Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.13 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>TÓM TẮT LUẬN VĂN </b>
Kể từ những năm đầu thập niên 1980, nhãn sinh tha<sub>́i đã b ắt đầu được sử </sub>
dụng nhằm cung cấp thông tin tơ<sub>́ i ngư ời tiêu dùng một số những tác động môi </sub>
trường của sản phẩm cũng như những tính năng vượt trội của sản phẩm được dán
nhãn so với các sản phẩm cu<sub>̀ ng loa ̣i khác . Trong thời gian qua các chương trình </sub>
dán nhãn sinh thái đã được triển khai rộng khắp ở khoảng 30 quốc gia như My<sub>̃ , </sub>
Anh, Đan Mạch, Thái Lan, Trung Quốc, Hồng Kông… và các chương trình này đã
thu được những kết quả nhất đi ̣nh.
Tại Việt Nam chương trình nhãn sinh thái đư ợc triển khai trên phạm vi toàn
quốc từ tháng 3 năm 2009. Trong giai đoạn triển khai thử nghiệm, chương trình đã
thu được những kết quả nhất định, một số sản phẩm đã được cấp nhãn xanh Việt
Nam, một số tiêu chi<sub>́ dán nhãn cho các mă ̣t hàng như bô ̣t giă ̣t , bóng đèn, bao bì </sub>
nhựa, bao bì giấy tổng hợp , máy in, mực in, máy tính xách tay đã đư ợc ban hành.
Tuy nhiên những lợi ích của viê ̣c tham gia dán nhãn sinh thái cho s ản phẩm chưa
được thể hiê ̣n đầy đủ , doanh nghiê ̣p chưa nhâ ̣n th ức được những ưu đãi hay thu
được lợi ích từ viê ̣c tham gia chương trình . Bên ca ̣nh đó chương trình cò n gă ̣p
nhiều khó khăn trong viê ̣c giới thiê ̣u tới người tiêu dùng về nhãn sinh thái cũng
như tìm kiếm cơ hội hợp tác với các chương trình nhãn sinh thái khác trên thế giới.
Mục tiêu của luận văn nhằm đánh giá kết quả triển khai chương trình nhãn sinh
thái ở Việt Nam trong những năm qua và đề xuất những giải pháp giúp nâng cao
hiệu quả của chương trình trong thời gian tới.
Về cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả tập trung phân tích khái quát về khái
niệm nhãn sinh thái, phân loại nhãn sinh thái, nguyên tắc thực hiện nhãn sinh thái,
thái. Nhãn sinh thái là một khái niệm xuất hiện khá phổ biến ở các nước trên thế
giới, tuy nhiên đây vẫn là khái niệm rất mới ở nước ta. Mặc dù có nhiều định nghĩa
khác nhau về nhãn sinh thái tuy nhiên về cơ ba<sub>̉n nhãn sinh thái là loa ̣i nhãn trong </sub>
đó xác đi ̣nh vấn đề môi trường tổng thể của sản phẩm , dịch vụ dựa trên đánh giá
vòng đời của sản phẩm đó . Nhãn sinh thái chỉ được cấp cho những sản phẩm có ít
tác động đến môi trường nhất ở một tiêu chuẩn nhất định so với các sản phẩm khác
cùng loại. Nhiều nước trên thế giới đã triển khai chương trình dán nhãn và đã thu
được những kết quả đáng kể. Chương trình nhãn sinh thá i đầu tiên được thực hiê ̣n
tại Đức vào năm 1978. Năm 1980, Canada, Nhâ ̣t Bản và Mỹ bắt đầu xây dựng
chương trình nhãn sinh thái . Nhiều chương trình nhãn sinh thái của các nước khác
cũng được xây dựng như Chương trình nhãn sinh t hái của Trung Quốc , Thái Lan,
Nam Phi. Ủy ban Châu Âu… Các chương trình nhãn sinh thái ở các nước trên thế
giới đều có những kinh nghiệm rất quý báu cho chúng ta học tập. Qua việc phân
tích một số chương trình nhãn sinh thái của các nước, tác giả đã tổng kết và rút ra
bài học kinh nghiệm về xây dựng mơ hình tổ chức, cách thức lựa chọn sản phẩm,
thiết lập tiêu chí đánh giá, hợp tác với các chương trình nhãn sinh thái trên thế giới
và một số bài học khác.
Chương trình nhãn sinh thái Việt Nam được triển khai nhằm mục tiêu nâng
cao nhận thức của doanh nghiệp và thói quen tiêu dùng của người dân về các sản
phẩm xanh, sản phẩm thân thiện với môi trường, hướng tới xây dựng xã hội tiêu
dùng bền vững. Để co<sub>́ đầy đủ cơ sở pháp lý thực hiê ̣n kế hoa ̣ch đề ra, Bô ̣ trưởng </sub>
Bô ̣ Tài nguyên và Môi trường đã ký các Quyết đi ̣nh phê duyê ̣t thực hiê ̣n chương
trình cấp nhãn sinh thái ở Việt Nam , kế hoa ̣ch triển khai chương trình, mơ hình tổ
chức, quy trình, thủ tục cấp nhãn sinh thái. Tính tới tháng 9 năm 2014, chương
đang thực hiê ̣n chứng nhâ ̣n la ̣i và 03 sản phẩm được chứ ng nhâ ̣n mới . Trong thời
gian thực hiện thí điểm, chương trình nhãn sinh thái Việt Nam đã nhận được sự chỉ
đạo sát sao của lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như nhận được sự
quan tâm của người tiêu dùng, nhà sản xuất về các sản phẩm thân thiện với mơi
trường. Có nhiều khó khăn khi thực hiện chương trình này bởi tính mới cũng như
những khó khăn từ nội tại của doanh nghiệp và thói quen của người tiêu dùng. Kết
quả đánh giá thuận lợi và khó khăn trong thực hiện chương trình sẽ là cơ sở để tác
giả đề xuất các giải pháp trong chương tiếp theo.
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, sự hội nhập sâu với nền kinh tế thế
giới và định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng xã hội tiêu dùng thông
minh hướng tới phát triển bền vững, chương trình nhãn sinh thái Việt Nam sẽ có
cơ hội mở rộng, phát triển hơn trong tương lai. Thông qua việc nghiên cứu, học hỏi
kinh nghiệm từ chương trình nhãn sinh thái ở các nước cũng như đánh giá thực
trạng về nhãn sinh thái ở Việt Nam, tác giả mạnh dạn đề xuất các giải pháp về mơ
hình tổ chức, quy trình lựa chọn sản phẩm, quy trình xây dựng tiêu chí đánh giá
cho sản phẩm và các giải pháp cụ thể khác với mong muốn nâng cao hiệu quả triển
khai chương trình nhãn sinh thái Việt Nam.
Do tính thiết yếu và vai trò của nhãn sinh thái trong hoạt động thương mại
trên thế giới, do vậy vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các tổ chức, nhà khoa
học trên thế giới. Tuy nhiên các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc trình bày tổng
quan về nhãn sinh thái, đánh giá khả năng áp dụng nhãn sinh thái trong các ngành
sản xuất ở Việt Nam và bước đầu nghiên cứu và đề xuất các tiêu chí cho từng
ngành sản xuất. Hiện chưa có một nghiên cứu hay đề tài nào có đánh giá cụ thể về
kết quả hoạt động của chương trình nhãn sinh thái ở Việt Nam. Đề tài bước đầu
góp phần phán ảnh được bức tranh chung của chương trình nhãn sinh thái ở Việt
Nam trong thời gian triển khai thí điểm, qua đó người đọc có những đánh giá
khách quan về hiệu quả triển khai chương trình. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện đề tài còn gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng khung lý thuyết chung về
đánh giá hiệu quả một chương trình, dự án cũng như khó khăn trong việc thu thập
nguồn số liệu.
Mặc dù chương trình còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế song với những định
hướng và mục tiêu phát triển đã đặt ra, tác giả hy vọng chương trình nhãn sinh thái