Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu vật tư thiết bị ngành điện của công ty cổ phần tập đoàn hanaka

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.8 KB, 77 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu thầu là một công việc không thể thiếu cần được chú trọng trong đầu tư xây
dựng nói chung và trong ngành điện nói riêng. Nó có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến
hiệu quả đầu tư của dự án. Với tỷ trọng vốn rất lớn dành cho mua sắm vật tư thiết bị
trong tổng mức đầu tư của dự án phát triển nguồn, lưới điện, thì việc nâng cao hiệu quả
cơng tác đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị chính là nhằm tăng tính cạnh tranh từ đó nâng
cao chất lượng của dự án và nâng cao hiệu quả đầu tư của ngành điện.
Việc nâng cao hiệu quả của công tác đấu thầu là việc tốn không quá nhiều công
sức và tiền của nhưng hiệu quả mang lại thì rõ rệt. Hiện nay công việc này chưa được
quan tâm đúng mức và chưa phát huy hết được vai trò của nó. Tuy nhiên theo xu hướng
phát triển chung của kinh tế thị trường nước ta hiện nay thì trong tương lai gần đấu thầu
sẽ dần khẳng định được vai trò quan trọng của mình và dần được quan tâm phát triển
một cách đúng mức.
Trong nền kinh tế thị trường, các cuộc đấu thầu được tổ chức ngày càng nhiều
với quy mơ rộng khắp. Trong nền kinh tế nói chung và trong ngành điện nói riêng, đấu
thầu đang tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể tham gia đấu thầu, đó là các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nước, đồng thời các cuộc đấu thầu đã
mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong nước. Đó là đấu thầu quốc
tế. Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia đấu thầu các dự án quốc tế, với
những yêu cầu vô cùng khắt khe về năng lực: Kinh nghiệm, tài chính, con người, công
nghệ….
Cạnh tranh không chỉ giới hạn trong các buổi mở thầu, mà cạnh tranh là thuộc
tính bẩm sinh cần phải có của mỗi doanh nghiệp ngay từ khi thành lập. Nó giống như
bản năng sinh tồn trong mỗi cơ thể vậy. Nó là sức khỏe của doanh nghiệp, là khả năng
tồn tại của doanh nghiệp. Trong bất kỳ cuộc đấu thầu nào cũng vậy, các doanh nghiệp
nào khỏe thì thắng, tồn tại và phát trỉển, ngược lại yếu thì thua và suy tàn.
Trong xu hướng đó việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác đấu thầu là rất
quan trọng. Và thực tế hiện nay các tổ chức, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đang
rất tích cực quan tâm tìm tịi và cũng đã đề xuất những giải pháp mới để cải thiện năng


1


lực cạnh tranh trong đấu thầu hiện tại của các doanh nghiệp. Hiện nay, dưới áp lực của
kinh tế thị trường sau khi nước ta gia nhập WTO và các tổ chức kinh tế thế giới, Chính
Phủ và các Bộ ngành cũng đang tích cực tham khảo các ý kiến đóng góp và xây dựng
một hệ thống hành lang pháp lý tương đối đầy đủ về đấu thầu.
Thị trường vật tư thiết bị điện được ví như như một con gà quay rất ngon trên
bàn tiệc của ngành điện. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các vị khách ăn được nhiều
nhất, chọn được những miếng ngon nhất, đồng thời ngành điện bỏ ra ít tiền nhất là vấn
đề cần giải quyết không phải dễ dàng.
Luận văn được viết trên cơ sở phân tích đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong đấu thầu, các tồn tại của doanh nghiệp trong q
trình đấu thầu và sau đó đưa ra các giải pháp khắc phục, nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
2.

Mục tiêu của đề tài
Làm nổi bật các vấn đề tồn tại của thực trạng đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị

thuộc ngành điện.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến đấu thầu từ đó đưa ra
các biện pháp tác động tích cực vào các yếu tố đó.
Hệ thống các phương pháp và tìm ra được một số đề xuất mới nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hiệu quả đấu thầu nói chung, cho cơng tác đấu
thầu vật tư thiết bị điện nói riêng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết kết hợp với phân tích và tổng kết thực tế trên
cơ sở các tài liệu chủ yếu sau: Luật đấu thầu và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật,
hệ thống quản lý dự án, các báo cáo tổng kết của các hội thảo chuyên ngành, báo cáo tài

chính của doanh nghiệp…
4. Giới hạn của đề tài
Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
trong đấu thầu và hiệu quả cho công tác đấu thầu áp dụng riêng cho một loại đối tượng
cụ thể là đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị cho các cơng trình phát triển nguồn và lưới
điện.

2


5. Các đóng góp của luận văn
Đánh giá một cách tổng quan các mặt mạnh và mặt yếu còn tồn tại của doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị điện tham gia đấu thầu các dự án điện, có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong đấu
thầu.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp
trong đấu thầu nói chung và áp dụng trong đấu thầu vật tư thiết bị điện cho các cơng
trình phát triển nguồn và lưới điện nói riêng.
6. Nội dung của luận văn
Đầu tiên là phần mở đầu của luận văn, sau đó phần nội dung chính gồm 3
chương và cuối cùng là phần kết luận, kiến nghị. Phần nội dung chính như sau:
o Chương 1: Cơ sở lý luận về canh tranh và đấu thầu
o Chương 2: Phân tích thực trạng cạnh tranh và hoạt động đấu thầu vật tư thiết bị
trong ngành điện.
o Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu vật
tư thiết bị điện.
KẾT LUẬN

3



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU
1.1 Các khái niệm cơ bản về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La Tinh với nghĩa chủ yếu là sự
đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị
nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, mục tiêu xác định. Trong hình thái cạnh tranh thị
trường, quan hệ ganh đua xảy ra giữa hai chủ thể cùng (nhóm người bán), cũng như chủ
thể cầu (nhóm người mua), cả hai nhóm này tiến tới cạnh tranh với nhau và được liên
kết với nhau bằng giá cả thị trường.
Theo Samuelson: Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh
với nhau để giành khách hàng.
Theo Kac-Marx: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu
được lợi nhuận siêu ngạch.
Theo kinh tế Amơ thì một thị trường cạnh tranh hồn hảo có rất nhiều người
mua, người bán để cho khơng có một người mua hoặc một người bán duy nhất nào có
ảnh hưởng, có ý nghĩa đối với giá cả.
Theo cuốn “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm sốt
độc quyền kinh doanh thì cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế
thị trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự sống còn của
mỗi doanh nghiệp, đó là sự ganh đua giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một
nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao lợi thế của mình trên thị trường để đạt
được một mục tiêu kinh doanh cụ thể như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần.
Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để huy động nguồn lực
của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hố, dịch vụ cịn thiếu. Qua đó nâng cao năng
lực sản xuất của toàn xã hội. Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp yếu kém bị đào thải,
doanh nghiệp mới xuất hiện. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và
phát triển, nhờ đó nguồn lực xã hội được sử dụng hợp lý, là cơ sở, tiền đề cho sự thành

công trong việc tăng trưởng nền kinh tế ở mỗi quốc gia.

4


1.1.2. Tác động của quy luật cạnh tranh đến hoạt động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu thị
trường và xã hội để đạt lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Một doanh
nghiệp tiến hành kinh doanh có hiệu quả là doanh nghiệp thoả mãn được tối đa nhu cầu
thị trường và xã hội về hàng hoá và dịch vụ trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện
có và thu được lợi nhuận nhiều nhất, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
Trong hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải chấp nhận cạnh tranh,
ganh đua với nhau, phải luôn không ngừng cải tiến để giành được những ưu thế tương
đối so với đối thủ. Nếu như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải cố
gắng sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất nhằm thu lợi nhuận tối đa đồng thời gia
tăng thế lực và độ an toàn trong kinh doanh.
Trong cuộc cạnh tranh có những doanh nghiệp thì vươn lên đứng vị trí dẫn đầu thị
trường, có lợi nhuận cao. Nhưng cũng có những doanh nghiệp tồn tại một cách khó khăn, bị
phá sản hoặc bị thơn tính. Vấn đề đặt ra là tại sao lại có sự phân hoá như vậy trong khi mọi
doanh nghiệp tham gia kinh doanh đều tìm mọi cách để phát triển. Nguyên nhân là sự khác
biệt về khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp trên thị trường.
1.1.3 Đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Như đã nói trên, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp buộc phải chấp
nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh là yếu tố vốn có, vừa mang đến những tác động tích
cực, vừa mang đến những tác động tiêu cực. Chính vì lẽ đó việc đánh giá khả năng cạnh
tranh của một doanh nghiệp là rất quan trọng.
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp các nhà nghiên cứu đã
đề ra nhiều phương pháp. Mỗi phương pháp được xây dựng trên một nền tảng tư duy
khác nhau, sử dụng các công cụ phân tích khác nhau và do đó đưa ra những kết quả

cũng khác nhau. Sau đây chúng ta sẽ điểm qua các phương pháp cơ bản, nổi tiếng và đi
đến lựa chọn một phương pháp thích hợp để ứng dụng vào phân tích thực tế khả năng
cạnh tranh của Cơng ty cổ phần tập đoàn HANAKA ở phần sau. Các phương pháp đánh
giá bao gồm:
- Phương pháp phân tích theo quan điểm quản trị chiến lược.
- Phương pháp phân tích theo quan điểm tân cổ điển.
5


- Phương pháp phân tích theo quan điểm tổng hợp.
1.1.3.1. Đánh giá khả năng cạnh tranh theo quan điểm quản trị chiến lược
1.1.3.1.1. Phân tích theo cấu trúc
Về thực chất phương pháp này được ứng dụng hiệu quả trong phân tích khả năng
cạnh tranh của một ngành hơn là cho một doanh nghiệp. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể
ứng dụng phương pháp này trong phân tích đối với một doanh nghiệp.
Quan điểm quản trị chiến lược được thể hiện khá hồn chỉnh trong những năm 1980
qua các cơng trình của Porter (1980 và 1990). Chính vì vậy, điều này cũng dễ hiểu là việc
phân tích theo cấu trúc của cách tiếp cận này chính là nền cho "khối kim cương" các yếu tố
xác định lợi thế cạnh tranh quốc gia. Phân tích theo cấu trúc cũng được đánh giá là rất có ưu
thế trong nghiên cứu tình huống (case-study) và trong nhận thức động thái ngành.
Theo phương pháp phân tích này, đối với mỗi ngành, dù là trong hay người
nước, bản chất cạnh tranh nằm trong 5 nhân tố cạnh tranh.
- Sự thâm nhập ngành của các công ty mới.
- Các sản phẩm hay dịch vụ thay thế.
- Vị thế giao kèo của các nhà cung ứng.
- Vị thế giao kèo của người mua.
- Sự tranh đua của các cơng ty hiện đang cạnh tranh.
Sơ đồ 1: Mơ hình 5 lực lượng cạnh tranh
Những người gia nhập tiềm
năng


Mối đe doạ gia nhập
Người
cung
ứng

Sức

mạnh

của

người cung ứng

Các đối thủ cạnh
tranh
Sự cạnh tranh giữa

Sức

người mua

các doanh nghiệp
Mối đe doạ thay
thế
Các sản phẩm
thay thế

6


mạnh

của

Người
mua


Mỗi một lực lượng trong năm lực lượng này lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác, mà bản thân các yếu tố đó cũng cần phải được nghiên cứu để tạo ra bức tranh đầy
đủ về sự cạnh tranh trong một ngành. Sự tác động qua lại giữa năm lực lượng quyết
định một ngành hấp dẫn như thế nào đối với các doanh nghiệp đang ở trong đó.
Mơ hình năm lực lượng hoàn chỉnh hơn rất nhiều so với một tập hợp các mơ
hình giáo khoa, nhưng nó cũng kém rõ ràng hơn rất nhiều. Nó được sử dụng cho hàng
chục loại thị trường khác nhau nhưng nó lại khơng cung cấp những dự đốn rõ ràng về
kết quả của các cấu trúc thị trường đó. Thực tế, giá trị của nó khơng nằm ở chỗ cung
cấp những dự đoán cho mỗi kiểu ngành, mà ở chỗ cung cấp cho các nhà quản lý một
danh mục đầy đủ có thể sử dụng để xác định những đặc điểm quan trọng nhất của sự
cạnh tranh trong một ngành. Các đặc điểm này tạo ra xuất phát điểm để các doanh
nghiệp có thể xây dựng chiến lược cạnh tranh hiệu quả.
1.1.3.1.2. Phân tích theo lợi thế cạnh tranh trên các nguồn lực riêng biệt
Nguồn lực phải thực giá trị, nghĩa là nó có đóng góp tích cực cho việc khai thác
vị thế của công ty trên thị trường.
Nguồn lực phải hiếm hoi các đối thủ cạnh tranh khơng thể có được một cách
rộng rãi.
Nguồn lực phải có tính khó bắt trước hay mô phỏng
Nguồn lực không dễ bị thay thế bởi nguồn lực khác.
Nói ngắn gọn, lợi thế cạnh tranh - mục tiêu của quản trị chiến lược - đòi hỏi các
nguồn lực của cơng ty phải khác biệt, rất khó lưu chuyển và bắt trước. Và như vậy,
ngay đối với một ngành, việc phân tích theo cấu trúc với năm nhân tố cạnh tranh cũng

phải tính đến, "những đặc thù nguồn lực" của một số công ty để tránh cái gọi là một
chính sách phù phù hợp với mọi kiểu loại công ty.
1.1.3.2 Đánh giá khả năng cạnh tranh theo quan điểm tân cổ điển.
Quan điểm tân cổ điển dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống xem xét lợi
thế cạnh tranh hay tính cạnh tranh đối với một sản phẩm (đồng nhất) qua lợi thế so sánh
về chi phí sản xuất và năng suất. Cách xem xé theo quan điểm tân cổ điển có phần
phiến diện; nó thường cịn bị phê phán là yếu về phân tích động thái và hơn thế nữa,
việc đo lường chi phí và nhất là năng suất (như năng suất tổng hợ các nhân tố TFP) phải
dựa trên những giả thiết không thật phù hợp với thực tế.
7


Tuy nhiên, các phân tích định lượng phản ánh tính cạnh tranh ngành/ công ty
theo quan điểm này vẫn được sử dụng rất rộng rãi. Trước hết, chi phí các nhân tố sản
xuất vẫn còn là một điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh, nhất là đối với các nước
đang phát triển và lại trong quá trình hội nhập thương mại quốc tế. Hơn nữa, các chỉ số
chi phí cịn cho phép xác định được những ngành cơng ty có đóng góp tích cực cho nền
kinh tế xét về phúc lợi xã hội và do vậy, những can thiệp chính sách của chính phủ là
phù hợp hay khơng. Dưới góc độ cơng ty, các chỉ số đó sẽ cho biết liệu cơng ty có khả
năng cạnh tranh và tồn tại hay không trong môi trường giá cả thị trường đã định và cả
trong các bối cảnh có sự thay đổi chính sách (như chính sách thương mại chẳng hạn).
1.1.3.3. Đánh giá khả năng cạnh tranh theo quan điểm tổng hợp.
Theo quan điểm tổng hợp, tính cạnh tranh của một ngành/cơng ty là "năng lực
duy trì được lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước" (Van Duren,
Matin, và Westgren 1991). Định nghĩa này được xem là nhất quán với mục tiêu kinh
doanh, nhưng lại cũng phù hợp với các mục tiêu của chính sách kinh tế và thương mại
của chính phủ.
Qua điểm tổng hợp kết hợp các quan điểm quản trị chiến lược, tân cổ điển và
kinh tế học về tổ chức công nghiệp, cố gắng đo lường tính cạnh tranh, đồng thời chỉ ra
những nhân tố khuyến khích hay ngáng trở tính cạnh tranh. Hình 4 là tập hợp các chỉ số

và nhân tố làm cơ sở cho việc đánh giá tính cạnh tranh theo quan điểm tổng hợp.
BẢNG 1: KHUNG KHỔ ĐÁNH GIÁ TÍNH CẠNH TRANH
Các chỉ số do tính cạnh tranh
Lợi nhuận

Thị phần

Các chỉ số (lượng và chất) hàm chứa tính cạnh tranh:
Năng suất Cơng nghệ
- Lao động
- Chi phí
- Tổng hợp cho nghiên
của các nhân cứu và phát
tố
triển
- Cấp độ
- Thay đổi

- Sản
phẩm
- Chất
lượng
- Sự khác
biệt

Đầu vào
& chi phí
- Giá cả
đầu vào
chủ yếu

- Hệ số
chi phí
các nguồn
lực

8

Các điều
kiện về
cầu

Độ liên
kết
- Vị thế
người
cung ứng
- Vị thế
người
mua


Tính cạnh tranh chịu tác động của những nhân tố
Kiểm sốt bởi cơng Kiểm

sốt

bởi Kiểm

sốt


phần nào

ty

chính phủ

- Chiến lược

- Mơi trường kinh - Giá đầu vào

- Sản phẩm

doanh

- Công nghệ

suất, tỷ giá)

- Đào tạo

- Chính sách N. cứu -

(thuế,

được Khơng

thể

kiểm


sốt được
- Môi trường tự

lãi - Các điều kiện về nhiên
cầu

- Nghiên cứu và & phát triển

Môi

trường

thương mại quốc tế

phát triển (nội bộ)

- Đào tạo & giáo

- Chi phí

dục

- Liên kết

- Liên kết
(Nguồn: Theo Van Duren, Martin, và Westgren)

Xét tổng thể, cách phân tích theo quan Trong khung khổ đánh giá này, các chỉ số
(lượng và chất) hàm chứa tính cạnh tranh là những chỉ số quan trọng nhất. Việc đánh
giá thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phân tích những này chỉ

số. Do đó, chúng ta cần hiểu rõ hơn về các chỉ số này:
điểm tổng hợp cho phép trả lời ba câu hỏi cơ bản khi nghiên cứu tính cạnh tranh
của một ngành/cơng ty:


Ngành/cơng ty đó có tính cạnh tranh như thế nào?



Những nhân tố nào thúc đẩy hay có đóng góp tích cực, cịn những nhân tố

nào hạn chế hay có tác động tiêu cực đối với tính cạnh tranh của ngành/cơng ty?


Những tiêu chí gì cần đặt ra cho chính sách để nâng cao tính cạnh tranh

của ngành/cơng ty? Những chính sách, chương trình và cơng cụ nào của chính phủ đáp
ứng được các tiêu chí đó?
Có thể nói khung khổ đánh giá tính cạnh tranh ngành/cơng ty theo quan điểm
tổng hợp thể hiện đầy đủ cả những phân tích định tính và định lượng và cả những quan
sát lĩnh và động.
Bằng việc phân tích nội dung và ưu, nhược điểm của các phương pháp đánh giá
khả năng cạnh tranh, chúng ta đã thống nhất sử dụng phương pháp đánh giá tổng hợp ở
phần sau. Nền tảng cơ bản của phương pháp đánh giá cạnh tranh tổng hợp là tư tưởng
"kinh doanh là một quá trình liên tục".
9


Sơ đồ 2: Quá trình kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp


Mua đầu

Đầu vào

Sản xuất

Đầu ra

Tiêu thụ

vào
Toàn bộ những yếu tố, hoạt động của quá trình kinh doanh từ giai đoạn mua đầu
vào đến tiêu thụ đều tham gia tạo nên khả năng cạnh tranh. Vì vậy, rõ ràng những yếu
tố nào là thế mạnh cạnh tranh của công ty, đồng thời những yếu tố nào là hạn chế.
Để phù hợp với phương pháp đánh giá tổng hợp, những biện pháp tăng cường
khả năng cạnh tranh mà chúng ta xây dựng dưới đây phải tác động đến toàn bộ các yếu
tố của quá trình kinh doanh. Những yếu tố là thế mạnh sẽ được tiếp tục khai thác phát
huy, còn những yếu tố hạn chế phải được khắc phục.
Tuy nhiên, xây dựng đồng đồng bộ các biện pháp là khối lượng cơng việc rất
lớn, địi hỏi nhiều thời gian và cơng sức, có thể vượt q khn khổ hạn chế của một
Luận văn tốt nghiệp. Tác giả xin chỉ tập trung vào các biện pháp tăng cường khả năng
cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp.
Theo đó, chúng ta có 3 nhóm biện pháp lớn:
 Các biện pháp liên quan đến sản phẩm .
 Các biện pháp liên quan đến giá cả.
 Các biện pháp liên quan đến dịch vụ.
Các biện pháp sau đây sẽ được xé riêng lẻ. Nhưng trong thực tế, các công ty
thường áp dụng tổng hợp các biện pháp này. Tuỳ vào từng thời kỳ nhưng vẫn phải sử
dụng các cơng cụ khác mang tính hỗ trợ.
1.1.3.4. Các biện pháp liên quan đến sản phẩm

Muốn xây dựng các biện pháp liên quan đến sản phẩm thành công, điểm đầu tiên là
phải hiểu và mô tả đúng sản phẩm của doanh nghiệp đưa ra bán trên tị trường. Nếu chỉ hiểu
sản phẩm theo quan niệm truyền thống - từ góc độ sản xuất thơng qua hình thức biểu hiện
bằng vật chất, chúng ta không thể xây dựng được các biện pháp một cách sáng tạo, linh
hoạt. Cách thức tiếp cận thích hợp hơn phải xuất phát từ góc gộ người tiêu dùng. Theo cách
thức này, sản phẩm là sự thoả mãn một nhu cầu nào đó của khách hàng.
1.1.3.4.1. Đa dạng hoá sản phẩm
Thực chất đa dạng hố sản phẩm là q trình mở rộng danh mục sản phẩm, tạo
10


nên một cơ cấu sản phẩm có hiệu quả của doanh nghiệp. Đa dạng hoá sản phẩm là cần
thiết và khách quan đối với mỗi doanh nghiệp bởi vì:


Sự tiến bộ nhanh chóng, khơng ngừng của khoa học cơng nghệ cùng với sự

phát triển ngày càng cao của nhu cầu thị trường làm hco vòng đời sản phẩm bị rút ngắn,
doanh nghiệp cần có nhiều chủng loại sản phẩm hàng hoá để hỗ trợ lẫn nhau, thay thế
nhau. Đa dạng hố sản phẩm sử dụng tối đa cơng suất của máy móc thiết bị, thực hiện
khấu hao nhanh để đẩy nhanh q trình đổi mới cơng nghệ.
 Nhu cầu của thị trường rất đa dạng phong phú và phức tạp, đa dạng hoá sản
phẩm nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường và như vậy doanh nghiệp sẽ thu được
nhiều lợi nhuận hơn.
 Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt thì đa dạng hố sản
phẩm là một biện pháp nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh.
 Đa dạng hoá sản phẩm cho phép tận dụng đầy đủ hơn những nguồn lực sản
xuất dư thừa của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3.4.2. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm
Nhu cầu tiêu dùng ngày càng phát triển thì thị trường càng địi hỏi phải có loại

sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo sự thoả mãn cao nhất cho người tiêu dùng. Nâng
cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp, thể hiện ở các khía canh:
 Chất lượng sản phẩm tăng lên nhờ đó thu hút khách hàng, tăng khối lượng
hàng hoá bán ra, tăng được uy tín của sản phẩm, mở rộng được thị trường.
 Nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao được hiệu quả sản xuất.
Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khi thiết kế sản phẩm cho đến khi sản
xuất xong sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm. Có nhiều yếu tố động đến chất lượng sản phẩm:
thiết kế sản phẩm, lập kế hoạch sản xuất, chất lượng nguyên vật liệu, khả năng máy
móc thiết bị và tình trạng cơng nghệ chế tạo, đặc biệt là chất lượng lao động. Việc nâng
cao chất lượng sản phẩm không phải là trách nhiệm của một số bộ phận, cá nhân mà là
trách nhiệm của tồn bộ bộ phận, thành viên của cơng ty. Vì vậy để nâng cao chất
lượng sản phẩm cơng ty có thể áp dụng nhiều cách thức nhứ:
 Nâng cao hoạt động thiết kế sản phẩm
 Nâng cao khả năng máy móc thiết bị, trình độ cơng nghệ
11


 Nâng cao tay nghề và ý thức của người lao động
 Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng hiện đại như hệ thống quản lý chất
lượng toàn diện TQM hay bộ tiêu chuẩn ISO
Nói chung các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh liên quan đến sản phẩm
ln được coi là vũ khí ưu tiên nhất. Nó cho phép tạo ra lợi thế cạnh tranh rõ rệt.
1.1.3.5. Các biện pháp liên quan đến giá.
Trong kinh doanh, giá là một nhân tố có thể kiểm sốt mà doanh nghiệp có thể sử
dụng để thực hiện các mục tiêu chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nhưng giá cũng là
một cơng cụ rất khó sử dụng để làm vũ khí cạnh tranh. Một điều thường dễ nhầm lẫn là
muốn sử dụng giá là cơng cụ cạnh tranh thì doanh nghiệp phải xác định giá thấp. Tất
nhiên nếu doanh nghiệp luôn có thể xây dựng được một mức giá thấp hơn đối thủ thì rất
tốt. Nhưng đây là điều khơng thể. Trong thực tế, doanh nghiệp có thể sử dụng giá là

cơng cụ cạnh tranh nếu xây dựng một chính sách giá thành công. Sau đây chúng ta sẽ
xem xét các biện pháp cạnh tranh bằng công cụ giá và quan trọng hơn là xem xét cơ sở
để thực hiện các biện pháp này.
1.1.3.5.1. Xây dựng mức giá thấp.
Mục tiêu của việc xác định mức giá là đưa ra một giá "tốt nhất" dưới con mắt
của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong trường hợp sản
phẩm có tiêu chuẩn chất lượng đồng nhất hoặc khá rõ ràng, một mức giá luôn hạ hơn so
với đối thủ cạnh tranh có khả năng tạo ra hình ảnh tốt về doanh nghiệp để hấp dẫn họ.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với các khách hàng nhạy cảm về giá và nhu cầu về sản
phẩm co giãn. Giá có tính cạnh tranh cho phép thúc đẩy tăng trưởng "cầu hướng vào
doanh nghiệp" để duy trì và tăng trưởng doanh số bán.
Điều kiện để áp dụng biện pháp cạnh tranh này là doanh nghiệp phải sản xuất
sản phẩm với giá thành thấp và giảm được các phí tổn thương mại.
Giá thành sản phẩm được cấu thành bởi chi phí ngun nhiên vật liệu, động lực,
chi phí nhân cơng trực tiếp sản xuất và khấu hao TSCĐ hay còn gọi là chi phí TSCĐ và
một số chi phí khác phục vụ trực tiếp cho sản xuất.
Để hạ giá thành sản phẩm, doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp cơ bản như:
 Giảm chi phí nguyên vật liệu.
Tổ chức tốt công tác thu mua nguyên vật liệu.
12


Tối thiểu hố chi phí bảo quản dự trữ ngun vật liệu.
Xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu.
 Áp dụng máy móc và cơng nghệ mới để nâng cao năng suất lao động.
 Giảm chi phí nhân cơng trong chi phí sản xuất sản phẩm.
 Giảm chi phí cố định, chi phí điện nước.
1.1.3.5.2. Áp dụng chính sách giá hiệu quả
Bên cạnh việc sử dụng mức giá thấp, các doanh nghiệp có thể sử dụng một số
chính sách giá hiệu quả để nâng cao khả năng cạnh tranh. Các cính sách giá đúng cho phép

doanh nghiệp có thể định giá và quản lý giá có hiệu quả trong kinh doanh. Chính sách định
giá thể hiện sự lựa chọn đúng đắn các tình huống cần giải quyết khi đặt mức giá giúp cho
việc chấp nhận giá và ra quyết định mua sắm của khách hàng được dễ dàng hơn. Nếu thực
hiện được điều này, cơng ty đã có thể nâng cao khả năng cạnh tranh.
1.1.3.6. Các biện pháp liên quan đến dịch vụ
Không bị hạn chế trong một số hình thức cụ thể như các biện pháp cạnh tranh
trên, các biện pháp liên quan đến dịch vụ được thực hiện rất đa dạng. Đây là công cụ
cạnh tranh rất lợi hại. Vì thế các doanh nghiệp rất ưa dùng biện pháp này. Thực hiện
dịch vụ, doanh nghiệp không chỉ nhằm mục tiêu bán hàng tức thời mà nhằm mục tiêu
lớn hơn là xây dựng một hình ảnh tốt về doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng. doanh
nghiệp có thể tiến hành các hoạt động dịch vụ sau:
1.1.3.6.1. Dịch vụ trước bán hàng:
Để thuyết phục khách hàng mua hàng, dn cần phải tiến hành các hoạt động dịch
vụ ngay cả trước kih có sự tiếp xúc giữa người bán hàng và người mua . Những hoạt
động này bao gồm các dịch vụ về thông tin, giới thiệu, quảng cáo, chào hàng, về các
loại hàng hoá và các dịch vụ kèm theo., các dịch vụ về chuẩn bị hàng hố, đóng gói sẵn
theo yêu cầu của khách hàng, triển lãm hàng hoá tại các hội chợ, giới thiệu sản phẩm và
bày mẫu hàng… Những dịch vụ này có tác dụng làm khách hàng biết về sản phẩm của
công ty, tin tưởng vào nó và gia tăng nhu cầu tiêu dùng.
1.1.3.6.2. Dịch vụ trong bán hàng.
Tại thời điểm bán hàng, người bán có cơ hội giao tiếp với người mua. Vì thế đây
là một cơ hội rất tốt để thực hiện dịch vụ đối với người mua. Hoạt động dịch vụ có thể
được thực hiện rất đa dạng như bao gói hàng hoá, vận chuyển theo ý người mua, hướng
13


dẫn trong quá trình mua hàng. Những hoạt động dịch vụ được thể hiện tốt ln đem lại
sự hài lịng cho khách hàng.
1.1.3.6.3. Dịch vụ sau bán hàng.
Bán được hàng xong khơng có nghĩa là khơng phải thực hiện tiếp tục các hoạt

động dịch vụ. Thực tế hoạt động dịch vụ sau khi bán quan trọng khơng kém gì hoạt
động trong khi bán. Hoạt động này thường bao gồm chăm sóc khách hàng khi bán hàng,
khắc phục sự cố và giải đáp những yêu cầu của khách hàng. Những hoạt động như vậy
giúp công ty xây dựng được một mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng.
Chúng ta có thể kể đến rất nhiều các trường hợp thành công khi sử dụng cơng cụ
cạnh tranh. Ví dụ như: Cơng ty cổ phần điện thiết bị điện Đông Anh đang chiếm một thị
phần rất lớn trên thị trường thiết bị điện của Việt Nam. Sản phẩm của cơng ty ngồi
chất lượng tốt, giá hợp lý mà còn dễ dàng được sửa chữa nhờ một đội ngũ nhân viên
bảo hành bảo trì lành nghề trên khắp cả nước.
Rõ ràng sử dụng công cụ cạnh tranh này, công ty không cần phải huy động nguồn
lực lớn như các biện pháp khác. Nhưng nó lại địi hỏi các cơng ty phải có một chính
sách dịch vụ rõ ràng nhất quán được ủng hộ bởi tồn thể các thành viên trong cơng ty
và các hệ thống có liên quan. Chính sách đó phải được thực hiện một cách nghiêm túc
do những người được huấn luyện kỹ càng. Tất cả điều này đều dựa trên hệ thống quản
trị hiện đại, chính quy. Nhưng rõ ràng đây là một điểm yếu của các cơng ty Việt Nam.
Chính vì vậy mặc dù các cơng ty đều nhận thức rõ điều này nhưng khơng phải mọi cơng
ty đều có khả năng sử dụng nó.
1.2 Các khái niệm chung về đấu thầu
1.2.1 Khái niệm đấu thầu
“Đấu thầu là quá trình chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu
của hồ sơ mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu.”
Trong nền kinh tế thị trường, người mua tổ chức đấu thầu để người bán (các nhà
thầu) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của người mua là có được hàng hóa và dịch vụ thỏa
mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất lượng và chi phí thấp nhất. Mục đích của
nhà thầu là giành được quyền cung cấp hàng hóa dịch vụ đó với giá đủ bù đắp các chi
phí đầu vào và đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể. Tham gia đấu thầu có nhiều chủ

14



thể kinh tế khác nhau: chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn, xây lắp, cung cấp có khả năng
đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư.
Sự ra đời và phát triển của phương thức đấu thầu gắn liền với sự phát triển của sản
xuất và trao đổi hàng hóa. Xét trên những phương diện nhất định của trao đổi hàng hóa,
đấu thầu mang tính chất của quan hệ mua bán. Hàng hóa mua bán ở đây là các vật tư thiết
bị; người mua là chủ đầu tư, người bán là các nhà cung cấp (nhà sản xuất, nhà phân phối),
giá cả trao đổi chính là giá thầu, việc mua bán thực hiện theo các quy định nhất định.
Tổ chức đấu thầu thực chất là tổ chức sự cạnh tranh. Trong đấu thầu có các loại
cạnh tranh chủ yếu sau:
-

Cạnh tranh giữa chủ đầu tư với các nhà thầu.

-

Cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau.

Cũng như các quan hệ cạnh tranh khác trên thị trường, cạnh tranh trong đấu thầu
cũng có những mặt tích cực và tiêu cực nhất định. Nhờ thực hiện đấu thầu chủ đầu tư có
thể thực hiện được một cách tối ưu việc mua sắm hàng hóa. Về phía các nhà cung cấp,
để thắng thầu họ phải cải tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới toàn diện các hoạt
động, tăng cường thực lực của mình và giữ uy tín với chủ đầu tư. Tuy vậy trong cạnh
tranh cũng có thể xảy ra những hiện tượng tiêu cực, vi phạm những quy định thông
thường của công tác đấu thầu.
Đặc điểm của hoạt động đấu thầu:
-

Trên thị trường chỉ một người mua và nhiều người bán.

-


Đấu thầu tiến hành theo những điều kiện quy định trước.

-

Tính đặc biệt của đấu thầu cịn thể hiện trong việc xác định thời gian và

địa điểm mở thầu và những vấn đề khác có liên quan.
-

Trong đấu thầu ngồi Bên mời thầu, nhà thầu, cịn có sự hiện diện của

người thứ ba, đó là người tư vấn.
Vai trị của đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị trong ngành điện:
So với phương thức tự thực hiện và phương thức chỉ định thầu, phương thức đấu
thầu có những ưu điểm nổi trội, mang lại lợi ích to lớn với cả chủ đầu tư và nhà thầu.
Việc vận dụng rộng rãi phương thức đấu thầu trong mua sắm vật tư thiết bị khơng
những ở nước ta mà cịn ở nhiều nước trên thế giới là vai trị to lớn của nó. Vai trị đó
được đánh giá cụ thể dưới ba góc độ sau :
15


- Đối với chủ đầu tư: Thông qua đấu thầu chủ đầu tư sẽ lựa chọn được nhà thầu
có khả năng đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu về kinh tế kĩ thuật, công nghệ và tiến độ
giao hàng hóa. Trên cơ sở đó giúp cho chủ đầu tư vừa sử dụng hiệu quả, tiết kiệm vốn
đầu tư; đồng thời vẫn đảm bảo được chất lượng cũng như tiến độ cơng trình.
Thơng qua đấu thầu, chủ đầu tư cũng sẽ nắm bắt được quyền chủ động quản lý
có hiệu quả và giảm thiểu được các rủi ro phát sinh trong qua trình thực hiện dự án đầu
tư do tồn bộ quá trình tổ chức đấu thầu và thực hiện kết quả đấu thầu được tuân thủ
chặt chẽ theo quy định của pháp luật và sau khi chủ đầu tư đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng

đầy đủ về mọi mặt.
Để đánh giá đúng các hồ sơ dự thầu đòi hỏi đội ngũ cán bộ thực hiện công tác
đấu thầu của chủ đầu tư phải tự nâng cao trình độ của mình về các mặt nên việc áp dụng
phương thức đấu thầu còn giúp cho chủ đầu tư nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ
cơng nhân viên.
- Đối với các Nhà thầu: Hoạt động đấu thầu được tổ chức theo ngun tắc cơng
khai và bình đẳng, nhờ đó các nhà thầu (các đơn vị cung cấp, các nhà sản xuất) sẽ có điều
kiện để phát huy đến mức cao nhất cơ hội tìm kiếm các gói thầu và khả năng của mình để
trúng thầu, tạo cơng ăn việc làm cho người lao động phát triển sản xuất kinh doanh.
Việc tham gia đấu thầu, trúng thầu và thực hiện dự án đầu tư theo hợp đồng làm
cho nhà thầu phải tập trung vốn của mình và lựa chọn trọng điểm để đầu tư để nâng cao
cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ nhân lực theo yêu cầu của cơng trình. Qua đó, giúp
cho các nhà thầu nâng cao năng lực về mọi mặt của mình.
Cơng việc thực tế sẽ giúp cho các nhà thầu hoàn thiện về tổ chức quản lý, tổ
chức sản xuất, nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ công nhân viên của mình.
- Đối với Nhà nước: Đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý
Nhà nước về đầu tư và xây dựng, quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, hạn chế
và loại trừ được các tình trạng như : thất thốt lãng phí vốn đầu tư, đặc biệt là vốn ngân
sách, các hiện tượng tiêu cực khác phát sinh trong mua sắm vật tư thiết bị trong ngành
điện.
Đấu thầu tạo nên sức cạnh tranh mới và lành mạnh trong lĩnh vực cung cấp vật
tư thiết bị điện, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá trong ngành điện cũng
như trong nền kinh tế quốc dân nói chung.
16


Vì những lợi ích trên nên việc thực hiện cơng tác đấu thầu là một đòi hỏi tất yếu.
1.2.2 Một số khái niệm liên quan
-


Bên mời thầu: là chủ đầu tư hoặc tổ chức chun mơn có đủ năng lực và

kinh nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định của pháp
luật về đấu thầu.
-

Nhà thầu: là tổ chức kinh tế, cá nhân có điều kiện và tư cách pháp nhân để

tham gia đấu thầu.
-

Gói thầu: là một phần của dự án, trong một số trường hợp đặc biệt gói

thầu là tồn bộ dự án; gói thầu có thể gồm những nội dung mua sắm giống nhau thuộc
nhiều dự án hoặc là khối lượng mua sắm một lần đối với mua sắm thường xuyên.
-

Hồ sơ dự thầu là toàn bộ tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ

mời thầu và được nộp cho bên mời thầu theo quy định nêu trong hồ sơ mời thầu.
-

Giá gói thầu: là giá trị gói thầu được xác định trong kế hoạch đấu thầu

trên cơ sở tổng mức đầu tư hoặc tổng dự toán, dự toán được duyệt và các quy định hiện
hành.
-

Giá dự thầu là giá do nhà thầu nêu trong đơn dự thầu thuộc hồ sơ dự thầu.


Trường hợp nhà thầu có thư giảm giá thì giá dự thầu là giá sau khi giảm.
1.2.3 Nguyên tắc, lĩnh vực và các hình thức đấu thầu.
1.2.3.1 Các nguyên tắc đấu thầu.
Đấu thầu thực chất là một phương thức cạnh tranh mà bên mời thầu đứng ra tổ
chức để qua đó lựa chọn được một nhà thầu có thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu đối với gói
thầu.
Để đảm bảo tính cạnh tranh thì các bên liên quan đến quá trình đấu thầu phải
tuân thủ nguyên tắc:


Nhà thầu tham gia đấu thầu và nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu, đánh

giá hồ sơ dự thầu; nhà thầu thực hiện hợp đồng và nhà thầu tư vấn giám sát thực hiện
hợp đồng được coi là độc lập với nhau về tổ chức, không cùng phụ thuộc vào một cơ
quan quản lý và độc lập với nhau về tài chính theo quy định tại khoản 2 Điều 2 của Luật
sửa đổi khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Nhà thầu là doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp hoặc không cùng
thuộc một cơ quan, đơn vị trực tiếp ra quyết định thành lập.
17


b) Khơng có cổ phần hoặc vốn góp trên 30% của nhau.


Chủ đầu tư và nhà thầu tham gia đấu thầu gói thầu thuộc cùng một dự án

được coi là độc lập với nhau về tổ chức, không cùng phụ thuộc vào một cơ quan quản lý
và độc lập với nhau về tài chính quy định tại khoản 2 Điều 2 của Luật sửa đổi theo quy
định sau đây:
a) Đối với nhà thầu hoạt động theo Luật Doanh nghiệp: không có cổ phần hoặc

vốn góp trên 50% của nhau.
b) Đối với nhà thầu là đơn vị sự nghiệp: không cùng thuộc một cơ quan, đơn vị
trực tiếp ra quyết định thành lập và phải là đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính khi tham gia cung cấp dịch vụ, hàng hóa.
c) Đối với nhà thầu là doanh nghiệp nhà nước thành lập theo quy định của Luật
Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 thuộc diện phải chuyển đổi theo Luật Doanh nghiệp:
khơng có cổ phần hoặc vốn góp trên 50% của nhau kể từ thời gian phải hoàn thành việc
chuyển đổi theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
-

Đối với nhà thầu là doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực đặc thù,

chuyên ngành đặc biệt mà Nhà nước cần nắm giữ phần vốn chi phối thì thực hiện theo
quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Ngồi ra, q trình đấu thầu phải đảm bảo các nguên tắc công khai, công bằng,
minh bạch
-

Công khai: Thông tin về đấu thầu phải được cơng bố trên ít nhất một

trong các phương tiện đại chúng do chủ đầu tư lựa chọn.
-

Công bằng: Mọi nhà thầu phải được đối xử công bằng với nhau trước

pháp luật.
-

Minh bạch: Tất cả các thông tin liên quan đến gói thầu đều phải rõ ràng


và các bên liên quan đều có quyền được biết.
1.2.3.2 Các lĩnh vực đấu thầu.
Theo quy định hiện hành thì đấu thầu xây dựng bao gồm 3 lĩnh vực đấu thầu cụ
thể sau: Đấu thầu tư vấn, đấu thầu xây lắp và đấu thầu mua sắm hàng hóa.
1.2.3.3 Đấu thầu tư vấn.
“Tư vấn” là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, kinh nghiệm chuyên
môn do Bên mời thầu trong việc xem xét, quyết định, kiểm tra quá trình chuẩn bị và
18


thực hiện dự án (sản phẩm của họ là chất xám). Đấu thầu tuyển chọn tư vấn gồm 3 giai
đoạn:
- Chuẩn bị đầu tư: trong giai đoạn này nhà tư vấn có thể thực hiện các cơng việc
sau: lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi; đánh giá báo cáo nghiên cứu khả
thi; lập dự toán (tổng dự toán), đánh giá dự toán (hoặc tổng dự toán).
- Thực hiện đầu tư: nhà tư vấn phải lập Hồ sơ mời thầu cho các phần công việc
của dự án; giám sát thi cơng cơng trình, giám sát cung cấp hàng hố; có thể thực hiện
những cơng việc như kiểm tra chất lượng cơng trình, kiểm tra chất lượng hàng hố;
ln ln phải đi kèm việc xây lắp cơng trình với việc đánh giá tác động tới môi
trường; quản lý, điều hành các hoạt động của dự án; tư vấn về tài chính, thu xếp các
khoản vay.
- Vận hành kết quả đầu tư: các công việc mà tư vấn phải làm là đào tạo nhân sự;
kiểm tra chất lượng sản phẩm, đánh giá sự tiêu thụ sản phẩm trên thị trường (nghiên
cứu thị trường); xử lý ảnh hưởng tới môi trường; báo cáo kết quả của việc thực hiện dự
án đầu tư, chuẩn bị những giấy tờ, thông tin cần thiết cho việc thanh lý dự án.
1.2.3.4 Đấu thầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ.
- Hàng hố bao gồm máy móc thiết bị, dây chuyền cơng nghệ, ngun vật liệu...
là những thứ có thể cân, đong, đo, đếm. Bên cạnh đó cịn có những thứ khơng thể cân,
đong, đo, đếm được như nhãn mác hàng hố, quyền sở hữu cơng nghiệp, quyền sở hữu
công nghệ.

- Dịch vụ như: bảo hiểm, sửa chữa và bảo dưỡng hàng hóa sau bán hàng.
1.2.3.4.1 . Trình tự tổ chức đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị.
- Sơ tuyển nhà thầu (nếu có).
- Lập Hồ sơ mời thầu.
- Gửi thư mời thầu hoặc thông báo mời thầu.
- Nhận và quản lý Hồ sơ dự thầu.
- Mở thầu.
- Đánh giá và xếp hạng nhà thầu.
- Trình duyệt kết quả đấu thầu.
- Cơng bố kết quả trúng thầu, thương thảo hồn thiện hợp đồng.
- Trình duyệt nội dung hợp đồng và ký hợp đồng.
19


2. Sơ tuyển nhà Phê duyệt kế quả sơ tuyển
thầu
3. Lập hồ sơ mời

Mời thầu

thầu
1. Thành
Bên

lập tổ

mời

chuyên


thầu

gia đấu
thầu

Phê duyệt hồ sơ

Người

4. Thơng báo mời

hoặc

thầu

cấp có
thẩm
quyền

5. Tiếp nhận và bảo
quản Hồ sơ dự thầu
6. Mở thầu
7. Đánh giá xếp
hạng hồ sơ dự
thầu
8. Trình duyệt
kết quả đấu thầu

Phê duyệt kết
quả đấu thầu


9. Thơng báo
trúng thầu,
thương thảo hồn
thiện hợp đồng
10. Trình duyệt
nội dung và ký
hợp đồng

Phê duyệt
Nội dung hợp đồng

Sơ đồ 3: Trình tự tổ chức đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị
1.2.3.4.2. Nội dung hồ sơ dự thầu.
* Các nội dung về hành chính, pháp lý:
- Đơn dự thầu hợp lệ (phải có chữ ký của người có thẩm quyền).
- Bản sao giấy đăng ký kinh doanh.
- Tài liệu giới thiệu năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu kể cả nhà thầu phụ
(nếu có).
- Văn bản thoả thuận liên danh (trường hợp liên danh dự thầu)
20


- Bảo lãnh dự thầu
* Các nội dung về kỹ thuật:
- Tiến độ thực hiện hợp đồng.
- Đặc tính kỹ thuật, nguồn gốc xuất xứ của vật tư thiết bị
- Các chứng chỉ chứng nhận ISO 900X (nếu có)
* Các nội dung về thương mại, tài chính:
- Giá dự thầu kèm theo thuyết minh và biểu giá chi tiết.

- Điều kiện tài chính (nếu có).
- Điều kiện thanh tốn.
1.2.3.4.3. Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu mua sắm vật tư
thiết bị
Theo điều 24, luật đấu thầu 2005 tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói
thầu mua sắm vật tư thiết bị gồm tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm của
nhà thầu, tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật và nội dung xác định giá đánh giá, cụ thể
như sau:


Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu áp dụng đối

với gói thầu khơng tiến hành sơ tuyển, bao gồm:
-

Kinh nghiệm thực hiện các gói thầu tương tự tại Việt Nam và ở nước

ngoài; kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính có liên quan
tới gói thầu.
-

Năng lực sản xuất và kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ cán bộ

chun mơn có liên quan tới gói thầu.
-

Năng lực tài chính: tổng tài sản, tổng nợ phải trả, tài sản ngắn hạn, nợ

ngắn hạn, doanh thu, lợi nhuận, giá trị hợp đồng đang thực hiện dở dang và các chỉ tiêu
khác.

Việc xác định mức độ yêu cầu cụ thể đối với từng tiêu chuẩn năng lực, kinh
nghiệm cần căn cứ theo yêu cầu của từng gói thầu.
Các tiêu chuẩn đánh giá quy định tại khoản này được sử dụng tiêu chí “đạt”,
“khơng đạt”. Nhà thầu “đạt” cả 3 nội dung nêu trên thì được đánh giá là đáp ứng yêu
cầu về năng lực và kinh nghiệm.


Tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật
21


Tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật được xây dựng theo quy định tại Điều 24
Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 và bao gồm các nội dung về khả năng
đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng đối với hàng hóa nêu trong hồ sơ mời
thầu, cụ thể:
-

Đặc tính, thơng số kỹ thuật của hàng hóa, tiêu chuẩn sản xuất và các nội

dung khác.
-

Tính hợp lý và hiệu quả kinh tế của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ

chức cung cấp, lắp đặt hàng hóa.
-

Mức độ đáp ứng các yêu cầu về bảo hành.

-


Khả năng thích ứng về mặt địa lý.

-

Tác động đối với môi trường và biện pháp giải quyết.

-

Khả năng cung cấp tài chính (nếu có yêu cầu).

-

Các yếu tố khác về điều kiện thương mại, tài chính, thời gian thực hiện,

đào tạo chuyển giao cơng nghệ (nếu có).


Nội dung xác định giá đánh giá

Giá đánh giá là giá được xác định trên cùng một mặt bằng các yếu tố về kỹ thuật,
tài chính, thương mại và các yếu tố khác dùng để so sánh, xếp hạng các hồ sơ dự thầu.
Phương pháp xác định giá đánh giá phải được nêu trong tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự
thầu. Việc xác định giá đánh giá thực hiện theo trình tự sau đây:
- Xác định giá dự thầu (Trường hợp có thư giảm giá thì thực hiện theo quy định
tại khoản 13 Điều 70 Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009)
- Sửa lỗi
- Hiệu chỉnh các sai lệch;
- Chuyển đổi giá dự thầu (sau sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch) sang một đồng tiền
chung (nếu có).

- Đưa các chi phí về một mặt bằng để xác định giá đánh giá, bao gồm:
+ Các điều kiện về mặt kỹ thuật như: tiến độ thực hiện; công suất, hiệu suất của
máy móc thiết bị; mức tiêu hao điện năng, nguyên, nhiên vật liệu; chi phí vận hành, duy
tu, bảo dưỡng; tuổi thọ và các yếu tố kỹ thuật khác tùy theo từng gói thầu cụ thể.
+ Điều kiện tài chính, thương mại.
+ Ưu đãi trong đấu thầu quốc tế (nếu có).
22


+ Các yếu tố khác.
Tùy theo tính chất của từng gói thầu mà quy định các yếu tố để xác định giá
đánh giá cho phù hợp. Xếp hạng thứ tự hồ sơ dự thầu theo giá đánh giá, hồ sơ dự thầu
có giá đánh giá thấp nhất được xếp thứ nhất.
1.2.3.4.4. Đấu thầu xây lắp.
Là cơng việc có liên quan đến xây dựng cơng trình, hạng mục cơng trình; lắp đặt
hệ thống điện, nước của các cơng trình hoặc hạng mục cơng trình. Nhà thầu xây lắp là
những người quyết định chính đối với dự án.
1.2.4 Các hình thức lựa chọn nhà thầu.
Đấu thầu rộng rãi: Khi thực hiện đấu thầu rộng rãi, không hạn chế số lượng nhà
thầu tham dự đấu thầu. Trường hợp tại thời điểm đóng thầu có ít hơn 3 (ba) nhà thầu
nộp hồ sơ dự thầu thì thủ trưởng cơ quan, đơn vị, bộ phận được giao nhiệm vụ mua sắm
tài sản báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản xem xét, quyết định cho
phép kéo dài thời điểm đóng thầu nhằm tăng thêm hồ sơ dự thầu hoặc cho phép mở
thầu để tiến hành đánh giá hồ sơ dự thầu đã nộp.
Đấu thầu hạn chế: Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong trường hợp: Gói thầu có
yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù, gói thầu có tính chất nghiên cứu,
thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
Khi thực hiện đấu thầu hạn chế, phải mời tối thiểu 5 (năm) nhà thầu được xác
định là có đủ năng lực và kinh nghiệm tham gia đấu thầu; trường hợp thực tế có ít hơn
năm nhà thầu, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản

xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc áp dụng hình thức
lựa chọn khác.
Chỉ định thầu: Khi thực hiện chỉ định thầu, phải lựa chọn một nhà thầu được xác
định là có đủ năng lực và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu của gói thầu và phải tuân
thủ quy trình thực hiện chỉ định thầu.
Mua sắm trực tiếp: Mua sắm trực tiếp được áp dụng khi hợp đồng đối với gói
thầu có nội dung tương tự được ký trước đó khơng q sáu tháng.
Khi mua sắm trực tiếp, được mời nhà thầu trước đó đã được lựa chọn thơng qua
đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội dung tương tự.

23


Được áp dụng mua sắm trực tiếp để thực hiện gói thầu tương tự thuộc cùng một
đề tài, dự án hoặc thuộc đề tài, dự án khác.
Đơn giá đối với các nội dung thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không
được vượt quá đơn giá của các nội dung tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã ký hợp
đồng trước đó. Trường hợp tại thời điểm mua sắm mà giá cả hàng hố có biến động,
khơng phù hợp với việc mua sắm trực tiếp thì phải tổ chức đấu thầu như một gói thầu
mới.
Chào hàng cạnh tranh trong mua sắm tài sản: Khi thực hiện chào hàng cạnh
tranh, phải gửi yêu cầu chào hàng cho các nhà thầu. Nhà thầu gửi báo giá đến bên mời
thầu một cách trực tiếp, bằng fax hoặc qua đường bưu điện. Đối với mỗi gói thầu phải
có tối thiểu ba báo giá từ ba nhà thầu khác nhau.
1.2.5 Các phương thức đấu thầu.
Các phương thức đấu thầu chủ yếu bao gồm:
-

Đấu thầu 01 túi hồ sơ: Phương thức đấu thầu một túi hồ sơ được áp dụng


đối với hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa,
xây lắp, gói thầu EPC. Nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất
về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành một lần.
Đấu thầu 02 túi hồ sơ: Phương thức đấu thầu hai túi hồ sơ được áp dụng đối với
đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn. Nhà thầu
nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời
thầu. Việc mở thầu được tiến hành hai lần; trong đó, đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở
trước để đánh giá, đề xuất về tài chính của tất cả các nhà thầu có đề xuất kỹ thuật được
đánh giá là đáp ứng yêu cầu được mở sau để đánh giá tổng hợp. Trường hợp gói thầu có
yêu cầu kỹ thuật cao thì đề xuất về tài chính của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất
sẽ được mở để xem xét, thương thảo.
Phương thức đấu thầu hai giai đoạn: được áp dụng đối với hình thức đấu thầu
rộng rãi, đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ
thuật, cơng nghệ mới, phức tạp, đa dạng và được thực hiện theo trình tự sau đây:
a) Trong giai đoạn một, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn một, các nhà thầu nộp đề
xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có giá dự thầu; trên cơ sở trao đổi với
từng nhà thầu tham gia giai đoạn này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai;
24


b) Trong giai đoạn hai, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã tham
gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất về kỹ
thuật; đề xuất về tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu.

Cơng tác đấu thầu đóng góp những thành tựu to lớn cho sự phát triển kinh tế, thể
hiện vai trò quan trọng trong các hoạt động của kinh tế thị trường, cụ thể vai trò của
hoạt động đấu thầu thể hiện cơ bản qua các mặt sau:
-

Là một công cụ quan trọng của kinh tế thị trường, giúp người mua (BMT)


và người bán (nhà thầu) gặp nhau thông qua cạnh tranh.
-

Phát triển các ngành sản xuất theo hướng chun mơn hố sâu và hợp tác

hố rộng đồng thời phát triển thị trường đấu thầu. Thông qua đấu thầu đã phát triển
được thị trường người bán, nhiều doanh nghiệp nhà thầu lớn mạnh, nhiều doanh
nghiệp được thành lập mới hoặc đặt chân vào thị trường đấu thầu, kích thích thị trường
trong nước phát triển chống được sự độc quyền tự nhiên. Các CĐT, BMT cũng được
tăng cường về năng lực, họ có thêm kiến thức, thơng tin và trở thành những người mua
ngày một thông thái hơn. Bên cạnh đó, hoạt động đấu thầu góp phần tạo động lực cho
sự phát triển nhờ tăng cường sự công khai, minh bach, công bằng, hiệu quả và thúc đẩy
cạnh tranh các hoạt động mua sắm bằng nguồn vốn của Nhà nước cho các cơng trình
cơng cộng.
-

Là một cơng cụ quan trọng giúp các chính phủ quản lý chi tiêu, sử dụng

các nguồn vốn của Nhà nước sao cho có hiệu quả và chống thất thốt, lãng phí. Đó là
những khoản tiền được chi dùng cho đầu tư phát triển mà có sự tham gia của các tổ
chức nhà nước, DNNN ở một mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các hoạt
động của bộ máy Nhà nước.
-

Cùng với pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí, pháp luật về

tham phịng- chống tham nhũng tạo thành công cụ hữu hiệu để chống lại các hành vi
gian lận, tham nhũng và lãng phí trong việc chi tiêu các nguồn tiền của Nhà nước, góp
phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội nhờ thực hiện các hoạt động mua sắm

công theo đúng luật pháp của Nhà nước.
25


×