Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Cac nha van nha tho trong chuong trinh ngu van 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.38 KB, 26 trang )

Tich luy kien thuc van hoc

CÁC TÁC GIẢ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 6
1. Tác giả Tơ Hồi
Tiểu sử
Tên khai sinh của ông là Nguyễn Sen, sinh ngày 7 tháng 9 năm 1920 tại quê nội ở
Thanh Oai, Hà Đông trong một gia đình thợ thủ cơng. Tuy nhiên ơng lớn lên ở quê
ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hồi Đức, tỉnh Hà Đơng (nay thuộc
phường Nghĩa Đơ, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Bút danh Tơ Hồi gắn với hai địa
danh: sơng Tơ Lịch và phủ Hồi Đức.
Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy trẻ, bán
hàng, kế toán hiệu buôn,... và nhiều khi thất nghiệp. Đến với văn chương ông
nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là với truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm
1943, Tơ Hồi gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống Pháp,
ơng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan
trọng như Truyện Tây Bắc.
Từ năm 1954 trở đi, ơng có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau
hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ơng đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều
thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và
kinh nghiệm sáng tác.
Các bút danh







Tơ Hồi
Mai Trang
Mắt Biển


Thái n
Vũ Đột Kích
Hồng Hoa
Sự nghiệp văn học



Ơng viết văn từ trước năm 1945, với các thể loại truyện phong phú, đa dạng.
Ông viết cho thiếu nhi và cách mạng. Các tác phẩm chính của ơng là:
o Dế Mèn phiêu lưu kí (1941)
o O chuột (1942)
o Nhà nghèo (1944)
o Truyện Tây Bắc (1953)
o Miền Tây (1967)
o Cát bụi chân ai (1992)
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc
o



Ba người khác (2006)

Truyện dài Dế Mèn phiêu lưu kí được ơng viết xong vào tháng 12 năm 1941
tại Nghĩa Đô. Đây là tác phẩm rất nổi tiếng của ông dành cho thiếu nhi.
Ba người khác là tác phẩm gần đây nhất. Tác phẩm này được viết xong năm
1992 nhưng đến 2006 mới được phép in, nội dung viết về thời kỳ Cải cách
ruộng đất, đã gây tiếng vang lớn và có thể so sánh với Dế Mèn phiêu lưu ký.

Giải thưởng







Giải nhất Tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam 1956 (Truyện Tây bắc) ;
Giải A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 1970 (tiểu thuyết Quê nhà);
Giải thưởng của Hội Nhà văn Á-Phi năm 1970 (tiểu thuyết Miền Tây);
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996).
Giải Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội 2010

2. Tác giả Đoàn Giỏi

Tiểu sử
Đoàn Giỏi sinh ở quê tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã Tân Hiệp,
huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), trong một gia đình địa chủ. Ơng từng theo
học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940. Khi Cách mạng
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

tháng Tám thành công và tồn quốc kháng chiến bùng nổ, gia đình ơng đã tự
nguyện hiến tồn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính quyền Việt Minh.
Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh,
rồi làm công tác thơng tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch
Giá (1949). Từ năm 1949 đến năm 1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam

Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam.
Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên tập
sách báo, cơng tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông là
ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Ơng là Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồn Giỏi cịn có các bút danh khác: Nguyễn Hồi,
Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.
Ngồi truyện, truyện ngắn, ký, Đồn Giỏi cịn sáng tác thơ. Đất rừng phương Nam
là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ơng. Truyện đã
được dịch ra nhiều tiếng nước ngồi, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và
in trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng.
Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư.
Ngày 7 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết
định đặt tên ông cho một phố thuộc Quận Tân Phú.
Tác phẩm
Truyện





Đường về gia hương (1948)
Cá bống mú (1956)
Đất rừng phương Nam (1957)
Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962)

Truyện ngắn


Hoa hướng dương (Đồn Giỏi) (1960)


Truyện ký






Ngọn tầm vơng (1956)
Trần Văn Ơn (1955)
Từ đất Tiền Giang
Người thủy thủ già trên hịn đảo lưu đày
Đèn tơi bay về Lục Hồ Chí Minh
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc








Khí hùng đất nước (1948)
Những dòng chữ máu Nam Kỳ 1940 (1948)
Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
Cây đước Cà Mau
Tết Nguyên Đán ở Nam Bộ


Kịch thơ



Người Nam thà chết không hàng (1947)
Chiến sĩ Tháp Mười (1949)

Thơ




Bến nước mười hai
Truyện thằng Cồi
Giữ vững niềm tin (1954)

Biên khảo



Những chuyện lạ về cá (1981)
Tê giác giữa ngàn xanh (1982)

Thành tựu nghệ thuật
Đoàn Giỏi là nhà văn đã biến đất rừng phương Nam trở thành thân thuộc, đáng
yêu đối với độc giả, không chỉ là độc giả nhỏ tuổi. Những trang văn của ông thấm
đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện cả thực cả kỳ bí của
thiên nhiên Nam bộ hoang sơ và truyền được hơi thở ấy cho độc giả. Có được điều
đó khơng những là nhờ tình u của ơng đối với miền đất Nam bộ q hương mà
cịn ở óc quan sát tỷ mỷ, tinh tế, lối văn kể chuyện hấp dẫn trong tác phẩm của

mình.

§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

3. Tác giả Võ Quảng

Tiểu sử
Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920, tại xã Đại Hòa huyện Đại Lộc tỉnh Quảng
Nam. Năm 1935, trong khi đang theo học Tú tài ở Quốc học Huế, ông tham gia tổ
chức Thanh niên Dân chủ ở Huế, năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế
ở Huế. Tháng 9 năm 1941, bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, sau
đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở quê nhà.
Sau khi Cách mạng tháng Tám1945 nổ ra, ơng được chính quyền Việt Minh cử làm
ủy viên Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông được
cử vào chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến thành phố Đà Nẵng.
Từ năm 1947 đến 1954, làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) tịa án quân
sự miền Nam Việt Nam. Thời gian này, ông cũng có sáng tác một số tác phẩm thơ
dành cho thiếu nhi.
Sau khi tập kết ra Bắc, ông được điều về công tác ở chức vụ Ủy viên Ban nhi đồng
Trung ương, phụ trách văn học cho thiếu nhi. Ông là một trong những người tham
gia sáng lập và từng giữ chức Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng, Một thời gian
sau đó, ơng được cử làm Giám đốc Xưởng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1965,
ơng được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về công tác
tại Bộ Văn hóa, năm 1971, về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch
Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về
hưu.
§ao Thi Sanh – Suu tam



Tich luy kien thuc van hoc

Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Ông qua đời lúc 11 giờ 20 phút ngày 15 tháng 6 năm 2007 tại Hà Nội. Mộ phần
của ông đang đặt tại nghĩa trang tỉnh Vĩnh Phúc.
Tác phẩm
Nhà văn Võ Quảng là người viết nhiều truyện và thơ cho thiếu nhi với nhiều tác
phẩm được các thế hệ yêu thích như:


















Cái Thăng (truyện 1961)
Thấy cái hoa nở (thơ 1962)

Chỗ cây đa làng (1964)
Nắng sớm (thơ, 1965)
Cái Mai (1967)
Những chiếc áo ấm (truyện 1970)
Anh Đom đóm (thơ, 1970)
Măng tre (thơ, 1972)
Quê nội (truyện 1974)
Tảng sáng (truyện 1976)
Bài học tốt (truyện, 1975)
Gà mái hoa (thơ 1975)
Quả đỏ (thơ 1980)
Vượn hú (truyện 1993)
Ánh nắng sớm (thơ 1993)
Kinh tuyến, vĩ tuyến (truyện 1995)
Sơn Tinh Thủy Tinh, Con 2 (kịch bản phim hoạt hình).

Ngồi ra, ơng cịn có bài thơ đồng dao "Mời vào" cho trẻ em rất nổi tiếng.

§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

4. Tác giả Tạ Duy Anh

Tiểu sử
Tạ Duy Anh tên khai sinh là Tạ Viết Dũng, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1959. Quê ông
ở thơn Cổ Hiền, xã Hồng Diệu, huyện Chương Mỹ, Hà Tây (nay là huyện Chương
Mỹ, Hà Nội).
Ông từng làm cán bộ giám sát chất lượng bê tông ở nhà máy thủy điện Hịa Bình,

trung sĩ bộ binh ở Lào Cai. Sau đó Tạ Duy Anh tham gia học ở Trường viết văn
Nguyễn Du. Trải qua bốn năm học, ông đỗ đầu và được giữ lại làm giảng viên.
Hiện ông là biên tập viên tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Tạ Duy Anh trở thành hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1993.
Hành trình sáng tác
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

Tạ Duy Anh viết nhiều và rất đều tay. Tính đến nay (2010), ơng đã xuất bản
khoảng 20 tập truyện, bao gồm bốn tiểu thuyết và một tập tản văn trong khoảng 20
năm cầm bút.
Cuối những năm 1980, trong trào lưu đổi mới của toàn xã hội, văn học cũng
nhanh nhạy xuất hiện những tên tuổi cùng những tác phẩm để đọc, để phục và để
nhớ. Người ít tuổi nhất trong số các tên tuổi ấy chính là Tạ Duy Anh. Ơng làm
“cháy” báo Văn Nghệ trên tất cả các sạp báo cả nước bằng truyện ngắn Bước qua
lời nguyền. Vẫn là motip Romeo và Juliet với mối thù của hai dòng họ trên vai và
tình yêu trong tim, nhưng truyện của Tạ Duy Anh là sự tái hiện bức tranh tồn
cảnh nơng thơn Việt Nam những năm 1950-1970 đầy máu và nước mắt. Giáo sư
Hồng Ngọc Hiến mượn tên truyện của ơng để khái qt: “Có một dịng văn học
bước qua lời nguyền”.
Tác phẩm gây được dư luận thứ hai của ông là tiểu thuyết Lão Khổ. Vẫn là chuyện
làng quê Bắc bộ, nhưng thời gian rộng hơn, từ những năm 1940 - 1990, dung
lượng tiểu thuyết lớn hơn truyện ngắn và nhà văn cũng già dặn từng trải và kỹ
thuật hơn nên Lão Khổ được đồng nghiệp và bạn đọc nhìn nhận như một bước tiến
dài của Tạ Duy Anh. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đánh giá: “Đây là một cuốn tiểu
thuyết rất quan trọng... thêm một giả thuyết văn học về bản chất và thân phận
người nông dân Việt Nam”.
Năm 2002, Đi tìm nhân vật, một cuốn tiểu thuyết phá cách về mặt cấu trúc của

ơng, hồn thành sau bốn năm làm việc. Một cuốn sách thành công về mặt doanh số
của ông là tiểu thuyết Thiên thần sám hối, in năm 2004 này với bốn lần tái bản
trong không đầy một năm, gần 20.000 bản in. Cuốn tiểu thuyết chỉ không đầy 200
trang, kể chuyện ba ngày cuối cùng trong bụng mẹ của một bào thai sắp chào đời.
Kết cấu chặt chẽ và ngắn gọn, có thêm sự uyển chuyển và linh hoạt, Việt Hồi bình
luận trên tạp chí Tuổi trẻ Cuối tuần: "Thiên thần sám hối khiến ai đọc nó cũng có
thể tìm thấy mình trong đó và hầu hết là giật mình, khơng tự vấn lương tâm thì
cũng tự xấu hổ mà âm thầm đỏ mặt, nhưng nó cũng không quá nghiệt ngã, ráo riết
mà vẫn mở đường cho nhân vật, người đọc một lối thoát lương tâm".
Tác phẩm









Bước qua lời nguyền (1990)
Khúc dạo đầu (tiểu thuyết, 1991)
Lão Khổ (tiểu thuyết, 1992)
Hiệp sĩ áo cỏ (truyện vừa thiếu nhi, 1993)
Luân hồi (1994)
Người khác (tập truyện ngắn)
Bến thời gian
Gã và nàng
§ao Thi Sanh – Suu tam



Tich luy kien thuc van hoc










Bố cục hoàn hảo
Ngày hội cuối cùng
Quả trứng vàng
Ba đào ký
Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh
Đi tìm nhân vật (tiểu thuyết)
Thiên thần sám hối (tiểu thuyết)
Những truyện không phải trong mơ (truyện vừa)
Bức tranh của em gái tôi
Giải thưởng




Giải truyện ngắn nông thôn báo Văn nghệ, báo Nơng nghiệp và Đài Tiếng
nói Việt Nam tổ chức
Giải truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Quân đội.

5. Tác giả Duy Khán


Tiểu sử
Tên khai sinh: Nguyễn Duy Khán. Sinh ngày 6 tháng 8 năm 1934. Quê gốc xã Nam
Sơn huyện Quế võ, tỉnh Bắc Ninh. Mất ngày 29 tháng 1 năm 1993 tại Hải Phòng.
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

Duy Khán sinh trưởng trong một gia đình nơng dân nghèo, học dở dang trong
vùng tạm chiếm, trốn ra vùng tự do nhập ngũ. Trước ở bộ binh, sau về qn chủng
Phịng khơng – khơng quân. Từng làm giáo viên văn hoá trong quân đội, sau
chuyển làm phóng viên phát thanh quân đội. Về tạp chí Văn nghệ Qn đội làm
biên tập viên, phóng viên năm 1972.
Tác phẩm đã xuất bản
- Trận mới (Thơ, 1972)
- Tâm sự người đi (Thơ, 1987)
- Tuổi thơ im lặng (Truyện, 1986)
Giải thưởng
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1987 cho tác phẩm Tuổi thơ im lặng
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2007
6. Tác giả Trần Đăng Khoa

Tiểu sử
Từ nhỏ ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ơng đã có
thơ được đăng báo. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông Từ góc
sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được nhà xuất bản Kim
Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ "Hạt
gạo làng ta", sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc

sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).
Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10/10 tại
trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân
tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường
khong cịn cần thiết nữa, ơng được bổ sung về qn chủng hải qn. Sau đó ơng
theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế
giới M. Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

biên tập viên Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm
thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang phụ trách Ban văn nghệ
Đài Tiếng nói Việt Nam. Hiện nay ông giữ chức giám đốc của hệ phát thanh có
hình VOVTV của đài.
Tác phẩm
Trần Đăng Khoa khơng có nhiều tác phẩm, và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ" của
nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi
nhà thơ vào lính, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng
một thời, hiển nhiên, không là động lực cho xúc cảm khi tác giả đã cao tuổi.
Những tác phẩm nổi bật của Trần Đăng Khoa:










Từ góc sân nhà em, 1968.
Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và
xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới
Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.
Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986.
Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nxb Thanh niên, 1998,
tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của
tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.
Bài "Thơ tình người lính biển" đã được Hồng Hiệp phổ nhạc
Đảo chìm, tập truyện - ký, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần.
Giải thưởng

Ông 3 lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong (các năm
1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ (1982) và Giải thưởng Nhà nước (năm
2000).
Thông tin khác
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có một anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minhtác giả các tập thơ Nhà thơ và Hoa cỏ, Bản xô nát hoang rã, 45 Khúc Đàn bầu của
kẻ vô danh..., nguyên là Chủ tịch Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Một
chị gái là Trần Thị Bình, hiện sống ở quê cùng với hai cụ thân sinh của Nhà thơ.
Ơng cịn có một người em gái tên là Trần Thị Thuý Giang, hiện làm giáo viên tại
Cẩm Phả Quảng Ninh.

7. Tác giả Tố Hữu

§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc


Tiểu sử
*Thời niên thiếu
Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920, tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không
đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục
ngữ. Ơng đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc
nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ đã góp phần ni dưỡng tâm
hồn thơ Tố Hữu.
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế.
Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels,
Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky,... qua sách báo, kết hợp với sự vận động của
các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu,
Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm
1936 Ông gia nhập Đoàn thanh niên và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm
1938. Năm 1945 ông là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế.
Chọn bút danh Tố Hữu
Vào giữa năm 1938, sau khi đỗ thành chung, Nguyễn Kim Thành sang Lào. Tại
đây, ông viết bài "Lao Bảo"; một cụ Đồ nho người Quảng Bình, sau khi hàn huyên
đã tặng chữ "Tố Hữu" để đặt bút danh cho Nguyễn Kim Thành.
Cụ đồ giải thích theo Khổng Tử: "Ngơ nhi Tố Hữu đại chí", nghĩa là "trẻ ta sẵn có
chí lớn" - Tố Hữu là sẵn có; hai chữ ấy để chỉ cái tiềm ẩn trong con người Nguyễn
Kim Thành.
Nguyễn Kim Thành trân trọng nhận bút danh Tố Hữu do cụ đồ tặng, nhưng chỉ
dám được hiểu với nghĩa khác: Tố là trong trắng, Hữu là bạn; hai chữ Tố Hữu
với nghĩa là người bạn trong trắng.
Chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo

§ao Thi Sanh – Suu tam



Tich luy kien thuc van hoc

Năm 1946, ơng là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ơng lên Việt Bắc làm
cơng tác văn nghệ, tun huấn. Từ đó, ơng được giao những chức vụ quan trọng
trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:









1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy
viên chính thức;
Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban
chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban
Nơng nghiệp Trung ương;
Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội
đồng Bộ trưởng cho tới 1986. Ngồi ra ơng cịn là Bí thư Ban chấp hành
Trung ương.

Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học
nghệ thuật (đợt 1).
Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái

Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương,
Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ơng cịn là Đại biểu Quốc hội khố II và VII.
Sau khi Lê Duẩn mất, có sự thay đổi mạnh mẽ tiến tới đổi mới nhằm thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế tồn diện. Ơng bị mất uy tín vì vai trị "nhà thơ đi làm kinh tế"
qua những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm mọi chức
vụ, chỉ còn làm một chức nghiên cứu hình thức.
Ơng mất 9h15' ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.

Đóng góp văn học
Các tác phẩm








Từ ấy (1946)
Việt Bắc (1954)
Gió lộng (1961)
Ra trận (1962-1971)
Máu và Hoa (1977)
Một tiếng đờn (1992)
Ta với ta (1999)
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc




Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu
luận, 1973)
Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
Bài thơ tiêu biểu
















Bác ơi
Bài ca xuân 1961
Bài ca quê hương
Bầm ơi!
Có thể nào yên?
Đi đi em!
Đời đời nhớ Ông
Đợi anh về (tập thơ

dịch, 1998)
Em ơi... Ba Lan
Gặp anh Hồ Giáo
Hai đứa trẻ
Hồ Chí Minh
Hãy nhớ lấy lời tơi














Hoa tím
Hoan hơ chiến sĩ
Điện Biên
Kính gửi cụ Nguyễn
Du
Khi con tu hú
Lạ chưa
Lượm
Mẹ Suốt
Mồ côi

Một tiếng đờn
Mưa rơi
Sáng tháng Năm
Ta đi tới













Từ ấy
Tâm tư trong tù
Tương tri
Theo chân Bác
Tiếng chổi tre
Tiếng hát sông
Hương
Tiếng ru
Vườn nhà
Việt Bắc (thơ,
1954)
Việt Nam máu và
hoa

Xuân đang ở
đâu...
Xuân đấy

Tác phẩm dịch ra tiếng nước ngoài
Phong tặng và Giải thưởng văn học chính





Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ
Việt Bắc)
Giải thưởng Văn học ASEAN của Thailand năm 1996 cho tập thơ "Một tiếng
đờn".
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996)
Huân chương Sao Vàng (1994)

Phong cách nghệ thuật
Về nội dung
Thơ Tố Hữu mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc:


Trong việc biểu hiện tâm hồn, thơ, Tố Hữu luôn hướng đến cái ta chung:
o Hồn thơ Tố Hữu luôn hường đến cái ta chung, lẽ sống lớn, niềm vui
lớn của dân tộc và của Cách mạng. Cái tơi nếu có là cái tơi của người
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc






chiến sĩ, cái tôi nhân danh Đảng và dân tộc. Vì thế có ý nghĩa khái
quát, rộng lớn.
o Cảm hứng thơ Tố Hữu thường bắt đầu từ cảm hứng chính trị, từ
những tình cảm lớn cao cả, tiêu biểu: tình yêu lý tưởng, lãnh tụ, đồng
bào đồng chí,....
Trong việc miêu tả đời sống, thơ Tố Hữu mang đậm chất sử thi:
o Đối tượng thể hiện chủ yếu trong thơ Tố Hữu là những sự kiện lớn
của dân tộc, những vấn đề có ý nghĩa lịch sử, có tình chất tồn dân,
những biến cố quan trọng tác động đến vận mệnh dân tộc → cảm
hứng chủ đạo trong thơ là cảm hứng lịch sử dân tộc, là vận mệnh của
cộng đồng.
o Các nhân vật trữ tình thường mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc:
anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân,....
Tất cả những điều trên thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình rất tự
nhiên đằm thắm, chân thành:
o Nhiều vấn đề chính trị kho khan được diễn tả bằng tình cảm của mn
đời: tình mẹ con, vợ chồng, tình u đơi lứa → giọng điệu của tình
thương mến
o Đặc biệt: tác giả rung động trước đời sống cách mạng trong kháng
chiến → hướng về đồng chí, đồng bào mà trị chuyện tâm tình, nhắn
nhủ. Những lời tâm tình đó có cội nguồn từ chất Huế trong hồn thơ Tố
Hữu nghệ thuật

Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà



Về thể thơ: Tố Hữu có tiếp thu những tinh hoa của phong trào Thơ mới,
nhưng ông đặc biệt thành công khi vận dụng những thể thơ truyền thống của
dân tộc. Những bài thơ lục bát mang cả sắc thái lục bát ca dao và lục bát cổ
điển, dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc. Những bài
thơ theo thể thất ngôn trang trọng nhưng không khuôn sáo, trái lại, hơi thơ
rất liền mạch, tự nhiên, điễn tả được hiện thực đa dạng và nhiều trạng thái
cảm xúc khác nhau.



Về ngôn ngữ: ông thường sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc với
dân tộc. Đặc biệt, thơ Tố Hữu đã phát huy cao độ tính nhạc phong phú của
Tiếng Việt, nhà thơ sử dụng rất tài tình các từ láy, các thanh điệu, các vần
thơ.
Gia đình

*Phu nhân là Vũ Thị Thanh, nguyên Phó Trư
* Vợ chồng Tố Hữu có ba con, hai gái và một trai.
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

8. Tác giả Thép Mới

Thân thế và thời niên thiếu
Ông tên thật là Hà Văn Lộc, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1925, tại thành phố Nam
Định. Nguyên quán của ông ở phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội. Ơng có
một người em trai tên là Hà Văn Trường, về sau được nhiều người biết đến với tư

cách nhà báo Hồng Hà.
Thuở nhỏ, ông cùng em trai học ở Nam Định đến trung học. Ngay lúc cịn là học
sinh, ơng đã tham gia các hoạt động xã hội, phong trào học sinh yêu nước. Tại
đây, ông làm quen với các bạn học Đặng Xuân Khu, Phan Đình Đống, Phạm Văn
Cương... những người về sau là các lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Năm 1938, ơng gia nhập Đồn Thanh niên Dân chủ Đông Dương. Thời gian
này, ông bắt đầu viết bài cộng tác với báo với bút danh Phượng Kim.
Hoạt động cách mạng
Năm 1943, ông lên Hà Nội học đại học ngành Luật khoa. Được sự giới thiệu của
các bạn học cũ, ông tham gia hoạt động trong Kỳ bộ Bắc Kỳ của Đoàn Thanh niên
Cứu quốc. Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, trường tạm
ngưng hoạt động, ơng trở về Nam Định hoạt động bí mật trong Hội văn hóa cứu
quốc tỉnh Nam Định, tham gia viết cho tờ "Tự trị" của phong trào sinh viên yêu
nước chống Nhật.
Cách mạng tháng Tám thành công, ông được người bạn cũ Đặng Xuân Khu, lúc
này mang bí danh Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đơng Dương, mời
ra Hà Nội cộng tác, viết bài cho báo "Cờ giải phóng". Cũng chính tại đây, bút
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

danh Thép Mới xuất hiện lần đầu tiên với bài "Trung thu độc lập". Và cũng trong
năm 1945, với bí danh "Hồng", ơng được kết nạp Đảng Cộng sản, lúc này đang rút
vào bí mật dưới tên gọi công khai là "Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông
Dương". Đây cũng là nguồn gốc của bút danh Hồng Châu và của em ông là Hồng
Hà.
Tháng 12 năm 1946, ông chuyển sang công tác ở báo "Cứu quốc", bấy giờ do
Xuân Thủy làm Chủ nhiệm. Em trai Hà Văn Trường của ông cũng công tác tại đây
với vai trị phóng viên thời sự.

Năm 1947, ơng một lần nữa chuyển cơ quan, trở thành biên tập viên, phóng viên
báo "Sự thật". Từ tháng 2 năm 1951, ơng công tác ở báo "Nhân dân". Từ năm
1962, ông tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam liên tục 2 nhiệm kỳ 2 và
3. Năm 1964, ông là đặc phái viên của báo "Nhân dân" ở chiến trường Miền Nam.
Từ 1968 đến 1971, ông được cử là Ủy viên Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền
Nam, kiêm Tổng biên tập báo "Giải phóng". Năm 1972, ơng là Phó Tổng biên tập
báo "Nhân dân". Ông giữ chức vụ này cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1988.
Sau khi nghỉ hưu, ơng vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh và vẫn tiếp tục công
tác với báo "Nhân dân" với cương vị bình luận viên cao cấp cho đến lúc qua đời
vào ngày 28 tháng 8 năm 1991.
Các tác phẩm


















Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, của Karl Marx và Friedrich Engels (1946,

cùng dịch với Sơn Tùng, Lê Văn Lương hiệu đính)
Kháng chiến sau lũy tre, trên đồng lúa (bút ký, 1947)
Ý nghĩ người phóng viên kháng chiến (bút ký, 1948)
Trách nhiệm (bút ký, 1951)
Thời gian ủng hộ chúng ta, tùy bút của Ilya Ehrenburg (dịch, 1954)
Hữu nghị (bút ký, 1955)
Thép đã tôi thế đấy, tiểu thuyết của Nikolai Ostrovsky (dịch, 1955)
Như anh em một nhà (bút ký, 1957)
Hiên ngang Cu Ba (bút ký, 1962)
Điện Biên Phủ, Một danh từ Việt Nam (bút ký, 1964)
Trường Sơn hùng tráng (bút ký, 1967)
Cây tre Việt Nam (thuyết minh phim, 1980)
Nguyễn Ái Quốc đến với Lê Nin (thuyết minh phim, 1980)
Đường về Tổ quốc (thuyết minh phim, 1980).
Thời dựng Đảng (bút ký, 1984)
Từ Điện Biên Phủ đến 30 tháng 4 (bút ký, 1985)
Năng động thành phố Hồ Chí Minh (bút ký, 1990)

Trích đoạn
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

Đêm nay, anh đứng gác ở trại. Trăng ngàn và gió núi bao la khiến lòng anh man
mác nghĩ tới Trung thu và nghĩ tới các em... Trăng đêm nay sáng quá. Trăng đêm
mai còn sáng hơn. Anh mừng cho các em và nghĩ tới các em, nghĩ tới ngày mai của
các em, lòng anh bị kích thích, hăng hái, dạt dào. Anh nắm chắc lấy súng. Lúc này,
anh dám chấp cả một đại đội quân thù.
—Thép Mới , "Trung thu độc lập", Báo Cờ giải phóng

Giải thưởng





Hn chương Độc lập hạng nhì.
Bơng hoa trinh sát và Hoa pháo tép - giải thưởng thơ tuần báo Văn nghệ
1974 - 1975.
Những mẩu vụn bánh mì và Trước sân vườn nhà ta - giải thưởng thơ tuần
báo Văn nghệ 1990 - 1991.
Bờ ve ran (tập thơ) giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi, Hội Nhà văn
Việt Nam.

9. Tác giả Minh Huệ

Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Đức Thái
Sinh năm: 1924
Nơi sinh: Bến Thủy, Thành phố Vinh
Bút danh: Minh Huệ, Mai Quốc Minh, Nguyễn Thái
Thể loại: thơ, bút ký, tiểu thuyết, tiểu luận
Các tác phẩm:
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

*


Tiếng hát quê hương (1959)

*

Đất chiến hào, (1970)

*

Mùa xanh đến (1972)

*

Đêm nay Bác không ngủ (1985)

*

Rừng xưa rừng nay (1962)

*

Ngọn cờ Bến Thủy (truyện ký, 1974-1979)

*

Người mẹ và mùa xuân (truyện ký, 1981)

*

Phút bi kịch cuối cùng (1990)


*

Thưởng thức thơ viết về Bác Hồ (1992)

*

Dòng máu Việt Hoa (1954)

Tên khai sinh: Nguyễn Đức Thái, sinh ngày 3 tháng 10 năm 1927. Quê gốc: Bến
Thủy, thành phố Vinh. Nơi ở hiện nay: Phường Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tốt nghiệp đại học Văn. Hội viên
Hội Nhà văn Việt Nam (1957)
Minh Huệ tham gia Việt Minh (5-1945) và cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở
Nghệ An (8-1945). Hoạt động tuyên truyền, văn nghệ tuyên huấn, báo chí ở Nghệ
An, khu ủy khu Bốn và một số nơi. Hội trưởng Hội sáng tác Văn nghệ liên khu IV.
Trưởng Ban thơ, lý luận, phê bình; Văn học dịch Nhà xuất bản văn học. ủy viên ủy
ban hành chính kiêm Trưởng ty Văn hóa Nghệ An. Chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ
Tĩnh. ủy viên ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam
(1984-1991).
Tác phẩm đã xuất bản: Tiếng hát quê hương (thơ, 1959); Đất chiến hào, (thơ,
1970); Mùa xanh đến (thơ, 1972); Đêm nay Bác không ngủ (thơ, 1985); Rừng xưa
rừng nay (bút ký, 1962); Ngọn cờ Bến Thủy (truyện ký, 1974-1979); Người mẹ và
mùa xuân (truyện ký, 1981); Phút bi kịch cuối cùng (tiểu thuyết, 1990); Thưởng
thức thơ viết về Bác Hồ (tiểu luận, 1992).
Giải thưởng văn học: Giải nhất Chi hội văn nghệ kháng chiến khu Bốn và Sở
Thông tin tuyên truyền khu Bốn 1954 (thơ Dòng máu Việt Hoa). Giải thưởng
Nguyễn Du của Nghệ Tĩnh 1986 (tập thơ Đêm nay Bác khơng ngủ).

§ao Thi Sanh – Suu tam



Tich luy kien thuc van hoc

10. Tác giả Nguyến Tuân

Sơ lược tiểu sử
Nguyễn Tuân quê ở xã Nhân Mục (tên nơm là Mọc), thơn Thượng Đình, nay thuộc
phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia
đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp Trung học cơ
sở hiện nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên
Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ơng lại bị tù vì "xê dịch" qua biên
giới khơng có giấy phép[1] . Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ năm
1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng một
thời, Một chuyến đi... Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa vì gặp
gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành cơng, Nguyễn Tn nhiệt tình tham gia
cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.
Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút ký Sông Đà
(1960), một số tập ký chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và
hương vị đất nước.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp văn học phong
phú với những trang viết độc đáo và tài hoa. Năm 1996 ông được nhà nước Việt
Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I). [2]
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc


Tính cách









Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Ông yêu tha thiết tiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du,
Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những nhạc điệu hoặc đài của các lối
hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam
Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để
khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi
là "chủ nghĩa xê dịch" Lối sống tự do phóng túng của ơng khơng phù hợp
với chế độ thuộc địa (hai lần bị tù).
Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ơng cịn
am hiểu nhiều mơn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện
ảnh... Ơng cịn là một diễn viên kịch nói và là một diễn viên điện ảnh đầu
tiên ở Việt Nam. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật
khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn
chương.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là người sành ăn. Với ông, Ăn là một nghệ thuật, một
giá trị thẩm mỹ, một sự khám phá cái ngon mà tạo hóa đã ban cho.
Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình.
Đối với ơng, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ
hạnh" và ơng đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để

chứng minh cho quan niệm ấy
Sự nghiệp văn chương
Quá trình sáng tác và các đề tài chính

Nguyễn Tn khơng phải là nhà văn thành cơng ngay từ những tác phẩm đầu tay.
Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng.
Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành cơng
xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương,
Chiếc lư đồng mắt cua...
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề
tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc".
Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết "chủ nghiã xê dịch" này trong tâm trạng bất mãn
và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân lại có
dịp bày tỏ tấm lịng gắn bó tha thiết của ơng đối với cảnh sắc và phong vị của đất
nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngịi bút đầy trìu mến và tài hoa (Một
chuyến đi).
Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của q khứ
cịn "vang bóng một thời". Ơng mơ tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện
thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã
thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ
người tử tù).
Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này,
người ta thường thấy có một nhân vật "tơi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng
khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc,

phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt
cua).
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ơng chân thành đem ngịi bút phục vụ cuộc
chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân ln ln có ý thức phục vụ trên
cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc
đáo của mình. Ơng đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và
đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong
chiến đấu và sản xuất.
Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu
tóm trong một chữ "ngông"
Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài
hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được
quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
Trước Cách mạng tháng Tám, ơng đi tìm cái đẹp của thời xưa cịn vương sót lại và
ơng gọi là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ,
hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính,
vừa trẻ trung hiện đại.
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ông là nhà văn của những tính
cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh
tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội...
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ơng có nhiều phát
hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách
tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm
đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.

§ao Thi Sanh – Suu tam



Tich luy kien thuc van hoc

Nguyễn Tn cịn có đóng góp khơng nhỏ cho sự phát triển của ngơn ngữ văn học
Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tn có những thay đổi quan
trọng. Ơng vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ
thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ơng cịn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân dân
đại chúng. Cịn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc
hay những mặt tiêu cực của xã hội.
Những tác phẩm nổi tiếng






























Ngọn đèn dầu lạc (1939)
Vang bóng một thời (1940)
Một chuyến đi (1941)
Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
Tàn đèn dầu lạc (1941)
Một chuyến đi (1941)
Tùy bút (1941)
Thiếu q hương (1943)
Tóc chị Hồi (1943)
Tùy bút II (1943)
Nguyễn (1945)
Chùa Đàn (1946)
Đường vui (1949)
Tình chiến dịch (1950)
Thắng càn (1953)
Chú Giao làng Seo (1953)
Đi thăm Trung Hoa (1955)
Tùy bút kháng chiến (1955)
Tùy bút kháng chiến và hịa bình (1956)
Truyện một cái thuyền đất (1958)
Tùy bút Sông Đà (1960)

Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
Ký (1976)
Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981)
Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988)
Truyện Kiều (tiểu luận văn học)
Tú Xương
Yêu ngôn (2000, sau khi mất)

§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

11. Tác giả An-phông-xơ Đô-đê.

An-phông Alphonse Daudet là một văn sĩ Pháp vào thế kỷ thứ 19. Sanh tại Nime,
miền Nam nước Pháp vào ngày 13 tháng 5 năm 1840. Gia đình đã rời quê lên
Lyons khi xí nghiệp tơ vải của cha ơng bị suy sụp và phải đóng cửa. Ơng theo tiếp
tục bậc trung học tại đây nhờ một bổng, nhưng cuối cùng phải bỏ học hẳn khi cuộc
hôn nhân của bố mẹ đổ vỡ. Daudet theo chân anh là Ernest đến Paris và được
nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro. -xơ Đơ-đê
Ơng bắt đầu viết từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Daudet ra thi tập Những người
đàn bà đang yêu (Les Amoureuses, 1857) và được đón nhận ngay. Ðộc giả Pháp
đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết Thằng nhóc con (Le Petit Chose), gần
như là thiên hồi ký của thời niên thiếu đau khổ của chính mình mà đơi khi cũng
được ví với nhân vật trong tác phẩm David Copperfield của đại văn hào Charles
Dickens của Hoa Kỳ. Sau đó là tập thi tuyển Những lá thư từ cối xay của Tôi
(Lettres de Mon Moulin), bao gồm các bài thơ đề tặng cho Marie Rieu xuất bản
năm 1866. Ông đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng
Văn chương Pháp với quyển Fromont cháu trẻ và cụ Riler (1874) .

Ðơi với các phê bình gia thì trường thiên tiểu thuyết Tartarin vùng Tarascon
(1872) gồm ba quyển là tác phẩm quan trọng và đặc sắc nhất của Alphonse
Daudet. Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém,
qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ.
Ðó là các tác phẩm Những vị vua lưu vong, và Le Nabab, mô tả những nhà triệu
phú mới của thế hệ.
Văn phong của Daudet giản dị, nhưng lưu lại cho độc giả những cảm giác nhẹ
nhàng, lắng sâu với những câu chuyện kể như chuyện cổ tích, với các nhân vật mà
độc giả cảm thấy rất gần gũi. Thế nên các tác phẩm đầu đời của ông được liệt vào
khuynh hướng thiên nhiên, còn các tác phẩm sau thuộc vào trường phái hiện thực.
Ông diễn tả sự việc một cách xác thực, mà không yếm thế, hay có giọng văn mỉa
§ao Thi Sanh – Suu tam


Tich luy kien thuc van hoc

mai, tàn bạo như các đồng nghiệp cùng thời trước sự thay đổi quá nhanh của thời
cuộc. Tập truyện Những chuyện kể ngày thứ hai là tiêu biểu nhất về văn phong của
Alphonse Daudet. Ông mất năm 1897 tại Paris.
12. Tác giả I-li-a Ê-ren-bua

Tiểu sử
Ilia Grigor'evich Erenburg; sinh năm 1891 mất năm 1967, nhà văn Nga Xơ Viết,
nhà hoạt động xã hội. Ơng đã sống nhiều năm ở Pháp, Đức, Tây Ban Nha; làm
phóng viên trong chiến tranh; đại diện cho các nhà văn Liên Xơ tại các hội nghị
quốc tế bảo vệ hồ bình, văn hố, chống chủ nghĩa phát xít. Phó chủ tịch Hội đồng
Hồ bình Thế giới (1950), đại biểu Xơ Viết Tối cao Liên Xô (1950).
Các tác phẩm:
- Tiểu thuyết Khuliô Khurenitô (1922), Pari sụp đổ (1941) phê phán xã hội tư sản
Châu Âu và chiến tranh đế quốc.

- Tiểu thuyết Ngày hôm sau (1933) viết về cuộc sống trên đất nước Xô Viết, công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ca ngợi con người mới.
- Tiểu thuyết Bão táp (1946 - 47) viết về Chiến tranh thế giới II (1939 - 45).
Êrenbua cịn có nhiều tập thơ, tiểu luận, phê bình, chân dung văn học. Tập hồi kí
§ao Thi Sanh – Suu tam


×