Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tieu luan học thuyết chính trị xã hội của nho gia và ý nghĩa của nố đối với việc xây dựng xã hội việt nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.31 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................................2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN...................................................................................................................................3
1. Phạm trù thực tiễn.................................................................................................................................3
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức...............................................................................................3
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.............................................................................................................................4
III. THỰC TRẠNG NHO GIA VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN............................................................................................................................................................4
1. Tác giả và tác phẩm chính của Nho gia...............................................................................................4
1.1 Tứ thư....................................................................................................................................................5
1.2 Ngũ kinh................................................................................................................................................6
2. Quan điểm chính trị, xã hội của Nho gia.............................................................................................7
2.1 Quan điểm chính trị..............................................................................................................................7
2.1 Quan điểm xã hội................................................................................................................................11
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY NHỮNG ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN
CHẾ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA NHO GIA ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................................................20
1. Những giải pháp về giáo dục..............................................................................................................20
2. Những giải pháp đối với những người hiền tài.................................................................................21
3. Những giải pháp nâng cao tính tự giác của mỗi người nhằm thực hiện “chính danh”.....................21
KẾT LUẬN...............................................................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU..........................................................................................................................23


LỜI MỞ ĐẦU

Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị - xã hội xuất hiện ở Trung
Quốc và đã có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm. Trong suốt quá trình hình
thành và phát triển của xã hội phong kiến (XHPK) Việt Nam, đặc biệt từ thế
kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp


nhận và chủ yếu sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng và công cụ để trị nước,
đào tạo ra những con người phù hợp với yêu cầu và mục đích của giai cấp
phong kiến (GCPK) thống trị. Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã
hội, là ý thức hệ và công cụ thống trị của các triều đại phong kiến Việt Nam,
Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống
xã hội và con người Việt Nam, đến quá trình hình thành, phát triển của xã hội
và CĐPK Việt Nam. Bởi vậy mà như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, Nho
giáo là một bộ phận cốt lõi của di sản truyền thống dân tộc.
Hơn một thập kỷ trở lại đây, trước những biến động hết sức phức tạp của
đời sống xã hội, không chỉ ở nước ngồi, trong giới nghiên cứu Việt Nam đã
có xu hướng đặt lại, nghiên cứu trở lại vấn đề Nho giáo trên tinh thần phê
phán nhằm gạn lọc, tiếp thu những nhân tố hợp lý, những giá trị chung của
Nho giáo. Đã có nhiều ý kiến, kết luận trong nhiều bài viết, chun luận và
cơng trình nghiên cứu về sự thể hiện của Nho giáo ở Việt Nam trong lịch sử
và hiện nay. Có nguời cho rằng, mọi hiện tượng tiêu cực của xã hội; đạo đức
nhân luân bị xuống cấp, bị xói mịn; kỷ cương, nề nếp từ trong gia đình đến
ngồi xã hội khơng được tơn trọng... là do đã có một thời chúng ta phê phán,
bài xích Nho giáo. Cũng có người cho rằng, để thúc đẩy xã hội Việt Nam phát
triển cần phải áp dụng triệt để công thức: kỹ thuật, công nghệ phương Tây với
Nho giáo và mơ hình quản lý xã hội ở những nước phát triển có truyền thống
Nho giáo.
Rõ ràng, việc nhìn nhận, đánh giá về sự thể hiện của Nho giáo ở Việt
Nam trong lịch sử và hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách đối với
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước ta hiện nay. Bởi vì có có


như vậy mới góp phần giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại - một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của
xã hội Việt Nam ngày nay. Để thực hiện nhiệm vụ hết sức phức tạp và khó
khăn này, theo chúng tơi, một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận là phải có

thái độ biện chứng, khách quan, tồn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể trong
việc nghiên cứu Nho giáo, cũng như sự thể hiện của nó trong xã hội và con
người Việt Nam trong lịch sử.
Có thể nói, từ khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã được các triều đại
phong kiến và các tầng lớp người Việt Nam tiếp nhận chủ yếu từ phương diện
học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức. Và ngay cả ở phương diện này thì phạm
vi, tính chất, mức độ tiếp nhận cũng khác nhau ở mỗi triều đại phong kiến và
trong từng giai đoạn phát triển của CĐPK. Sở dĩ như vậy, xét đến cùng là do
điều kiện kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển của CĐPK Việt Nam trong mỗi
giai đoạn quy định và nhu cầu cai trị, quản lý xã hội của các triều đại phong
kiến thống trị ở mỗi giai đoạn ấy chi phối. Tất nhiên chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam truyền thống là nhân tố chủ yếu, có tính quyết định về phạm vi, mức độ
và tính chất của sự tiếp nhận này. Chính vì vậy mà, Nho giáo được du nhập,
tồn tại ở Việt Nam khơng hồn tồn là Nho giáo Trung Quốc , không được
tiếp nhận với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh, mà chỉ được tiếp nhận từng
mảng, tiếp nhận trên cơ sở có chọn lọc, có biến đổi và đơn giản hố nhằm
phục vụ những nhiệm vụ chính trị thực tiễn của GCPK và dân tộc. Điều này
dễ nhận thấy khi nghiên cứu sự thể hiện của Nho giáo ở Việt Nam từ thế kỷ XI
đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Nghiên cứu về sự thể hiện của Nho giáo ở Việt Nam thời phong kiến, từ
trước đến nay, đã có khơng ít cơng trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, các cơng trình nghiên cứu đó chưa cho
chúng ta một cái nhìn khái qt, tồn diện và hệ thống về Nho giáo trong
XHPK Việt Nam, đặc biệt là từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Chính vì vậy mà chúng tôi cho rằng, vấn đề trên cần phải tiếp tục nghiên
cứu thêm trong luận án này. Chúng tơi lựa chọn vấn đề: Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa
đầu thế kỷ XIX) làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án cũng chỉ hy
vọng góp phần làm sáng tỏ thêm sự thể hiện của Nho giáo trong thời gian đó.



Sự lựa chọn này, theo chúng tơi là bởi vì, đây là một thời kỳ mà Nho giáo với
tư cách là học thuyết chính trị - xã hội đã in đậm dấu ấn của nó trong tiến
trình vận động, phát triển của XHPK và bộc lộ tất cả những mặt, những yếu tố
tích cực và tiêu cực của nó.
Sự thể hiện của Nho giáo ở nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của xã hội và con
người Việt Nam trong lịch sử, như các lĩnh vực: Thế giới quan, chính trị - xã
hội, đạo đức, văn hoá, giáo dục - khoa cử, phong tục tập quán, tín ngưỡng
v.v... Tuy nhiên, với yêu cầu và khuôn khổ của luận án cho phép, chúng tôi
chỉ nghiên cứu Nho giáo chủ yếu với tư cách là một học thuyết chính trị - xã
hội, được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp nhận và sử dụng làm hệ tư
tưởng, công cụ cai trị và quản lý xã hội, trong việc thực hiện những nhiệm vụ
chính trị thực tiễn đặt ra cho các triều đại phong kiến và dân tộc. Cũng chính
vì vậy mà học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo là căn cứ chủ yếu để hình
thành đường lối Đức trị, xây dựng và thực thi pháp luật, kiến tạo và triển khai
nền giáo dục - khoa cử Nho học. Và vì thế mà theo thời gian, Nho giáo không
chỉ ảnh hưởng và có vai trị trong các lĩnh vực chủ yếu này của đời sống xã
hội và con người Việt Nam mà ngày càng trở thành công cụ tinh thần của các
triều đại phong kiến Việt Nam, đã thực sự đóng một vai trị nhất định trong sự
hình thành, phát triển của CĐPK Việt Nam.
Từ những ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn của Nho gia như vậy, em xin mạnh dạn
chọn đề tài: “ Học thuyết chính trị - xã hội của Nho gia và ý nghĩa của nố đối với
việc xây dựng xã hội Việt Nam ngày nay” để thực hiện bài tiểu luận của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo ……………… đã có những bài giảng rất
sâu sắc về bộ mơn triết học nói chung và về Nho gia nói riêng, để qua đó em có thể
thực hiện được bài tiểu luận của mình. Do kiến thức và thời gian hạn hẹp, bài tiểu luận
khó tránh khỏi những sai sót, rất mong thầy chỉ bảo thêm cho em để bài tiểu luận được
hoàn thiện hơn.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Phạm trù thực tiễn
4



Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất có tính lịch
sử xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên, xã hội.
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn có hai chức năng quan trọng: chuyển cái tinh thần thành cái vật chất: khách
quan hóa chủ quan; chuyển cái vật chất thành cái tinh thần: chủ quan hóa khách quan.
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức: Nhận thức ngay từ đầu đã xuất phát từ
thực tiễn, do thực tiễn quy định. Chính do yêu cầu sản xuất vật chất và đấu tranh cải tạo xã
hội buộc con người phải nhận thức thế giới. Nhờ có thực tiễn mà con người nhận thức ngày
càng sâu sắc đầy đủ thế giới xung quanh. Thực tiễn làm cho giác quan của con người phát
triển ngày càng hoàn thiện. Thực tiễn tạo ra những công cụ phương tiện hiện đại giúp cho
năng suất lao động tăng lên, khoa học không ngừng phát triển như kính hiển vi, vi tính, tàu
vũ trụ v.v..Ăngghen nói: “Từ trước tới nay khoa học tự nhiên cũng như tự nhiên hoàn toàn
coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai mơn ấy một mặt
chỉ biết có tự nhiên, một mặt chỉ biết có tư tưởng, nhưng chính người ta biến đổi tự nhiên…
là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ con người đã phát triển
song song với việc người ta học cải biến tự nhiên”.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: những tri thức khoa học chỉ đúng khi
chúng được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là
bản thân tri thức, mà là để cải tạo tự nhiên, xã hội đáp ứng cho nhu cầu của con người.
Thực tiễn nêu ra những vấn đề cho nhận thức hướng tới giải đáp, nhờ đó các ngành
khoa học ngày càng phát triển. Thực tiễn cũng tạo ra những phương tiện cần thiết giúp
cho việc nghiên cứu khoa học, đem lại những tài liệu, dữ kiện giúp tổng kết, khái quát
hình thành lý luận
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tri thức, là tiêu chuẩn của chân lý. Chỉ có thể
đem những tri thức thu nhận được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới thấy rõ tính sai lầm
hay đúng đắn của chúng. Lênin nói: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN


5


Những tư tưởng triết học của Nho gia có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các
nhà tư tưởng lỗi lạc trong lịch sử Việt nam như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thời Nhậm
và nhiều nhà tư tưởng khác. Nhiều tư tưởng tiến bộ trong các quan điểm về chính trị,
đạo đức của Nho gia đã được các nhà tư tưởng Việt Nam kế thừa theo tinh thần thực
tiễn của dân tộc. Đó là tư tưởng thân dân, trọng dân, coi dân là gốc của quốc gia; đó là
tư tưởng nhân, nghĩa trong đời sống chính trị - xã hội; đó là mỗi quan hệ biện chứng
song trùng giữa vua – tơi, cha – con, chồng – vợ; đó là các phạm trù đạo đức trung,
hiếu, tiết, nghĩa v.v…
Trong khi kế thừa và sử dụng các tư tưởng tiến bộ đó, các nhà tư tưởng Việt
Nam đã bổ sung và làm thay đổi các nội hàm một số khái niệm vốn có của Nho gia. Do
vậy, các tư tưởng của Nho gia, đặc biệt là các tư tưởng chính trị, xã hội có ảnh hưởng
nhiều tới đời sống xã hội Việt Nam, kể cả trong quá trình xây dựng xã hội mới hiện
nay, các tư tưởng này của Nho gia cũng có những giá trị nhất định.
III. THỰC TRẠNG NHO GIA VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN
1. Tác giả và tác phẩm chính của Nho gia
Nho gia (hay còn gọi là Nho học) là một trong chín hệ thống đặc biệt của triết
học Trung Hoa, là khoa học giáo dục do Đức Khổng Tử ( được mệnh danh là vạn thế
sư biểu) sáng lập, sau đó được phát triển bởi Mạnh Tử theo hướng duy tâm, Tuân Tử
phát triển các tư tưởng của Khổng Tử theo hướng duy vật.
Thời Tây Chu, có một chức quan coi việc lễ - nhạc gọi là Nho quan. Đến thời
Đông Chu, học thuyết Khổng Tử ra đời rất coi trọng lễ - nhạc nên gọi là Nho học. Hơn
hai thế kỷ sau khi Khổng Tử qua đời, Nho học mới chính thức được phổ biến, áp dụng
rộng rãi, từ thời nhà Hán (206 trước Công nguyên – 220 Công nguyên) kéo dài đến nhà
Thanh. Qua mỗi thời đại lại có các nhà nho nổi tiếng biên soạn gia giảm, chú giải, bàn
luận…Tất cả các tác gia ấy được gọi chung là bậc thánh hiền, trong đó Khổng Tử là

đại thánh, Mạnh Tử là á thánh ( hai vị thánh đứng đầu Nho gia).
Thời Xuân Thu, Đức Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
6


sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau
khi Đức Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ.
Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy
mà soạn ra Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư
viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau
này học trị của ơng chép thành sách Mạnh Tử. Như vậy, các tác phẩm chính của Nho
gia gồm hai bộ sách cơ bản là Tứ thư và Ngũ kinh.
1.1 Tứ thư
Luận ngữ: được coi là thánh kinh của người Trung Hoa, là then chốt trong Tứ
thư bởi nó có khả năng bao quát hầu hết Tứ thư, lại miêu tả được những hằng số của
con người một cách độc đáo, sinh động và còn hứa hẹn sức sống mãi về sau. Nội dung
Luận ngữ tập trung vào rèn luyện phẩm cách cá nhân và còn giữ gần nguyên vẹn giá trị
nhân văn cơ bản thời hiện đại. Luận ngữ là sách tóm lược những bài giảng, các buổi
học và thuật lại nhiều sự việc , nét sinh hoạt của thầy trò Khổng Tử. Sách gồm 20 thiên
( tương đương 20 chương), mỗi thiên gồm nhiều bài. Cách đặt tên thiên: lấy hai chữ
xuất hiện đầu thiên làm tựa đề. Mỗi thiên có nhiều bài (mỗi bài có thể chỉ là một câu
nói, một đối thoại hoặc một câu chuyện rất ngắn). Tồn bộ Luận ngữ có 511 bài, chỉ là
511 câu nói, đối thoại, mẩu chuyện cực ngắn. Nội dung bao trùm hầu hết những quan
niệm về lễ, nhân, đức, trung, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm, âm nhạc, văn chương, hội họa,
những tình huống đối nhân xử thế đa dạng trong cuộc sống cho đến việc giải trí, nghỉ
ngơi, ăn uống.
Đại học: nghĩa là học vấn uyên bác, tinh sâu. Nội dung chính là nói về đạo của
người quân tử. Đại học có 11 chương, chương đầu tiên là Thánh kinh là ý của Khổng
Tử do Tăng Tử truyền bằng miệng, cịn 10 chương sau giải thích chương đầu tiên do

học trò của Tăng Tử ghi chép lại bài giảng của Tăng Tử. Xuyên suốt Đại học là tư
tưởng “Trị quốc bình thiên hạ” được Nho gia đề ra với cương lĩnh Tam Cương, Bát
Mục. Tam Cương: Minh minh đức (phát huy cái đức sáng/ làm sáng/ dựng đức trị); Tân
dân (đổi mới dân chúng theo hướng đạo đức Nho gia); Chỉ ư chí thiện (chỉ làm việc
thiện). Bát mục (8 bước thực hiện ba cương lĩnh trên): Cách vật (nghiên cứu thấu đáo
7


sự vật); Trí tri (có kiến thức rõ rệt, hiểu biết sâu sắc, đến cùng); Thành ý (lòng chân
thành), thành thật ngay với mình, khơng giả dối tạm bợ); Chính tâm (giữ lòng ngay dạ
thẳng khi tu dưỡng) gần với “thiền”; Tu thân (học làm quân tử: sửa mình làm người
tốt); Tề gia (xây dựng gia đình tốt, hài hịa cân đối); Trị quốc (làm quan chức tốt); Bình
thiên hạ (lãnh đạo thiên hạ thái bình/ làm thế nào chinh phục thiên hạ/ hội nhập quốc
tế).
Trung dung: Mục đích của sách Trung dung là theo đạo có thể giúp chúng ta
đạt được một trình độ cao của đạo đức. Trong sách Trung Dung, Ngũ Tử Tư dẫn những
lời của Khổng Tử nói về “ đạo trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc
làm luôn luôn ở mức trung hịa, khơng thái q, khơng bất cập và phải cố gắng ở đời
theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Sách Trung dung chia làm hai phần. Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần
chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy học trị về đạo lý trung dung, phải làm sao cho
tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát, gồm đủ nhân , nghĩa, lễ, trí, tín, cho hịa với mn vật,
cho hợp với lịng Trời để thành người tài giỏi. Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là
phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ nghĩa và giá trị của hai
chữ “ trung dung”.
1.2 Ngũ kinh
Kinh thi: là một bộ tổng tập thơ ca vô danh, với nội dung rất phong phú, phản
ánh cuộc sống xã hội Trung Quốc trong một thời gian dài từ đầu thời Tây Chu (thế kỷ
XI trước công nguyên) đến giữa thời Xuân Thu (thế kỷ VI trước công nguyên), nhiều
nhất là những miêu tả những sinh hoạt dân gian, tâm tư và tình cảm con người đương

thời. Kinh thi gồm 305 bài thơ chia làm ba bộ phận lớn là Phong, Nhã và Tụng. Quốc
Phong có 160 bài, là những bài thơ dân gian của 15 địa phương ở phía bắc sơng Hồng
Hà: Chu Nam, Thiệu Nam, Bội, Dung, Vệ ,Vương, Trịnh, Tề, Ngụy, Đường, Tần, Trần,
Cối, Tào, Mân. Nhã: chỉ các loại ca khúc, có 105 bài, chia làm hai phần Tiểu Nhã và
Đại Nhã. Tụng: có 40 bài chuyên về tán tụng vương triều.
Kinh thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng
Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như
8


Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt Trụ. Kinh thư bao gồm Ngu thư ( ghi chép
về đời Nghiêu Thuấn, Hạ thư (ghi chép về nhà Hạ), Thương thư (ghi chép về nhà
Thương) và Chu thư (ghi chép về nhà Chu).
Kinh lễ: ghi lại những nghi thức, những phong tục Trung Hoa, những khuôn
mẫu của các quan hệ giống như những bộ luật, trong đó có một chương nói đến âm
nhạc. Toàn bộ Kinh lễ được viết bằng tản văn, không chỉ miêu tả chế độ lễ nghi đương
thời mà cịn giáo dục về nhân nghĩa, đạo đức, ngồi ra có giá trị văn học rất lớn. Khổng
Tử hiệu đính lại Kinh lễ mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự.
Khổng Tử nói: “Khơng học Kinh Lễ thì khơng biết đi đứng ở đời”.
Kinh dịch: ban đầu Kinh dịch được coi là một hệ thống để bói tốn, nhưng sau
đó được phát triển dần lên, cho tới nay Kinh dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm
diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á đông và được coi là
tinh hoa của cổ học Trung Hoa, nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống
như thiên văn, địa lý, nhân mệnh…
Kinh Xuân Thu: là bộ biên niên nước Lỗ viết về giai đoạn từ năm 722 TCN tới
năm 481 TCN, cuốn sách tập trung ghi chép vào các quan hệ ngoại giao giữa các nước
chư hầu phong kiến, các liên minh và các hành động quân sự, cũng như những sự kiện
sinh tử bên trong gia đình hồng gia. Cuốn biên niên sử cũng ghi chép về các sự kiện
thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, động đất, nạn châu chấu và nhật thực, bởi vì những sự
kiện đó được xem là phản ánh sự ảnh hưởng của trời đối với xã hội loài người.

2. Quan điểm chính trị, xã hội của Nho gia
2.1 Quan điểm chính trị
Bản chất chính trị là những quan hệ giai cấp, mở rộng thành quan hệ giữa các
dân tộc, các quốc gia về các vấn đề quản lý xã hội, và vấn đề bảo vệ lãnh thổ. Xuất
phát của hoạt động chính trị là hoạt động đấu tranh giai cấp.
Các nhà Nho chia xã hội thành hai tầng lớp quan lại và dân thường. Để thực hiện
chính trị cần thực hiện các thuyết: thuyết chính danh, thuyết thượng hiền, thuyết tiết kiệm.
Thuyết chính danh: trong thời đại của mình Khổng Tử nhận thấy tình trạng rối
ren phức tạp của xã hội phong kiến thời Chu, một xã hội mà tôn ti trật tự bị đảo lộn.
9


Ông lấy làm tiếc thời đầu nhà Chu như Chu Vị Cương, Chu Cơng …tươi đẹp, phong
hóa tươi tốt, ơng nhìn thấy tình cảnh “ tơi thí vua, con giết cha không phải một sớm
một chiều”. Mọi sự việc, nguyên nhân đều có cái cớ của nó, mà cái cớ này khơng tự
dưng có mà nó được tích tập dần dần qua thời gian, để đến một lúc nào đó dẫn tới tình
trạng hỗn loạn trên. Nhưng với bản tính ơn hịa, thích giáo huấn dần dần hơn là bạo
lực, mà bạo lực chưa chắc giải quyết được triệt để cái tệ “tơi giết vua, con giết cha” nói
trên mà bất quá chỉ thay thế cuộc thí quân này bằng cuộc thí quân khác hoặc vụ giết
cha này bằng vụ giết cha khác, nên Khổng Tử mới đề ra học thuyết chính danh nhằm
để cải tạo xã hội, giáo hóa xã hội dần dần.
Ông cho rằng, xã hội bị rối loạn vì vua khơng làm đúng danh hiệu vua, tơi
khơng làm đúng danh hiệu tơi…ơng đưa ra học thuyết “Chính danh định phận” làm căn
bản cho việc trị quốc. “Chính Danh” là danh (tên gọi, chức vụ, địa vị, thứ bậc) và thực
(phận sự, nghĩa vụ, quyền lợi) phải phù hợp với nhau.. Khổng Tử cho rằng, mỗi vật,
mỗi người sinh ra đều có một địa vị, cơng dụng nhất định, ứng với mỗi địa vị cơng
dụng đó là “danh” nhất định. Vật nào, người nào trong thực tại đều có danh hợp với nó,
nếu khơng danh sẽ khơng hợp với thực, là loạn danh. Danh và phận của mỗi người
trước hết do xã hội quy định. Khổng Tử đã quy tất cả các quan hệ xã hội thành năm
mối quan hệ cơ bản ( ngũ luân) như sau:

Vua – Tôi: bề tôi phải lấy chữ trung làm đầu. Cha – Con: bề con phải lấy chữ hiếu
làm đầu. Chồng – Vợ: vợ phải lấy tiết hạnh làm đầu. Anh – Em: phải lấy chữ hữu làm đầu.
Bạn – Bố: phải lấy chữ tín làm đầu. Năm mối quan hệ này có tiêu chuẩn riêng: Vua thì
phải nhất; Tơi thì phải trung; Cha phải hiền từ; Con phải hiếu thảo; Phu xướng phụ tùy.
Trong năm quan hệ đó Khổng Tử nhấn mạnh ba quan hệ đầu là cơ bản nhất (Tam cương)
cụ thể: Vua – Tôi: Vua là trụ cột; Cha – Con: Cha là trụ cột; Chồng – Vợ: Chồng là trụ cột.
Như vậy, năm mối quan hệ đã nói rõ danh, phận của từng người, vế sau phải phục tùng vế
trước, nếu mỗi người thực hiện đúng danh phận đó sao cho vua ở hết phận vua, tơi ở hết
phận tôi, cha ở hết phận cha, con ở hết phận con…thì có chính danh.
Theo Khổng Tử: “ Danh bất chính ắt ngơn bất thuận, ngơn bất thuận ắt sự bất
thành, sự bất thành ắt lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng dân bất xử trí”, nghĩa là: nếu
10


khơng chính danh thì lời nói khơng thuận, lời nói khơng thuận thì việc làm khơng
thành, việc làm khơng thành thì lễ nhạc khơng kiến lập được, khơng kiến lập lại được
lễ nhạc thì hình phạt khơng đúng, hình phạt khơng đúng thì dân khơng biết đặt tay chân
vào đâu. Cho nên, người qn tử đã dựng chính danh thì phải nói ra được, nói rồi tất
phải làm được, vì thế người quân tử phải thận trọng với lời nói của mình. Nếu danh
khơng chính, nói và làm khơng đúng theo chức phận của mình, “trên” khơng nghiêm
“dưới” loạn, vua không ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha không ra cha, chồng không ra
chồng, vợ không ra vợ…Khổng Tử cho rằng, xã hội loạn là do nguồn gốc từ trên, do
vậy ơng rất đề cao tính tự giác của mỗi cá nhân trong việc giữ lấy cái danh phận của
mình, bởi vì nếu mỗi người tự chính được bản thân mình thì khơng cần hạ lệnh mọi
việc sẽ được tiến hành, nếu ngược lại dự có hạ lệnh cũng chẳng ai theo. Khi Tử Lộ hỏi
về việc chính trị, Khổng Tử nói, muốn trị nước trước tiên ắt phải sửa cho chính danh,
vì nếu việc chính sự là ngay thẳng, cứ làm gương về sự ngay thẳng thì khơng ai khơng
dám ngay thẳng nữa. Vậy chính danh là gì? Khổng Tử giải thích như sau: chính danh là
làm cho mọi việc ngay thẳng. Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng
của người ấy, trên – dưới, vua – tôi, chồng – vợ…trật tự phân minh, vua lấy nghĩa mà

khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua. Nói một cách khái qt là ai ở vị trí nào cũng phải
làm trịn trách nhiệm, bổn phận của mình ở cương vị đó theo thang bậc. Như vậy, theo
Khổng Tử chính danh là điểm mấu chốt để đưa xã hội trở nên trật tự, nền nếp. Nhưng
để có chính danh, mỗi người phải thực hiện đúng danh phận của mình khơng lạm
quyền. Một xã hội có chính danh là một xã hội có trật tự kỉ cương, thái bình, thịnh trị.
Thuyết thượng hiền: thuyết Thượng hiền do Mặc Tử đề ra, ông là người sáng
lập ra trường phái triết học Mặc Gia, là một trong những nhà triết học lớn của Trung
Quốc cổ đại. Ông xuất thân trong một gia đình thuộc tần lớp bình dân trong xã hội,
từng làm thợ và phu dịch, tự xưng là “ người bần tiện” nên môn đồ của ông đa số là
tầng lớp bình dân. Mặc Tử sáng lập ra trường phái Mặc Gia với học thuyết Kiêm Ái
nổi tiếng. Học thuyết này được bảo vệ và phát triển bởi các triết gia hậu Mặc Tử vào
thế kỷ 3 và 4 trước công nguyên, với tư tưởng nổi bật nhất về lôgic và nhận thức trên
cơ sở chủ nghĩa duy vật của họ. Ơng là người có tài hùng biện thuyết phục người khác.
11


Ông đã từng chu du khắp thiên hạ để giảng thuyết kiêm ái với tinh thần, nghị lực và
niềm tin hiếm có. Với tinh thần xả thân vì nghĩa, Mặc Tử đã đào luyện đội ngũ học trị
cũng có đức hạnh và lịng quả cảm như ơng. Khơng những thế, những học thuyết của
ơng ln mang lại tính thiết thực cho xã hội, và cho sự đóng góp, xây dựng đất nước,
trong đó có thuyết Thượng hiền.
Thượng có nghĩa là đưa lên, tuyển chọn, quý trọng, hiền có nghĩa là người hiền
tài và nhân đức, đủ sức gánh vác trách nhiệm được giao phó một cách tốt đẹp nhất.
Thượng hiền là chọn lựa và sử dụng những người hiền tài, nhân đức bất kể họ ở địa vị
nào trong xã hội để tôn lên chịu trọng trách chăn dân trị nước. Quan không quý đời đời
mà dân không tiện mãi mãi, ai có tài thì đề cử họ, ai khơng có tài thì hạ họ xuống.
Chọn người cốt ở cái tài và cái đức, người đó có thể làm tốt việc hay không chứ không
cần họ phải con nhà quý tộc, mặt mũi xinh đẹp. Vì những kẻ cốt nhục, phú quý, mặt
mũi xinh đẹp đâu có phải là những kẻ thông minh tài đức cả đâu.
Với Thượng hiền trung, Mặc Tử chủ trương tư tưởng: chọn người hiền tài trong

việc trị nước, khơng kể người bà con thân thích hay mặt mũi xinh đẹp, không lấy cái vẻ
của họ làm cái u của mình, khơng kéo bố kéo cánh với cha anh, không thiên vị kẻ
giàu sang, không say mê kẻ nhan sắc, ai hiền thì được nâng nhắc lên cho giàu sang và
dùng làm quan trưởng, kẻ nào bất tài thất đức thì nên bỏ đi, phải chịu nghèo hèn và
dùng làm phu dịch. Kẻ nào đáng làm quan trưởng thì cho làm quan trưởng, kẻ nào
đáng trị một ấp thì cho trị một ấp.
Với Thượng hiền hạ, Mặc Tử chủ trương: Nay các đấng vương công đại nhân có
cái quần khơng thể may được ắt tìm người thợ may khéo. Có một con trâu, con dê khơng
giết được ắt tìm đến tên đồ tể giỏi. Có một con ngựa bệnh khơng thể chữa ắt tìm người
thầy thuốc giỏi. Có một cây cung khơng thể giương được ắt tìm người thợ cung giỏi. Các
đấng vương cơng, đại phu trong lúc đó dẫu có những người cốt nhục, giàu sang, mặt mũi
xinh đẹp, nhưng thật biết họ không làm được những việc trên ắt là khơng khiến. Đó là cớ
gì? Vì họ sợ làm hư hỏng của các đấng vương công đại phu. Các đấng vương công đại
phu với những công việc ấy vẫn không sai cái ý chuộng người hiền tài. Đến cái việc nhà
nước thì lại khơng thế, những kẻ cốt nhục, phú quý mặt mũi xinh đẹp thì cất nhắc lên,
12


vậy thì các đấng vương cơng đại phu với nhà nước coi họ không bằng cái cung hỏng,
con ngựa bệnh, cái quần, cái áo, con dê con trâu chăng? Mặt khác, ơng cịn chủ trương
chế độ cai trị theo dịng dõi huyết thống, không biết trọng dụng người hiền tài sẽ đem lại
nhiều tai họa sâu xa khác với xã hội mà người ta không thể lường trước được. Thế nên,
thưởng mà không nhằm người hiền tài, phạt mà không trúng kẻ bạo, kẻ được thưởng
cũng khơng có cớ, kẻ bị phạt cũng khơng có tội, ấy là khiến cho trăm họ nản lòng, nhác
thể, chán làm điều thiện, để khơng có cái sức chân tay mà giúp đỡ lẫn nhau, để hư mục
của thừa mà không chịu giúp đỡ lẫn nhau, giấu giếm điều hay mà không dạy bảo cho
nhau. Vì thế Thượng hiền được Mặc Tử xem như cái nền của chính trị. Đất nước sở dĩ
rối loạn là do khơng có chính trưởng mà ra, mỗi người mỗi ý, cho nên phải kén lấy người
hiền khá trong thiên hạ để lập làm thiên tử…lại kén chọn lấy người hiền khá trong thiên
hạ lập nên để làm tam công. Thiên tử và tam công đã lập rồi cho là thiên hạ rộng lớn, dân

của nước xa đất lạ, phải trái lợi hại khác nhau không thể một hai mà biết rõ, mới vạch ra
muôn nước, lập các quốc dân chư hầu…lại kén chọn lấy người hiền khá trong nước lập
nên làm chính trưởng.
Tóm lại, với chủ trương một thứ “ chính trị hiền nhân” ơng đã khiến cho mọi
người “thượng đồng nhi bất hạ tỵ” đất nước mỗi ngày sung mãn hơn, thành phần trí
thức, hiền tài được trọng dụng trong những công việc lớn của đất nước. Xóa bỏ chế độ
chính trị cha truyền con nối của phong kiến trước kia. Đào tạo và tuyển chọn những
người hiền tài phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
2.1 Quan điểm xã hội
Giống như bất kỳ một học thuyết chính trị - xã hội nào khác, các nhà Nho cũng
đưa ra quan điểm về một xã hội lý tưởng với tất cả những đặc điểm căn bản của nó và
các biện pháp để tạo lập duy trì cái xã hội ấy. Xã hội lý tưởng theo quan điểm của Nho
gia là xã hội ổn định, thái bình, đại đồng , mọi người đều sống hịa mục nhân ái, bình
đẳng. Mơ ước về một xã hội như vậy, trong Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Vua chư hầu có
nước, quan đại phu có nhà, hai hạng đấy chả lo sợ cho nước nhà mình ít người, mà lo
sợ rằng: tình hình và phép tắc chẳng được đồng đều, chẳng lo sợ cho nước mình nghèo
khổ, mà lo sợ chẳng được an ninh. Là vì hễ đồng đều thì chẳng nghèo khổ, người hòa
13


thì dân số khơng ít, có an ninh thì nước nhà không nghiêng ngả”. Xã hội lý tưởng được
các nhà Nho nêu lên còn là một xã hội mà ở đó có vua thánh, tơi hiền, mọi cái đều là
của chung, mọi người đều có quyền lợi, có sản nghiệp riêng và đều được chăm sóc.
Trong thiên Lễ vận, sách Lễ ký, Khổng Tử nói: “Sự thực hiện của đạo lớn là, thiên hạ
là của chung, tuyển chọn người hiền và cử người tài năng, nói điều tín và tu sửa hịa
mục. Cho nên người ta khơng chỉ tơn kính cha mẹ mình, khơng chỉ thương u con cái
mình, cịn khiến cho người già được sống trọn đời, người trai tráng được sử dụng, trẻ
thơ được lớn lên, người không vợ, người không chồng, trẻ mồ côi, người không con,
người tàn tật, tất cả đều được chăm sóc”.
Các nhà Nho đã tìm ra một nguyên nhân của tình trạng xã hội rối loạn là “ cha

không ra cha, con không ra con” tức là họ coi một trong những nguồn gốc làm cho xã
hội rối loạn là sự rối loạn từ trong gia đình. Do đó các nhà Nho đều cho rằng muốn cho
xã hội có trật tự, kỷ cương thì trước hết và cơ bản là gia đình phải có trật tự, kỷ cương,
sao cho “ cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng”. Các nhà Nho cũng chủ
trương giáo dục, giáo hóa mọi người trong xã hội theo những nguyên lý đạo đức Chính
danh, Tam cương, Ngũ thường, trước hết và chủ yếu nhằm mục đích trên. Do vậy Nho
gia rất chú trọng, đề cao giáo dục, giáo hóa với phương châm “Hữu giáo vơ loại”, “Phú
nhi hậu giáo”, coi giáo dục, giáo hóa là biện pháp căn bản nhất để duy trì trật tự, kỷ
cương trong gia đình – tiền đề và điều kiện đảm bảo trật tự kỷ cương, ổn định xã hội.
Song những chủ trương ấy của các nhà Nho không phải là nhằm đem lại một gia đình
mà trong đó, mọi người đều bình đẳng hồn tồn. Trong cái gia đình ấy, người cha ln
có uy quyền cao nhất, người chồng có quyền lớn hơn vợ. Có như vậy gia đình ấy mới
được coi là gia đình có kỷ cương, trật tự và có giáo dục. Đến Đống Trọng Thư thì quan
niệm về gia đình có trật tự kỷ cương lại càng trở nên chặt chẽ hơn, khắc nghiệt hơn,
trong đó quyền hành người cha, người chồng là tuyệt đối: “Cha bắt con chết con phải
chết, con không chết là bất hiếu, vợ phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của chồng”. Và
khi coi gia đình là tế bào của xã hội, nhà là gốc của nước, trật tự kỷ cương trong gia
đình là tiền đề, điều kiện để duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, rốt cuộc các nhà Nho
đều chủ trương bảo vệ, duy trì địa vị thống trị tuyệt đối của nhà vua, cố định hóa trật tự
14


và cơ cấu giai cấp của xã hội phong kiến. Như vậy, xã hội lý tưởng theo quan niệm của
các nhà Nho, phải là một xã hội mà ở đó, đứng đầu nhà nước là thiên tử và thiên tử là
người có quyền cao nhất, dưới Thiên tử là vua chư hầu, dưới vua chư hầu là các quan
đại phu, dưới quan đại phu là thần dân trong thiên hạ. Nói cách khác, xã hội đó phải
ln đặt trong vịng trật tự có lợi cho giai cấp thống trị và vì vậy, kẻ nào phá hoại cái
trật tự đó sẽ bị thiên tử trừng phạt. Khi đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng, cũng
tất yếu, trong học thuyết của mình, các nhà Nho đều mong muốn rằng trong xã hội đó,
bằng mọi cách phải duy trì được nguyên tắc: giai cấp địa chủ phong kiến mãi mãi là

giai cấp cai trị người và được người phụng dưỡng, còn các giai cấp, tầng lớp khác mãi
mãi là người bị cai trị và phải nuôi dưỡng người. Đôi khi trước một thực trạng xã hội
mà trong đó, mâu thuẫn giữa các giai cấp và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị
diễn ra gay gắt, hầu như không thể điều hịa được, cũng như tình trạng rối loạn xã hội
hầu như không chấm dứt, các nhà Nho phải viện tới ý trời, mệnh trời, theo đó trật tự
đẳng cấp, phân vị ấy là do trời sắp đặt, là ý trời không thể đảo ngược được. Và những
hành vi hành động nào làm nguy hại đến trật tự đó là “có tội với trời và dự có cầu đảo
thì trời cũng không tha thứ”.
Xã hội lý tưởng trong quan niệm của các nhà Nho là xã hội mà trong đó mọi
người phải có đời sống đạo đức và đời sống vật chất tương đối đầy đủ. Trong sách
Luận ngữ, Khổng Tử khuyên các nhà cầm quyền khi dân đã đơng thì phải giúp họ làm
giàu, khi dân đã giàu thì phải giáo hóa họ. Mạnh Tử cũng nhận thức rõ vai trị của đời
sống vật chất, lợi ích vật chất đối với đời sống đạo đức, đối với công việc giáo hóa con
người. Từ tư tưởng “dân vi bang bản”, “dân vi quý”, Mạnh Tử đã từng đòi hỏi nhà cầm
quyền phải làm cho dân có tài sản riêng, phải tạo sản nghiệp cho dân. Bởi theo ơng,
dân “có hằng sản mới có hằng tâm”, dân có đời sống vật chất đầy đủ thì họ mới thực
hiện được đạo Hiếu, đạo Trung, mới học và làm theo Lễ, Nghĩa. Ngồi ra, Mạnh Tử
khơng chỉ nhận thức được vai trị của đời sống vật chất đối với đời sống đạo đức mà
còn nhận thức được rằng kinh tế là cơ sở, động lực của cơng việc giáo dục, giáo hóa.
Ơng nói: “Đấng minh quân chế định điền sản mà chia cho dân cùng cày cấy cốt khiến
cho họ trên đủ phụng dưỡng mẹ cha, dưới đủ nuôi dưỡng vợ con, nhằm năm trúng mùa
15


thì mãi no đủ, phải năm thắt ngặt thì khỏi nạn chết đói. Được vậy rồi nhà vua mới
khiến dân làm thiện. Tự nhiên họ sẽ theo điều thiện một cách dễ dàng. Tóm lại, theo
quan niệm của Nho gia, xã hội lý tưởng phải là xã hội bảo đảm được sự kết hợp hài hòa
giữa đời sống kinh tế và đời sống tinh thần, đạo đức lành mạnh.
Ngoài ra, xã hội lý tưởng phải là xã hội có giáo dục, mọi người phải được giáo
dục, giáo hóa và có đạo đức. Theo các nhà Nho, giáo dục, giáo hóa là một trong những

biện pháp chính trị căn bản để xây dựng một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị, có trật
tự kỷ cương, và tạo ra những con người có đạo đức, những mẫu người lý tưởng. Chính
vì vậy, Nho gia đặc biệt đề cao giáo dục, giáo hóa. Mạnh Tử coi việc giáo hóa để dân
có đạo đức là công việc quan trọng nhất của kế sách giữ nước, bởi lẽ như ơng nói:
“Thành qch chẳng hồn bị, đồ kinh pháp chẳng nhiều, chẳng phải là tai nạn trong
nước vậy, ruộng nương chẳng mở mang, của cải chứng tích tụ chẳng phải là sự nguy
hại trong nước vậy Người trên khơng có lễ giáo, người dưới khơng có học thức, kẻ dân
tàn tặc đấy lên, nước mất đến nơi”. Tiếp tục tư tưởng này của Mạnh Tử, nhà tư tưởng
của chế độ phong kiến tập quyền Đặng Trọng Thư cũng nói: “Kìa mn dân
chạytheocái lợi, như nước chảy xuống chỗ thấp, nếu khơng lấy giáo hố mà ngăn chặn
thì lại khơng thể giữ lại được. Thế cho nên, giáo hố xây dựng được thì gian tà đều
ngừng lại và việc ngăn ngừa mới hồn thành, giáo hố mà bị phế bỏ thì gian tà đua
nhau mà nảy ra, hình phạt khơng kể xiết, việc ngăn ngừa bị hỏng. Các bậc vua đời xưa
hiểu rõ điều đó, thế cho nên họ cứ ngồi yên mà trị thiên hạ, khơng ai khơng coi việc
giáo hố là việc lớn”.
3. Ý nghĩa rút ra từ những quan điểm chính trị - xã hội của Nho gia
Các quan điểm về giáo dục để xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị của Nho
gia đã đóng vai trị quan trọng trong việc tạo ra một tầng lớp trí thức trong xã hội cũng
như một tầng lớp cai trị, cầm quyền có học, đồng thời, nó đã tạo ra một xã hội hết mực
"đề cao văn hoá, đề cao văn hiến, trọng kẻ có học, kẻ làm văn chương, gây ra tâm lý
hiếu học, tôn sư trọng đạo cho đến mức sùng bái văn tự…Tuy nhiên, với nội dung giáo
dục, thi cử chỉ giới hạn ở nhưng nguyên lý, chuẩn mực đạo đức trong Tứ thư, Ngũ
kinh, với phương châm học tập và thi cử chủ yếu là “thuật nhi bất tác", với mục đích
16


giáo dục là đào tạo ra người làm quan để hưởng bổng lộc và hoàn thiện đạo đức con
người phù hợp với xã hội phong kiến, nên nền giáo dục, khoa cử của Nho gia - cũng là
nền giáo dục trong xã hội phong kiến - không thể tránh để lại những di hại, những hạn
chế. Điều dễ nhận thấy là nền giáo dục đó đã tạo ra một lớp người mà tri thức của họ

chỉ thu hẹp ở những hiểu biết về đạo đức, các quan hệ xã hội và cách ứng xử của con
người trong các quan hệ xã hội đó. Do vậy, trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
trước những bước ngoặt của sự phát triển xã hội, họ khơng có vai trị gì đáng kể. Tất
nhiên, với chủ trương coi trọng đạo đức, coi việc hoàn thiện nhân cách đạo đức của
mỗi người là điều kiện để xây dựng và hoàn thiện xã hội lý tưởng, Nho gia đã góp phần
tạo đựng cho con người lối sống có trách nhiệm với gia đình, đất nước, với cả chính
mình và đặc biệt coi trọng trật tự, kỷ cương một lối sống mà "Phú quý bất năng dâm,
bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Nho gia đã tạo ra một cộng đồng xã hội có
tơn ti trật tự, hịa mục từ trong gia đình đến Nhà nước, thiên hạ. Song cũng do những
hạn chế trong nội dung giáo dục mà Nho gia đã góp phần tạo ra một xã hội và những
con người bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, và do đó, hạn chế mặt tài năng và tính sáng tạo cửa
con người cũng như cản trở sự phát triển của xã hội, của lịch sử. Bên cạnh đó, xét về
tính chất giai cấp và mục đích chính trị, tư tưởng giáo dục, giáo hóa của Nho gia là
nhằm bảo vệ và duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến.
Như vậy, dự Nho gia có đưa ra quan niệm về một xã hội đại đồng lý tưởng thì
chẳng qua cũng chỉ nhằm tô vẽ, bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến cũng
như quyền lợi và địa vị thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm duy trì vĩnh
viễn sự bất cơng, bất bình đẳng. Xét đến cùng, quan niệm của Nho gia về một xã hội lý
tưởng - thái bình, ổn định, có trật tự, kỷ cương... là hết sức nghiệt ngã, hết sức hình
thức và thù địch với cuộc sống, với con người, với nhân dân, là cản trở và đi ngược lại
xu thế phát triển tất yếu của lịch sử.
Mặc dù quan niệm của Nho gia về xã hội lý tưởng có những điểm hạn chế, song
có thể khẳng định rằng, nó vẫn có một ý nghĩa nhất định đối với chúng ta trong việc
nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xác định những mục tiêu của sự nghiệp

17


cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hiện nay, nhất là mục tiêu xây dựng một xã hội
dân giàu, nước mạnh, có văn hố, có trật tự, kỷ cương.

Thượng hiền là một chính sách thiết thực và đem lại nhiều hiệu quả trong cuộc
sống. Tạo cho đất nước ngày một tốt đẹp hơn, con người càng hoàn thiện hơn, có khả
năng và điều kiện thể hiện tài năng vốn có của mình.. Nhờ chính sách Thượng Hiền
mà các bậc Quân Vương đều thành tựu trong công cuộc xây dựng đất nước. Các nhà
lãnh đạo của các đất nước khác nhau nhờ vào chính sách Thượng Hiền mà đào tạo một
hệ thống nhân tài đầy đủ áp dụng vào trong việc phát triển của đất nước. Mặt khác, sự
ra đời của thuyết Thượng Hiền đã làm cho tất cả các nước đều ngày một phát triển. Chế
độ, tập tục cha truyền con nối trong hành chính và chính trị được xóa bỏ. Địa vị của
người hiền tài ngày một được nâng cao và chú trọng. Thượng Hiền tuy là một tư tưởng
có từ thời nhà Tần, trải qua gần 2000 năm lịch sử, nhưng giá trị tư tưởng của Thượng
Hiền vẫn luôn tồn tại và phát triển một cách mạnh mẽ. Là một chính sách, tư tưởng mà
mọi thời đại đều cần đến và được áp dụng triệt để. Một tư tưởng lớn, thiết thực mang
giá trị vượt không gian và thời gian. Nếu một đất nước hay một tổ chức xã hội nào
muốn thành công không thể nào không cần có chính sách Thượng Hiền của Mặc Tử.
Một chính sách mà không thể thiếu trong xã hội xưa cũng như ngày nay.
Tóm lại trong một thời gian dài Nho gia đã giúp cho các chế độ quân chủ phong
kiến xây dựng một xã hội thịnh vượng, có trật tự, pháp luật, một quốc gia thống nhất,
người dân trong xã hội biết đối xử với nhau trên cơ sở “Nhân – lễ – nghĩa – trí – tín”.
Đó là lý do tại sao trong quá khứ Trung Hoa nói riêng và các dân tộc châu Á nói chung,
với sự ảnh hưởng của Nho gia đã đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc, đã tạo ra
một nền văn minh bậc nhất của loài người lúc bấy giờ. Nhưng sự ổn định mà Nho gia
tạo ra cho xã hội, cộng với tư tưởng hướng nội của người châu Á – luôn suy xét ta là ai
trong vũ trụ này, trong một thời gian dài nhiều trăn năm sự trì trệ cả về kinh tế lẫn quân
sự. Cho đến khi nó phải đối đầu với nền văn minh phương Tây vốn có nhiều ưu điểm
hơn trong kinh tế và quân sự, thì Nho gia đã phải nhường bước trong đời sống kinh tế,
chính trị, qn sự. Có lẽ đây là một đặc điểm chung của nền văn hoá nhân loại. Nền
văn hoá nơng nghiệp thường bị các nền văn hố du mục thơn tính.
18



4. Nho gia với quá trình xây dựng xã hội mới ở Việt Nam hiện nay
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chúng ta thấy có nhiều tấm gương sáng trong
việc vận dụng sáng tạo thuyết chính danh của Nho gia vào hồn cảnh lịch sử cụ thể. Vì
chính danh khơng có nghĩa là ngu trung theo kiểu tuyệt đối trung thành theo chủ nhân,
thờ một ông vua trước sau khơng thay đổi cho dù ơng vua đó đã mất thân phận làm vua
do làm bậy, như trường hợp của Sư Vạn Hạnh, Lê Lợi, Quang Trung v.v… và sau này
là Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân làm cuộc khởi nghĩa thành công.
Sư Vạn Hạnh rất sáng suốt, khi ngài thấy triều Tiền Lê đã thối nát, khơng cịn cứu vãn
được nữa và đã đến lúc dứt bỏ vai trị lãnh đạo của nó thì ngài khơng ngần ngại gì mà
vứt bỏ nó, Ngài ủng hộ ngay Lý Cơng Uẩn lúc đó đang được lịng người. Nếu ngài ngu
trung với nhà Tiền Lê thì có được lợi ích gì cho nhân dân ngồi cái tiếng trung thần
được ghi lại trong sử sách, có lẽ ngài thấy Lý Cơng Uẩn rất xứng đáng (chính danh)
nên ủng hộ họ Lý vì lợi ích chung của dân tộc.
Lê Lợi khi khởi nghĩa, muốn được lịng dân ủng hộ ơng cũng đã tìm con cháu
họ Trần về lập làm vua để danh chính ngơn thuận mà quy tụ lực lượng chống lại bọn
xâm lược Minh và ơng quyết tâm đồn kết các lực lượng và kiên trì, bền bỉ chiến đấu
tới ngày thắng lợi. Do đó, về sau ơng xứng đáng làm vua khai sáng một triều đại mới
mà không phải là con cháu họ Trần mà ông đã lập làm vua bù nhìn. Do đó, họ Trần
chấm dứt vai trị lãnh đạo của họ trên vũ đài chính trị là điều tất yếu. Hoàng đế Quang
Trung Nguyễn Huệ cũng vậy. Lần ra Bắc thứ nhất, ông ủng hộ nhà Lê Mạt vì nhà Lê
Mạt cịn danh nghĩa làm vua. Nhưng lần ra Bắc thứ hai thì ơng chấm dứt ngay vai trị
làm vua của vua Lê Chiêu Thống vì ơng này có hành vi bán nước, cầu viện quân ngoại
xâm đánh nhân dân mình. Lần thứ ba ra Bắc, Nguyễn Huệ lên ngơi hồng đế lấy hiệu
là Quang Trung để quy tục lực lượng đánh đuổi xâm lăng. Nhân dân rất ủng hộ ông, kể
cả những quần thần trước kia phị tá vua Lê. Ơng chính danh bước lên vũ đài chính trị,
lãnh đạo nhân dân chống quân Thanh xâm lược khi dân tộc bị lâm nguy. Đó là một
hành động anh hùng của bậc chính danh qn tử, đó cũng là lý do vì sao nhân dân ta lại
ca tụng, hết lịng ủng hộ hồng đế Quang Trung mà khơng ủng hộ vua Lê nữa.
Vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
19



lãnh đạo sau này cũng là chính danh. Vì ngồi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra, khơng cịn
có đảng nào khác đủ sức và đủ uy tín đứng ra lãnh đạo nhân dân giành độc lập, tự do
cho dân tộc từ tay phát xít Nhật và sau này tiếp tục chống Pháp thành công.
Mỹ là cường quốc mạnh nhất mang quân đi xâm lược Việt Nam dưới nhiều chiêu bài.
Nhân dân Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm nhưng rốt
cuộc, cuộc chiến tranh vì chính nghĩa của dân tộc ta đã dành được thắng lợi. Nhân dân
u chuộng hịa bình khắp nơi trên toàn thế giới đều ủng hộ nhân dân Việt Nam, thậm
chí cả một bộ phận lớn nhân dân tiến bộ ở Mỹ. Chúng ta chiến thắng vì chúng ta có
chính nghĩa. Chính nghĩa ở đây chính là chính danh. Như vậy, dân tộc Việt Nam, tuy có
biết đến học thuyết chính danh của Khổng tử nhưng lại vận dung nó rất uyển chuyển để
cứu dân, cứu nước, chống xâm lăng.
Trong quá trình xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay, các quan điểm của Nho
gia về chính danh, thượng hiền và xã hội có một ý nghĩa quan trọng, nếu biết vận dụng
sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể sẽ giúp cho quá trình xây dựng xã hội mới thu
được kết quả tốt. Xã hội mà chúng ta đang hướng đến và xây dựng là một xã hội “dân
giàu nước mạnh”, một xã hội khơng cịn người bóc lột người, mọi người đều được ấm
no và hạnh phúc, đều có quyền được học hành, có quyền hưởng tự do, dân chủ, cơng
bằng, và bình đẳng.
Trong xã hội mới, gia đình cũng là tế bào của xã hội, trong gia đình cũng có tơn
ti trật tự phép tắc riêng, ông bà, cha mẹ là tấm gương cho con cháu noi theo, lắng nghe
những tâm tư tình cảm của các con, cịn con cháu ngoan ngỗn hiếu thảo với ông bà
cha mẹ, tuy nhiên giữa vợ với chồng là quan hệ bình đẳng chứ khơng như quan niệm
của Nho gia, người chồng có quyền quyết định tất cả trong gia đình. Trong xã hội mới,
tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau, trong nền kinh tế thị trường và có
Nhà nước pháp quyền, mọi cơng dân được phép làm tất cả những gì mà pháp luật
khơng cấm, cịn cơng chức chỉ làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi người được
khuyến khích làm giàu theo pháp luật, bằng lao động của mình. Kinh tế tư nhân tỏ rõ là
một động lực của phát triển kinh tế và được khuyến khích phát triển mạnh mẽ, lâu dài.

Nhà nước chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội và an sinh xã hội, thống nhất chính sách
20


kinh tế với chính sách xã hội, bằng các biện pháp điều tiết để chăm lo cho các đối
tượng yếu thế, thua thiệt trong phát triển để đảm bảo công bằng xã hội. Luật pháp và
đạo đức là hai cột chống đỡ để giữ cho xã hội lành mạnh, giảm mạnh mẽ những tổn
thương và hệ lụy do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra. Như vậy, cũng giống như
quan điểm của Nho gia, trong xã hội mới, con người có đời sống đạo đức và vật chất
đầy đủ, được Nhà nước tạo điều kiện phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, trong xã hội mới, giáo dục cũng là vấn đề được quan tâm hàng
đầu. Nhà nước ta hiện nay có rất nhiều chính sách phát triển giáo dục như: những cá
nhân, tập thể giỏi ln có những chính sách động viên kịp thời và thiết thực, những học
sinh sinh viên nghèo học giỏi được hỗ trợ: như chính sách cho vay vốn sinh viên lăi
suất thấp và trả chậm của Ngân hàng chính sách xă hội, các chính sách về học bổng,
các quỹ khuyến học v.v…Mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta là thực hiện thật tốt
việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Việc giáo dục không chỉ
dừng lại ở xố nạn mù chữ trong tồn dân, hay chỉ giới hạn vấn đề đạo đức như trong
Nho gia mà còn phải đưa lại cho mọi người, đặc biệt là nhân dân sống ở nông thôn,
vùng cao, miền núi, hải đảo, khả năng tiếp thu nền giáo dục mới, những tri thức về đời
sống, văn hoá, về xã hội và thiên nhiên, về khoa học, kĩ thuật, văn học, nghệ thuật và
về thế giới mà chúng ta đang sống. Từng bước cần tiến hành phổ cập giáo dục, trước
hết đối với cấp tiểu học, rồi tiến tới phổ cập trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực như vậy, q trình xây dựng xã hội mới
của nước ta vẫn chưa vận dụng hết những ưu điểm của học thuyết Nho gia, điển hình
như trong việc trao các giải thưởng như: thương hiệu mạnh, hay giải thưởng khoa học
công nghệ và nhiều loại giải thưởng khác v.v… khơng thực hiện theo “chính danh”, có
hiện tượng mua giải, trao giải cho những tổ chức, cá nhân khơng xứng đáng. Trong gia
đình khơng có tơn ti trật tự, cha mẹ không làm gương cho con cái, cịn con cái khơng tơn
trọng hiếu thảo với cha mẹ, từ đó xuất hiện rất nhiều vụ án thương tâm như cha giết con,

con giết cha gây hoang mang trong xã hội, hoặc vẫn tồn tại những tư tưởng lạc hậu tiêu
cực của Nho gia như người chồng, người cha có quyền tuyệt đối trong gia đình, tư tưởng
trọng nam khinh nữ dẫn đến hiện tượng mất cân bằng giới tính trong xã hội.
21


Đối với những người hiền tài chưa được sử dụng đúng với tài năng của họ và
chưa có chính sách thiết thực để phát triển nhân tài. Trong các cơ quan Nhà nước vẫn
cịn hiện tượng “con ơng cháu cha” mặc dù tài năng có hạn nhưng lại được giao những
vị trí quan trọng, trong khi những người có tài năng thực sự lại phải làm những việc
không quan trọng, không thể phát huy được năng lực. Hoặc như những người được cử
đi học nước ngoài, hay đi du học cũng không trở về phục vụ đất nước, do điều kiện
trong nước chưa đáp ứng được với nhu cầu nghiên cứu, làm việc của họ như ở nước
ngoài, dẫn đến hiện tưởng chảy máu chất xám rất nhiều.
Nền giáo dục của nước ta hiện nay cịn mang nặng tính lý thuyết, ít thực hành, rập
khn máy móc v.v.. gây ra hiện tượng thừa thầy thiếu thợ trong sản xuất kinh doanh. Trong
khi vấn đề đạo đức là quan trọng trước tiên đối với đào tạo một con người thì hiện nay, đạo
đức chỉ là một phần rất nhỏ trong những môn giảng dạy trong nhà trường.
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY NHỮNG ẢNH HƯỞNG TÍCH
CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA NHO GIA ĐỐI
VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những giải pháp về giáo dục
Nền giáo dục của ta phải đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ khoa học và
cơng nghệ, cán bộ quản lí, cơng nhân kĩ thuật và nhân viên đủ về số lượng và có những
kĩ năng nghiệp vụ cần thiết, lành nghề, những người lao động có tri thức cao, có phẩm
chất tốt theo những giá trị đạo đức truyền thống, tiên tiến của các dân tộc mình, những
người có hồi bão lớn, có lí tưởng sống cao cả vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Ngày nay kiến thức của lồi người đang tăng lên nhanh
chóng và khoa học đang phát triển rất nhanh, công nghệ luôn luôn thay đổi. Do vậy,
giáo dục thường xuyên, học và tự học suốt đời sẽ là một yêu cầu bắt buộc của cuộc

sống. Tình hình này địi hỏi việc giáo dục ở nhà trường những đổi mới cơ bản. Giáo
dục phải võ trang cho người học tinh thần học tập, phương pháp tư duy khoa học,
những kiến thức cơ bản và ngoại ngữ để sau đó họ có thể tự học, tự phát triển suốt cuộc
đời. Một hệ thống tài liệu, giáo trình, sách báo tham khảo chất lượng cao, hấp dẫn cần
được đảm bảo cho mọi tầng lớp nhân dân, từ trẻ em vỡ lòng đến người lớn tuổi. Vấn đề
22


giáo dục đạo đức, lí tưởng sống cho thanh niên phải được đặt lên hàng đầu. Trước đây
nhờ thanh niên và nhân dân ta thấm nhuần tư tưởng: “Khơng có gì quý hơn độc lập, tự
do”, chúng ta đã giành lại được độc lập tự do cho Tổ quốc. Ngày nay cần làm cho mọi
người hiểu nỗi nhục của một nước nghèo và lạc hậu, có ý chí quyết tâm không chịu để
rơi vào cảnh phụ thuộc, làm nô lệ mới về kinh tế cho các nước giàu.
Coi trọng hơn nữa việc giáo dục đạo đức trong gia đình, nhà trường và ngoài xã
hội. Giáo dục, đào tạo con người có tư duy biện chứng, biết vận dụng những tư tưởng,
văn hóa, khoa học kỹ thuật phù hợp với hồn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước.
2. Những giải pháp đối với những người hiền tài
Ở bất cứ thời đại nào, vai trò của người tài đối với sự phát triển xã hội cũng là
đặc biệt quan trọng. Dân ta có câu “Một người biết lo kho người biết làm”. Một trong
những tấm bia ở Văn Miếu cách đây hơn năm trăm năm, dưới thời Lê Thánh Tơng, có
ghi: “... Các bậc hiền nhân tài giỏi là yếu tố cốt tử đối với một chỉnh thể. Khi yếu tố
này dồi dào thì đất nước tăng tiến mạnh mẽ và phồn vinh. Khi yếu tố này kém thì
quyền lực đất nước bị suy giảm. Những người tài giỏi là một sức mạnh đặc biệt quan
trọng đối với đất nước”. Do vậy, trên nền giáo dục quảng đại cho đông đảo thanh niên,
chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo người tài. Cần phải thực
hiện một chính sách đặc biệt đối với họ; tạo cho họ những điều kiện tốt nhất để học tập,
rèn luyện, cung cấp những giáo viên giỏi, chương trình học tập đặc biệt, điều kiện sinh
hoạt, vật chất đầy đủ và khi ra trường được bố trí vào làm việc ở những nơi có điều
kiện tốt nhất để phát huy tài năng.
3. Những giải pháp nâng cao tính tự giác của mỗi người nhằm thực hiện “chính

danh”
Việc khơng cơng bằng trong hoạt động sản xuất kinh tế, kinh doanh, truyền thống
“con ông cháu cha” hay bệnh thành tích khơng phải có thể xử lý trong một sớm một chiều.
Để thực hiện chính danh trong xây dựng xã hội mới do đó cần một quá trình lâu dài và bền
bỉ, trước tiên cần thực hiện nghiêm minh từ trên xuống dưới, đào tạo, giáo dục con người
biết đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân, giáo dục từ thế hệ trẻ có tính tự
giác, tự thân vận động và tinh thần phấn đấu cao, không dựa dẫm ỉ lại vào người khác.
KẾT LUẬN
23


Qua phân tích những tư tưởng chính trị - xã hội của Nho gia và ảnh hưởng của nó tới
quá trình xây dựng xã hội mới ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng: những tư tưởng của Nho gia
tuy có từ cách đây hàng mấy nghìn năm nhưng vẫn có giá trị thực tiễn nhất định, nếu biết
vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, những tư tưởng ấy sẽ
góp phần tích cực giúp chúng ta đạt được mục tiêu xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, gia
đình ấm no hạnh phúc, là cái nôi nuôi dưỡng mỗi người cả về vật chất lẫn tinh thần, giúp
con người ngày càng hoàn thiện hơn. Trong bối cảnh hiện nay, dưới tác động của nền kinh tế
thị trường vấn đề đạo đức trong giới trẻ đang rất đáng báo động thì những tư tưởng về đạo
đức, Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín của Nho gia được vận dụng để giáo dục là cần thiết hơn
bao giờ hết. Tuy nhiên, nếu chỉ vận dụng một cách máy móc những tư tưởng này của Nho
gia sẽ làm cho con người và xã hội ngày càng trì trệ, khơng có trí tiến thủ, dẫn tới nền kinh
tế ngày càng lạc hậu hơn so với thế giới.
Tóm lại, ngày nay tuy khơng cịn ảnh hưởng nhiều trong đời sống chính trị nhưng
những tư tưởng của Nho gia vẫn có ảnh hưởng rất mạnh trong đời sống hàng ngày, nó
hiện diện trong tâm hồn mỗi người Việt Nam đó là những tư tưởng về lịng ái quốc, coi
trọng học hành, coi trọng các mối quan hệ xã hội (dựa trên tư tưởng về Lễ-Nghĩa). Về
đời sống tâm linh thì có phong tục thờ cha mẹ, tổ tiên, các bậc tiền bối có cơng đức.
Nói chung về mặt văn hố Nho gia có ảnh hưởng rất sâu nặng và ảnh hưởng này ngày
nay thường mang tính tích cực hơn là tiêu cực. Đó cũng là điểm khác biệt chủ yếu giữa

hai nền văn hố Đơng – Tây mà chúng ta đang cố gắng khẳng định bản sắc .

24


DANH MỤC TÀI LIỆU
1. Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành triết học) – Nhà xuất bản chính trị - hành chính.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Triết học Mác - Lênin (Tập II) Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
3. Phan Văn Các (1994), “Giới nho học quốc tế đang quan tâm những gì?”,
Triết học,
4. Phan Văn Các (1993), “Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu
vực và thời đại”, Triết học,
5.
6.

/> />
7.

/>
25


×