước, các khu vực khác nhau, theo định hướng nào, thì mọi định
hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá trị nhân văn của nó - đó là hướng tới sự phát triển
con người, phát triển con người toàn diện.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khát vọng “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, nhân
dân ta đã kiên cường đấu tranh giành được những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội Đảng X đã chỉ
rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam… Bồi dưỡng các giá
trị văn hoá trong thanh niên học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng
lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”.Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng
định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”.


Như vậy là, cùng với yêu cầu về phát triển kinh tế, việc chăm lo cho con người, chú trọng
phát triển con người toàn diện - nguồn nhân lực quan trọng của mỗi quốc gia, dân tộc là
tất yếu và rất cần thiết. Tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt và có hiệu quả các chính sách
xã hội như: Xóa đói, giảm nghèo, lao động, việc làm, phát triển hệ thống y tế… là điều
kiện để con người được phát triển toàn diện. Khi con người được đặt vào vị trí trung tâm

của sự phát triển, thì sự phát triển của các lĩnh vực khác phải nhằm và chính là để tạo ra
những tiền đề vật chất, tinh thần cho sự phát triển toàn diện của con người; và ở Việt
Nam, vấn đề trọng yếu này luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo v



×