Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

chuyên đề giảng dạy thơ đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.35 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM</b>
<b>Độc lập - Tự do – Hạnh phúc</b>


<b>Chuyên đề : GIẢNG DẠY THƠ ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG </b>



<b>TRUNG HỌC CƠ SỞ</b>



<b>I. ĐẶT VẤN ĐỀ:</b>


<b> </b>

Thơ Đường là thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc. Mọi phương diện
của nó đều đạt đến trình độ cao của văn học . Thi pháp thơ Đường tiêu biểu cho thi pháp
thơ cổ điển của Trung Quốc. Do đó nó rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc. Vì
vậy hiểu được nó một cách thấu đáo là một việc khó chưa nói đến việc giảng dạy như
thế nào để học sinh cảm thụ được. Tơi nghĩ đó là vấn đề mà giáo viên đứng lớp như
chúng tôi rất trăn trở. Với kiến thức hạn hẹp và với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo
đồng nghiệp tôi mạnh dạn đưa ra một số sáng kiến muốn trao đổi về phương pháp giảng
dạy thơ Đường.


Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm nhận
thức, tâm tư, .. của con người đời Đường một cách sâu sắc. Nội dung phong phú được
thể hiện bằng hình thức thơ hồn mỹ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường
đều đạt đến đỉnh cao. Thơ Đường là sự kế thừa và phát triển cao độ thơ ca cổ điển Trung
Quốc. Nó là tập “Đại thành” cho nên những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của
Trung Quốc rất tiêu biểu.


Thơ Đường rất phong phú cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Để cảm thụ và truyền đạt hết
cái hay, cái đẹp của thơ Đường là một điều khó. Vì vậy, qua sáng kiến này, tơi xin trình


bày một vài suy nghĩ của cá nhân về : “

Giảng dạy thơ đường ở trường


trung học cơ sở

”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>1. Tính mới của chun đề: Bộ phận văn học nước ngồi nói chung và thơ Đường</b>
nói riêng ở trường THCS là một mảng khó dạy đối với giáo viên. Ở trường ĐH việc
giảng dạy được chun mơn hố cao độ, mỗi người chỉ tập trung nghiên cứu một bộ
phận văn học( Ví dụ: Văn học nước ngồi, văn học Việt Nam,…), thậm chí là một giai
đoạn của bộ phận văn học đó nên có điều kiện đi sâu nắm bắt được nội dung phương
pháp giảng dạy.


Trong khi đó ở các trường THCS - chúng tôi những người giáo viên Ngữ văn thực
hiện giảng dạy theo phân phối chương trình bao gồm cả văn học Việt Nam lẫn văn học
nước ngoài, mà đặc biệt là thơ Đường, vì vậy sẽ cịn nhiều lúng túng khi giảng dạy cho
học sinh. Hàng rào ngôn ngữ đã là một trở ngại, chương trình Ngữ văn THCS trong
những năm gần đây có nhiều đổi mới qua đợt cải cách giáo dục, phân mơn Văn học có
nhiều bài khó, kiến thức mới mẻ nhưng chỉ dạy trong một tiết, thậm chí hai bài dạy chỉ
trong một tiết...Bởi vậy, để học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng cơ bản theo
Chuẩn kiến thức - Kĩ năng là một điều khó khăn.


Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đã nêu trên và đáp ứng yêu cầu
giảng dạy, giáo viên phải tìm hiểu bổ sung thêm kiến thức từ các sách nghiên cứu, đổi
mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá, đề xuất nhứng sáng kiến hay,
kinh nghiệm quý, mạnh dạn thể nghiệm các chuyên đề để cùng nhau thống nhất đưa ra
những phương pháp dạy học hiệu quả, đồng thời đi sâu vào bài giảng để soạn giáo án và
giảng dạy hướng dẫn học sinh học tập được tốt hơn.


<b>2. Cách thức thực hiện: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

ta vẫn hiểu được tiếng nói của người xưa và vẫn rung cảm trước những tâm hồn cao
đẹp.


Việc đưa thơ Đường vào chương trình dạy học ở trường phổ thơng cơ sở không
phải là vấn đề mới lạ với chúng ta. Song cái mói mà chúng ta thấy được đối tượng tiếp


nhận.


Sách giáo khoa Ngữ văn chương trình giáo dục phổ thơng đã đưa vào chương trình
một lượng khơng nhiều những tác phẩm thơ Đường tiêu biểu, song tiếp nhận thơ Đường
đối với lứa tuổi trung học cơ sở, nhất là đối với học sinh lớp 7 là điều không hề đơn
giản. Bởi thơ Đường vốn rất hàm súc, nói ít gợi, “ý tại ngơn ngoại”, vừa có tính ước lệ,
cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Chính vì vậy người
giáo viên muốn dạy một tiết thơ Đường thành công cần phải có kiến thức chắc chắn,
một sự am hiểu sâu sắc, đặc biệt là một phương pháp giảng dạy phù hợp để giúp các em
cảm nhận được thơ Đường - một thành tựu của thơ ca nhân loại.


<b>3. Các bước thực hiện:</b>


<i><b>3.1. Dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt, đối chiếu dịch nghĩa, dịch thơ với </b></i>
<i><b>phiên âm:</b></i>


Để giúp các em hiểu được văn bản, phân tích và cảm thụ văn bản thì giáo viên giúp
học sinh dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt. Hiểu nghĩa từng chữ trong nguyên bản,
sau đó dịch nghĩa từng câu. Từ đó cho học sinh đối chiếu bản phiên âm dịch nghĩa và
dịch thơ. Như vậy học sinh sẽ tích luỹ được vốn Hán - Việt,hiểu được nghĩa gốc cũng là
điều kiện để xuất phát khám phá ra nội dung bên trong.


Chẳng hạn khi phân tích bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” của Lí Bạch.


“Nhật chiếu Hương Lơ sinh tử n


Dao khan bộc bố quải tiền xuyên”


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Xa trônng dịng thác trước sơng này)



Qua sự đối chiếu, giáo viên cho học sinh thấy được bản dịch thơ chưa sát nghĩa. Ở
câu một đã bỏ mất từ “sinh” làm cho quan hệ nhân quả của câu thơ trở nên mờ nhạt đi,
làm cho tính chất gợi cảm khơng cịn. Núi Hương Lô được mặt trời chiếu sáng làm nảy
sinh làn khói tía, là một cảnh tượng hùng vĩ, rực rỡ và lộng lẫy. Với động từ “sinh” này
dường như khi ánh mặt trời xuất hiện thì mọi vật sinh sôi nảy nở.


Ở câu hai, bản dịch thơ bỏ mất từ “quải”(treo) nên ấn tượng cho hình ảnh dịng
thác gợi ra trở nên mờ nhạt và ảo giác về dải Ngân hà ở câu cuối cũng trở nên thiếu cơ
sở.


Nếu dịch được từ “quải” thì sẽ làm cho dịng thác trở nên sinh động hơn rất nhiều.


Nhưng ở bài “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch


“Sáng tiền minh nguyệt quang


Nghi thị địa thượng sương”


(Đầu giường ánh trăng rọi


Ngỡ mặc đất phủ sương)


thì hai câu đầu nguyên văn chỉ có một động từ “nghi”(ngỡ) nhưng trong bản dịch
thơ lại thêm hai động từ “rọi” và “phủ” làm cho chủ thể trữ tình bị mờ nhạt nên nhiều
người lầm tưởng hai câu đầu chỉ chủ yếu là thuần tuý tả cảnh…


<i><b>3.2. Giới thiệu kỹ thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời cuả tác phẩm:</b></i>


Phân tích thơ trước hết phải bám vào ngơn từ của tác phẩm, tuy nhiên có nhiều
trường hợp hiểu thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm có thể giúp ích rất


nhiều trong việc phân tích, cảm thụ cũng như xác định ý nghĩa giá trị của tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

thơ ở Thành Đô ( Tứ Xuyên ). Bài thơ sáng tác năm 760 sau khi căn nhà nhỏ của ông bị
gió thu phá nát. Từ hiện thực cuộc sống mà chính Đỗ Phủ là người trải nghiệm, nhà thơ
đã khắc họa bức tranh hiện thực cuộc sống của những người nghèo khổ và cảm thơng
sâu sắc, thấm thía nỗi thống khổ của người nghèo.


Trong tác phẩm “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương. Ông đậu tiến sĩ, làm
quan trên 50 năm dưới triều vua Đường Huyền Tông . Từ lúc trai trẻ đến năm 744 (tức
là 86 tuổi ), ông mới cáo quan trở về quê hương trong sự lưu lưyến của vua và bạn bè ở
kinh thành. Với nhan đề “Ngẫu thư” (ngẫu nhiên viết) tức là tác giả không chủ định làm
thơ ngay lúc đặt chân đến q nhà, khơng chủ đích viết nhưng sao lại viết, bởi vì ở cuối
bài thơ tác giả đã bị bọn trẻ làng gọi là là “khách”. Đó là “cú sốc” với tác giả nhưng lại
là duyên cớ để tác giả viết bài thơ này. Ẩn đằng sau dun cớ đó là tình cảm u q
hương ln thường trực và bất cứ lúc nào cũng được thổ lộ.


Hoặc với nhà thơ Lí Bạch, giáo viên dẫn dắt giới thiệu: Ơng là người thơng minh, biết
làm thơ từ thưở nhỏ, giao du rộng rãi, thạo kiếm thuật. Từ trẻ ơng đã xa gia đình đi du
ngoạn tìm đường lập cơng danh sự nghiệp. Chính vì điều đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ
đến phong cách thơ của ơng: một tâm hồn phóng khống, tự do, hình ảnh thơ tươi sáng
kỳ vĩ.


<i><b>3.3. Chọn lọc một số chi tiết để phân tích và bình giá:</b></i>


Khi phân tích nên chọn một số chi tiết để bình giá và nâng cao


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Phân tích sự thành cơng của tác giả trong việc dùng từ “ nghi ” (ngỡ), “ lạc ” (rơi
xuống) và hình ảnh của dải Ngân hà. “ Ngỡ ” là biết sự thật không phải vậy (làm sao
vừa có cả mặt trời lại vừa có cả dịng Ngân hà) mà vẫn tin là có thật. Chữ “lạc” cũng
dùng rất đắt vì dịng Ngân hà vốn nằm theo chiều vắt ngang qua bầu trời, còn dòng thác


lại đổ theo chiều thẳng đứng.


Hoặc trong bài “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương cần phân tích kỹ câu “
Hương âm vô cải mấn mao tồi ” (tiếng nói khơng thay đổi, tóc mai đã rụng) và nghệ
thuật đối. Nói cái thay đổi và cái khơng đổi để khẳng định sự bền bỉ, chung thuỷ trong
tình cảm của con người đối với quê hương. Và cũng cần phân tích kĩ tình huống khi trở
về nơi “chơn nhau cắt rốn” lại bị gọi là “khách từ đâu đến” để thấy được tâm trạng của
nhà thơ


<i><b>3.4. So sánh đối chiếu văn bản với các thi liệu thơ phương Đông.</b></i>


Đơn cử trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố”, khi phân tích câu một làm khung nền
cho bức tranh toàn cảnh, trước khi miêu tả vẻ đẹp của dòng thác nước, nên so sánh đối
chiếu với hai câu thơ của nhà sư Tuệ Viên (trước Lí Bạch 300 năm): “Khí bao trùm lên
Hương Lơ mịt mù như sương khói”. Cái mới của Lí Bạch là miêu tả vẻ đẹp của dịng
Hương Lơ dưới những tia nắng mặt trời, làn hơi nước phản quang, ánh sáng mặt trời
chuyển thành một màu tím vừa rực rỡ vừa kỳ ảo. Sự thật hơi khói đã có từ trước, tồn tại
thường xuyên song dưới ngịi bút của Lí Bạch, với động từ : “sinh” đã làm cho khung
cảnh trở nên huyền ảo


Hoặc có thể so sánh với các bài thơ khác có chủ đề phổ biến “Vọng nguyệt hồi
hương”như của Đỗ Phủ:


<i>“Lộ tòng kim dạ bạch</i>


<i>Nguyệt thị cố hương minh”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Trăng là ánh sáng của quê nhà)


Bạch Cư Dị:



<i>“Cơng khang mình nguyệt ưng thuỳ lệ</i>


<i>Nhất phiến hương tâm ngũ xứ đồng”</i>


( Xem trăng sáng có lẽ cùng rơi lệ


Một mảnh tình quê , năm anh em ở năm nơi đều giống nhau)


<i><b>3.5. Luôn đặt bài thơ trong bối cảnh lịch sử để giúp học sinh cảm nhận được các </b></i>
<i><b>tầng ý nghĩa của bài thơ, phần được coi là “ ý tại ngơn ngoại ” của thơ Đường:</b></i>


Ví dụ: Khi giảng dạy bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ phải đặt
bài thơ vào trong bối cảnh lịch sử Trung Quốc lúc bấy giờ: Loạn An Lộc Sơn đã tàn phá
xã hội Trung Quốc. Vua Huyền Tơng nhà Đường buộc phải thối vị, bỏ kinh đô tháo
chạy. Trên khắp lãnh thổ Trung Quốc đâu đâu cũng có chiên tranh , loạn lạc, nạn đói
xảy ra liên tiếp, người chết đầy đường, nhân dân lâm vào cảnh lầm than, khốn cùng.
Trong thời gian này, Đỗ Phủ trải qua một cuộc sống trôi nổi, khơng thể định cư lâu dài ở
đâu vì chiên tranh cũng như nạn đói và sự bạc đãi của triều đình. Năm 760 ơng và gia
đình tới Thành Đơ ( Tứ Xuyên ) cũng tại đây, ngôi nhà tranh do bạ bè dựng lên cho ơng
và gia đình ở tạm đã bị gió thu phá nát. Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ và những gì diễn ra
trong lịng xã hội lúc đó đã được nhà thơ chừng kiến, trải nghiệm bằng chính cuộc sống
của mình đã ảnh hưởng rất nhiều tới thơ của ông.


Qua bối cảnh lịch sử đó, học sinh sẽ hiểu sâu sắc hơn giá trị hiện thực cũng như giá
trị nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm qua bài thơ.


<b>III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA CHUYÊN ĐỀ: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

phần giảm bớt tỉ lệ học sinh yếu – kém đồng thời nâng cao tỉ lệ học sinh khá – giỏi


cho môn Ngữ Văn trong nhà trường.


<b>IV. HIỆU QUẢ CỦA CHUYÊN ĐỀ:</b>


Qua thực tế dạy học ở các lớp, thông qua những bài thơ Đường, nó đã góp
phần hình thành ở con người niềm trân trọng, mến yêu những vẻ đẹp dịu dàng,
trong sáng, những khát vọng vươn tới lý tưởng, tình yêu q hương đất nước, u
hồ bình, u thiên nhiên, u cái đẹp, đồng thời qua thơ Đường giúp con người
biết cảm thông trước những đau khổ của đồng loại, biết phẫn nộ trước những điều
phi nghĩa bất công. Bởi vậy, học và đọc thơ Đường chúng ta càng cảm thấy thú vị.
Văn học nghệ thuật nói chung, thơ Đường nói riêng đã góp phần hình thành tính
nhân văn của con người.


<b>NGƯỜI VIẾT</b>


Nguyễn Thị Kim Phượng


</div>

<!--links-->

×