Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Quan điểm của Đảng và nhà nước về Giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên các trường học.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.47 KB, 30 trang )

Quan điểm của Đảng và nhà nước về Giáo dục thể chất cho học sinh,
sinh viên các trường học.
Từ trước tới nay, trung thành với học thuyết Mác - Lê Nin, Đảng, nhà
nước ta và Hồ Chủ Tịch rất chú ý đến giáo dục toàn diện cho thế hệ thanh thiếu
niên, học sinh, sinh viên trong các trường học từ phổ thông đến đại học, thường
xuyên quan tâm đến TDTT, coi đó là một mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp
giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh thiếu niên. Với tư tưởng chỉ đạo đó,
Đảng, nhà nước ta không ngừng tạo ra những điều kiện kinh tế và xã hội thuận
lợi, để biến học thuyết phát triển con người toàn diện thành hiện thực trong đời
sống xã hội nước ta. [59,60]
Tư tưởng của học thuyết Mác - Lê Nin về thể dục thể thao đã được cụ thể
hoá trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính phủ và của Hồ Chủ Tịch. Bác
Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam và là nhà văn hoá lớn, sinh thời, Bác
rất quan tâm đến hoạt động TDTT, lịch sử đã chứng minh: Bác Hồ là người khai
sinh, người sáng lập nền TDTT cách mạng nước ta. Tư tưởng bao trùm của Bác
Hồ trong việc đặt nền tảng xây dựng nền TDTT mới của nước ta là sự khẳng
định có tính chất cách mạng của công tác TDTT, là nhu cầu khách quan của một
xã hội phát triển, là nghĩa vụ của mỗi một người dân yêu nước. Mục tiêu cao
đẹp của TDTT là bảo vệ, tăng cường sức khoẻ của nhân dân, góp phần cải tạo
nòi giống, làm cho dân cường nước thịnh. Những ý tưởng đó, được xuyên suốt
trong các lời huấn thị, văn kiện, bài viết của Bác Hồ.[3,10,59]
Ngay từ tháng 3 năm 1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận
Việt Minh, Bác Hồ nêu rõ: “Khuyến khích và giúp đỡ nền TDTT quốc dân, làm
cho nòi giống thêm khoẻ mạnh”. Sau khi nước nhà vừa mới độc lập, chính
quyền Cách mạng còn non trẻ, đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn như
thù trong, giặc ngoài, kinh tế đói kém, xã hội chưa ổn định... Vậy mà, ngày 30
tháng 1 năm 1946, với tầm nhìn chiến lược, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành
lập Nha thể dục trung ương thuộc bộ thanh niên, trên cơ sở: “Xét vấn đề thể dục
rất cần thiết, để bồi bổ sức khoẻ quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam”. Ngay
sau đó, ngày 27.3.1946, Hồ Chủ Tịch lại ra Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục.
Trong thư, lần đầu tiên người đã chỉ ra cho nhân dân ta thấy rằng: “Giữ gìn dân


chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới
làm thành công:, và người cũng đã chỉ rõ: Muốn có sức khỏe thì: “Nên tập
luyện thể dục thể thao” và coi đó là: “Bổn phận của mỗi ngưòi dân yêu nước”.
[60]
Ngày 31.3.1960, Bác Hồ đã tự tay viết thư gửi hội nghị cán bộ TDTT
toàn miền Bắc. Trong thư Người dạy: “Giữ Gìn dân chủ, xây dựng nước nhà,
gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành công”, và Người
đã chỉ rõ muốn có sức khoẻ thì: “Nên luyện tập “Muốn lao động, sản xuất và
học tập tốt, thì cần có sức khoẻ. Muốn có sức khoẻ thì nên thường xuyên luyện
tập TDTT. Vì vậy, chúng ta nên phát triển phong trào TDTT cho rộng khắp.
Đồng thời, Bác còn luôn qua tâm đến sức khoẻ của nhân dân, Bác rất tin yêu và
luôn quan tâm đến sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ. Về thăm trường đại học
TDTT TW I năm 1961, Bác đã căn dặn: “Các cháu học TDTT ở đây không phải
đạt ông kiện tướng này, bà kiện tướng kia mà cái chính là làm người cán bộ
phục vụ đắc lực cho nhân dân, đem hiểu biết của mình hướng dẫn mọi người
cùng tập luyện để nâng cao sức khoẻ, đẩy lùi bệnh tật”.[59,60]
Đề cập về tầm quan trọng của thể dục thể thao khi phê phán tình trạng
yếu kém về GDTC trong nhà trường của nước ta thời Pháp thuộc, Phan Bội
Châu - một nhân sỹ yêu nước lỗi lạc đã viết: “Các môn trong trường tiểu học,
không có môn gì quan trọng hơn môn thể dục, thế mà trong trường không có
môn học đó. Thể dục tay không, thể dục với vũ khí, thể dục giải trí cho đến các
thứ vận động khác, đều không được đưa vào trong chương trình giảng dạy. Lạ
hơn nữa, là các trường tiểu học của trẻ em người Pháp thì có sân thể dục, sân
vận động, mà trường tiểu học của con em người Việt Nam thì ngược lại vì trẻ
em người Việt Nam mà khoẻ mạnh thì người Pháp “không ưa”, nên môn thể dục
phải là môn “nghiêm cấm”.
Sau Cách Mạng Tháng Tám thành công, Đảng và nhà nước ta luôn quan
tâm đến nền TDTT cách mạng. Đảng lãnh đạo công tác TDTT bằng việc hoạch
định dường lối, quan điểm, chính sách, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kế
hoạch, đưa công tác TDTT lên một tầm cao mới. Trong chiến lược phát triển

kinh tế xã hội năm 2001 – 2002, Đảng ta chủ trương: “Đẩy mạnh hoạt động thể
thao, nâng cao thể trạng và tầm vóc người Việt Nam”.[7]
Đường lối quan điểm của Đảng được thể hiện ở nhiều nghị quyết, chỉ thị
trong suốt thời kỳ lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên xây
dựng CNXH, qua các thời kỳ Đại Hội Đại biểu toàn quốc của Đảng: “Từng
bước xây dựng nền TDTT XHCN phát triển cân đối, có tính chất dân tộc, khoa
học và nhân dân”.[3,6,8]
“Công tác TDTT cần coi trọng, nâng cao chất lượng GDTC trong các
trường học, tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo nhân dân rèn luyện thân
thể hàng ngày”.[5]
Giáo dục toàn diện là mục tiêu luôn luôn được Đảng và nhà nước luôn
quan tâm, nhằm chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ 21. Bàn
về định hướng công tác giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ trong những
năm tới: nghị quyết TW II, khoá 8 đã khẳng định: “Cùng với khoa học công
nghệ, Giáo dục và đào tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu” [19].
“Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh phải
có con người phát triển toàn diện, tức là không chỉ phát triển về mặt trí tuệ, đạo
đức, mà còn phải cường tráng về thể chất, là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất
cả các cấp, các ngành, các đoàn thể, trong đó có giáo dục và đào tạo, y tế và
TDTT”.[59]
Chỉ thị 36 CT/TW của Ban Bí Thư Trung ương Đảng về công tác TDTT
trong giai đoạn mới nêu rõ: “Những năm gần đây, công tác TDTT đã có nhiều
tiến bộ, phong trào TDTT từng bước mở rộng với nhiều hình thức, ở một số
ngành, địa phương đã được chú ý đầu tư nâng cấp, xây dựng mới. Tuy nhiên,
TDTT ở nước ta đang ở trình độ thấp, số người thường xuyên tập luyện TDTT
còn rất ít, đặc biệt là thanh niên chưa tích cực tham gia tập luyện. Hiệu quả
GDTC trong các trường học và trong các lực lượng vũ trang còn thấp”[18].
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém là do: nhiều cấp uỷ Đảng,
chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và còn xem nhẹ vai trò TDTT trong sự
nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người; Chưa thực sự coi

TDTT là một bộ phân trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng, nhà nước chưa có chế độ phù hợp với yêu cầu phát triển TDTT, đầu tư
cho lĩnh vực này còn kém hiệu quả, chưa phát huy được vai trò chủ động, sáng
tạo của nhân dân, nhằm phát triển TDTT.
Trước tình hình mới, sự nghiệp TDTT cần phát triển theo định hướng đã
nêu rõ: “TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã
hội của Đảng và nhà nước, nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe thể lực, giáo dục
nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh
thần của nhân dân, nâng cao năng xuất lao động của xã hội và sức chiến đấu của
các lực lượng vũ trang” (trích chỉ thị 36 CT/TW, ngày 24.3, Năm1994 của Ban
Bí Thư Trung ương Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn mới) [9,18].
Chỉ thị 36 CT/TW còn khẳng định: “Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công
tác TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức
khoẻ, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân. Thực hiện
GDTC trong tất cả các trường học, nhằm mục tiêu làm cho việc tập luyện
TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết sinh viên” [18].
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp TDTT nước nhà,
Thủ tướng chính phủ đã ban hành chỉ thị 133/TTG về việc xây dựng quy hoạch
ngành TDTT, trong đó ghi rõ: “Ngành TDTT phải xây dựng định hướng phát
triển có tính chất chiến lược, trong đó quy định các môn thể thao và các hình
thức hoạt động mang tính phổ cập đối với mọi đối tượng, lứa tuổi, tạo thành
phong trào tập luyện rộng rãi của thể thao quần chúng, khoẻ để xây dựng và bảo
vệ tổ quốc”. Bộ giáo dục và đào tạo cần đặc biết coi trọng việc GDTC trong nhà
trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khoá, ngoại khoá, quy định tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh ở các cấp học, phải có sân bãi, nhà tập
TDTT, có định biên hợp lý và có kế hoạch tích cực đào tạo đội ngũ giáo viên
TDTT, đáp ứng nhu cầu ở tất cả các cấp học. Bộ giáo dục và đào tạo cần có một
thứ trưởng chuyên trách chỉ đạo công tác TDTT trường học” [21].
Thực hiện chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, ngày 21.4.1997, Bộ trưởng

Bộ giáo dục và đào tạo và Tổng cục TDTT (nay là Bộ văn hóa, thể thao và du
lịch), đã ký văn bản thoả thuận đề nghị chính phủ phê duyệt kế hoạch phát triển
đến năm 2010, trong đó nêu rõ một số điểm sau đây[23,24]:
- Mục tiêu GDTC trường học từ mẫu giáo đến đại học là góp phần đào tạo thế hệ
trẻ phát triển toàn diện về nhân cách, trí tuệ và thể chất phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Do điều kiện giảng dạy nội khoá chưa đáp ứng được yêu cầu của GDTC, Bộ
giáo dục và đào tạo và uỷ ban TDTT chỉ đạo các trường học, khuyến khích và
hướng dẫn học sinh tập luyện những môn thể thao ưa thích tại trường, gia đình
và các câu lạc bộ thể thao nơi cư trú.
- Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể thao cấp học, đặc biệt là Hội khoẻ Phù
đổng, phát triển mạnh các câu lạc bộ TDTT và các trung tâm thể thao sinh viên,
làm cơ sở tập luyện nâng cao thành tích một số môn thể thao trọng tâm và vấn
đề GDTC cho sinh viên trường học.[25]
- Quán triệt sâu sắc nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Hiến Pháp nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật của chính phủ về
công tác TDTT trong tình hình mới, cũng tiếp tục khẳng định cần phải khắc
phục thực trạng giảm sút thể lực của sinh viên hiện nay. Hai ngành giáo dục và
đào tạo - TDTT đã thống nhất những nội dung biện pháp và hợp đồng trách
nhiệm chỉ đạo, nhằm thúc đẩy nhanh và nâng cao chất lượng GDTC cho sinh
viên: “Hai ngành nhất trí xây dựng chương trình mục tiêu cải tiến nâng cao chất
lượng GDTC” [33,34,35,36,37].
Với nội dung phối hợp giữa hai ngành, Bộ giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo
các cấp học giảng dạy thể dục ngoại khoá, theo chương trình kế hoạch có nề
nếp, đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc các quy phạm đánh giá quá trình dạy -
học thể dục, quy chế GDTC sinh viên; nghiên cứu và diều chỉnh chương trình
thể dục các cấp, thực hiện kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho sinh viên.
Từng bước áp dụng thống nhất giữa các vùng, khu vực trên toàn quốc. Điều
chỉnh và ban hành tài liệu giảng dạy bao gồm sách giáo khoa, sách hướng dẫn
phương pháp giảng dạy, tập luyện TDTT cho từng cấp học. Bảo đảm cơ sở vật

chất tối thiểu để phục vụ việc thực hiện chương trình ngoại khoá; phát động
phong trào tập luyện rộng khắp trong các nhà trường, với mục tiêu: “Mỗi sinh
viên biết chơi một môn thể thao”; Chỉ đạo việc cải tiến chương trình, hình thức
hoạt động TDTT ngoại khoá, mở rộng mạng lưới câu lạc bộ TDTT sinh viên.
Tập trung hỗ trợ về cán bộ, cơ sở vật chất để củng cố, thành lập câu lạc bộ
TDTT mới, để thu hút nhiều sinh viên tham gia tập luyện.[20,21,22]
Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo, đã ban hành quy chế 931/RLTC về
công tác GDTC trong nhà trường là: “Các trường từ mầm non đến đại học phải
đảm bảo thực hịên dạy môn thể dục theo quy định cho học sinh, sinh viên”.
GDTC bao gồm nhiều hình thức và có liên quan chặt chẽ với nhau. Giờ học thể
dục, tập luyện thể thao theo chương trình, giờ tự tập luyện của học sinh, sinh
viên, giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường. TDTT là phương tiện quan
trọng để giáo dục thể chất. Chương trình thể dục và các hình thức GDTC khác
được sắp xếp phù hợp với trình độ sức khoẻ, giới tính và lứa tuổi. Hàng năm,
sinh viên tự tập luyện thể thao ngoại khoá ở trường, ở nhà (ở ký túc xá đối với
các trường có học sinh nội trú). Nhà trường phải có kế hoạch hướng dẫn học
sinh, sinh viên tập luyện thường xuyên, tổ chức ngày hội thể thao của trường và
xây dựng thành nề nếp truyền thống. Kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể
theo lứa tuổi và chỉ tiêu phát triển thể lực cho học sinh, sinh viên theo quy định
của chương trình GDTC”.[25]
GDTC trong các trường đại học và cao đẳng có tác dụng tích cực trong
việc hoàn thiện phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách của người sinh viên.
Tăng cường và phát triển thể chất, phục vụ tốt cho công tác học tập, nghiên cứu
khoa học, đồng thời trang bị cho sinh viên kiến thức và phương pháp khoa học
tập luyện thể thao, củng cố và trau dồi sức khoẻ góp phần xây dựng phong trào
TDTT lớn mạnh trong nhà trường. Để đáp ứng với yêu cầu, mục tiêu đào tạo,
Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành chương trình GDTC trong các trường đại
học, nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục: Trang bị kiến thức, kỹ năng về rèn
luyện thể lực cho học sinh, sinh viên.
Thể chất của con người biến đổi theo xu hướng nhất định. GDTC là một

quá trình nhằm hoàn thiện về mặt hình thể và chức năng của cơ thể con người,
nhằm hình thành và củng cố những kỹ năng, kỹ sảo vận động cơ bản quan trọng
trong đời sống, trong lao động sản xuất và chiến đấu. Trong các trường đại học
và cao đẳng, GDTC là mộ bộ phận quan trọng của giáo dục toàn diện cho sinh
viên, Bác Hồ đã nói: “Phải rèn luyện thân thể cho khoẻ mạnh thì mới tham gia
một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước lợi dân”.[60]
1.2 Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của giáo dục toàn diện
cho sinh viên.
1.2.1 Nhiệm vụ của giáo dục thể chất cho sinh viên.
Để đạt được mục tiêu GDTC cho thế hệ trẻ, đặc biệt là đối tượng sinh
viên các trường đại học và chuyên nghiệp, cần giải quyết những nhiệm vụ sau
đây:
- Nâng cao thể chất và sức khoẻ cho sinh viên.
Thể chất là đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức năng của cơ
thể con người, được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều kiện
sống.
Thể chất bao gồm thể hình, năng lực thể chất và năng lực thích ứng.
Thể hình liên quan đến hình thái, cấu trúc của thân thể, bao gồm trình độ
phát triển của cơ thể, những chỉ số tuyệt đối và tương đối của toàn thân hoặc
từng bộ phận và tư thế thân thể.
Năng lực thể chất thể hiện khả năng chức năng của các hệ thống, cơ quan
trong cơ thể, qua hoạt động cơ bắp là chính. Nó bao gồm các tố chất vận động
(sức nhanh, sức mạnh, độ dẻo, tính khéo léo, khả năng phối hợp vận động),
cùng các năng lực vận động cơ bản (đi, chạy, nhảy, ném, leo, chèo, mang, vác).
Một hoạt động vận động cụ thể, bao giờ cũng đòi hỏi một năng lực thể chất cụ
thể tương ứng.[50]
Năng lực thích ứng thể hiện khả năng thích ứng của cơ thể với hoàn cảnh
bên ngoài. Không chỉ là sự thích ứng đơn giản, mà còn là sự đề kháng với bệnh
tật phát sinh.
- Thúc đẩy phát triển thể hình lành mạnh.

Sự phát triển của thể hình chủ yếu dựa vào sự phát triển (lớn mạnh) của
từng tế bào và các chất gian bào, chính sự phát dục lại chỉ sự biến đổi về chức
năng và hình thái của các hệ thống và cơ quan trong cơ thể. Hai khái niệm trên,
có chỗ giống nhau và khác nhau, tuy chúng đều chỉ sự chi phối của các yếu tố di
truyền, dinh dưỡng, sự lớn mạnh tự nhiên và điều kiện sống. Tập luyện TDTT
có thể đẩy mạnh, nâng cao hơn thể trạng và duy trì được lâu hơn, làm chậm quá
trình suy giảm khi tuổi cao.
Sự hoàn thiện về thể hình và tư thế thân thể, làm cho ngoại hình thêm
đẹp, phần nào cũng phản ánh mức hoàn thiện về chức năng. Ngày nay, người ta
còn coi đó cũng thể hiện một phần bộ mặt tinh thần, văn minh của dân tộc.
Mặt khác, một cơ thể cường tráng lại là cơ sở vật chất của các năng lực chức
năng khác.[50,55]
- Phát triển toàn diện các năng lực thể chất.
Năng lực thể chất bao giờ cũng gắn chặt chẽ với chức năng của cơ thể.
Khi ta tập luyện chạy bền, thì đồng thời nâng cao được khả năng hoạt động lâu
dài của các hệ thống tim mạch, hô hấp, cơ bắp. Do đó, phát triển toàn diện các
năng lực thể chất cũng là một nhân tố quan trọng, thúc đẩy sự cải thiện về hình
thái chức năng và ngược lại. Đồng thời năng lực thể chất còn là điều kiện tất
yếu, đầu tiên cho sự tiếp thu, nâng cao trình độ thể thao của người tập.
- Nâng cao năng lực thể chất của cơ thể.
Tập luyện lâu dài, có hệ thống trong các điều kiện đa dạng, thay đổi về
thời tiết, khí hậu, địa thế sẽ có lợi cho nâng cao năng lực thích ứng trước các
điều kiện tự nhiên khác nhau. Mặt khác, cũng làm tăng cường khí huyết lưu
thông và khả năng tạo máu, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, do đó sẽ nâng cao
được sức đề kháng với vi khuẩn gây bệnh, bệnh tật và kịp thời góp phần, trị
được cả những căn bệnh của nền văn minh (động mạch vành, béo phì huyết áp,
tâm thần).
Thân thể, tinh thần và trí tụê con người không tách rời nhau, thể chất
cường tráng, tinh lực sung mãn, sức sống dồi dào, có ảnh hưởng to lớn đến
trạng thái tinh thần của con người và ngược lại. Kinh nghiệm và y học cổ kim,

đông tây y đã nói nhiều tới ảnh hưởng của những vết thương tinh thần của các
cơ quan trong cơ thể. Đồng thời, nhiều đời nay người ta đã biết đến những dạng
tập luyện TDTT để điều hoà trạng thái tâm lý, phòng trị một số bệnh tật. Do đó,
khi nói về tác dụng của TDTT, về giá trị sức khoẻ, Bác Hồ luôn gắn: “Khí huyết
lưu thông” và “tinh thần đầy đủ” với nhau. [50,55,56]
- Thể dục thể thao góp phần làm phong phú đời sống văn hoá và giáo dục con
người mới.
Thực tế nước ta cũng như nhiều nước khác cho thấy: Giải trí, tập luyện,
biểu diễn, thi đấu… về TDTT là một nhu cầu ngày càng nhiều, mạnh, không thể
thiếu hoặc thay thế đựơc. Nếu làm tốt, nó có thể góp phần đáng kể vào việc xây
dựng đời sống văn hoá vui tươi lành mạnh và văn minh trong xã hội. Còn ngược
lại, nó cũng ảnh hưởng xấu và hậu quả cũng rất phức tạp, dễ lan rộng. Trong xã
hội hiện đại, thể thao và văn nghệ với những đặc tính riêng của nó, đã có sức
thu hút và ảnh hưởng rộng lớn với thanh thiếu niên, là một nhu cầu không thể
thiếu được. Đó cũng là một công cụ để chuyển tải những giá trị tư trưởng, tinh
thần của một chế độ đến với họ.[46]
Là những chuẩn mực và phép tắc của một chế độ chính trị - kinh tế nhất
định, đặt ra để quy định mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã
hội, nhằm phục vụ cho chế độ xã hội chúng ta, đạo đức có vai trò hàng đầu, “cái
gốc” trong giáo dục con người. Đó là một quá trình tác động có mục đích có kế
hoạch đến ý thức, tình cảm và hành vi con người, nhằm bồi dưỡng nền đạo đức
tốt đẹp của họ. Khi con người đã có đạo đức, phẩm chất tốt, họ sẽ tự nguyện,
tích cực cống hiến toàn bộ sức mình cho đất nước. [56]
Các nhiệm vụ trên có liên quan mật thiết với nhau, cần kết hợp chặt chẽ
trong khi thực hiện. Chúng cần được quán triệt phù hợp với từng bộ phận trong
hoạt động TDTT như: dạy học TDTT, huấn luyện thể thao, thi đấu thể thao, rèn
luyện thân thể hàng ngày, giữa chúng có những nét chung và khác biệt. Nhiệm
vụ ưu thế, tính chất, mức độ, yêu cầu và cách thức thực hiện có chỗ khác nhau.
Rèn luyện thân thể hàng ngày là một quá trình hoạt động TDTT trong
quần chúng có nhiệm vụ chính là tăng cường thể chất.

Huấn luyện thể thao là một quá trình GDTC đặc biệt, nhằm không ngừng
nâng cao trình độ các tố chất vận động, kỹ - chiến thuật chuyên môn, đạo đức, ý
chí chiến đấu thể thao, lại là một biện pháp quan trọng để kiểm tra, thúc đẩy,
nâng cao hiệu quả của GDTC, rèn luyện thân thể, huấn luyện thể thao.
Do đó, khi thực hiện các nhiệm vụ TDTT trên từng bộ phận, từng người,
cần nắm rõ chức năng chuyên môn cụ thể của mình, không thể lẫn lộn, thay thế
hoặc bỏ qua. Nếu từng bộ phận nhỏ thực hiện tốt theo đúng chức năng của
mình, sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ lớn chung của TDTT trong cả nước.
1.2.2 Những nguyên tắc giáo dục thể chất cho sinh viên.
1.2.2.1 Nguyên tắc phát triển hợp lý con người toàn diện và cân đối
Bác Hồ nói: “Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người mới
XHCN”. Câu nói đó, có ý nghĩa sâu sắc với công tác TDTT của chúng ta.
Ngay từ bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ hiện nay, TDTT trước hết và chủ
yếu gắn với và phục vụ cho sự nghiệp đào tạo con người, từng bước góp phần
giải quyết một mâu thuẫn của xã hội cũ để lại – nhu cầu của những tiến bộ trong
sản xuất xã hội với con người và điều kiện phát triển hạn chế của họ. Đó không
chỉ là một mong muốn, tiềm năng, mà là một sự cần thiết thật sự cho tiến bộ xã
hội. Có hai yêu cầu chính khi quán triệt nguyên tắc này trong TDTT.[59,60]
Thứ nhất khi thực hiện các nhiệm vụ khác nhau trong TDTT (hình thành
các kỹ năng vận động, phát triển các tố chất cận động…) phải chú ý bảo đảm sự
thống nhất giữa các mặt giáo dục, nhằm bồi dưỡng sinh viên thành con người
phát triển toàn diện, hợp lý. Tiền đề tự nhiên của mối tương quan giữa các mặt
giáo dục trên là sự thống nhất khách quan, không thể tách rời giữa sự phát triển
về thể chất và tinh thần của con người. Điều này, đã được nhiều nhà khoa học
về con người làm sáng tỏ. Bởi vậy, sự phân chia thành các mặt thể chất, trí tuệ,
thẩm mỹ, đạo đức… chỉ có ý nghĩa ưu thế tương đối, tuy chúng không đồng
nhất. Bản thân tiền đề tự nhiên của mối liên hệ này không thể biến thành hiện
thực, mà phải thông qua quá trình thực hiện giáo dục thống nhất, kết hợp có
mục đích và hợp lý các mặt giáo dục trên. Trong hoạt động TDTT, cũng như các
mặt văn hoá, giáo dục khác, phải có cách tiếp cận đồng bộ. Trong đó, đức dục

đóng vai trò chủ đạo, thì mới đạt được hiệu quả tốt trong các mặt giáo dục khác.
[46]
Thứ hai: phải cố gắng sử dụng đồng bộ các nhân tố, phương tiện, hình
thức hoạt động thể dục thể thao, sao cho phát triển toàn diện các tố chất thể lực,
năng lực vận động và có một “vốn” kỹ năng, kỹ xảo rộng rãi, phong phú, cần
thiết cho sự sống nói chung và hoạt động chuyên môn nói riêng.
Yêu cầu này bắt nguồn từ sự cần thiết chuẩn bị thể lực toàn diện cho cuộc
sống, phản ánh tính quy luật tự nhiên của sự phát triển thể chất con người. Qua
quá trình tiến hoá tự nhiên hàng vạn, hàng triệu năm, cơ thể chúng ta ngày nay
thực sự là thực thể hữu cơ, thống nhất và hoàn chỉnh. Những đặc tính, chức
năng của nó liên quan, tương tác và làm tiền đề cho nhau. Trong đó, sự phát
triển một đặc tính tự nhiên của cơ thể theo một hướng nào đó, bao giờ cũng ảnh
hưởng, chịu sự phụ thuộc vào sự phát triển của nó trong các hướng khác nhau.
Đương nhiên, sự phát triển thể chất toàn diện phải phù hợp với những quy luật
tự nhiên của sự tồn tại và hoàn thiện của cơ thể, đảm bảo được mối tương quan
giữa các đăc tính đã được hình thành trong quá trình tiến hoá, đồng thời cũng
mở rộng và nâng cao những khả năng thích nghi của cơ thể trước những điều
kiện luôn thay đổi từ bên ngoài. Đúng như P.F.Létsgáp, một nhà lý luận GDTC
nổi tiếng người Nga đã nói: “Chỉ có phát triển cân đối tất cả các cơ quan, cơ thể
con người mới thực sự được hoàn thiện và hoàn thành được công việc lớn nhất
với sự phát triển toàn diện này, không chỉ có ý nghĩa tự nhiên mà còn cả xã
hội”.[56]
Song, những yêu cầu, tiêu chuẩn về phát triển thể chất toàn diện, cần
được cụ thể hoá, căn cứ vào đặc điểm cá nhân, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,
môn thể thao… Nói một cách khác, mức phát triển này phụ thuộc vào những
nhân tố di truyền – cá biệt và một phức hợp những điều kiện thay đổi trong đời
sống và hoạt động. Không nên hiểu đó là sự phát triển dàn đều, đồng loạt như
nhau, theo một phương thức cứng nhắc.
Về nguyên tắc, sự phát triển cân đối các tố chất vận động, không chỉ có ý
nghĩa là không cho phép. Trên cơ sở đó, ưu thế phát triển những tố chất, phẩm

chất trội theo yêu cầu của hoạt động chuyên môn, đồng thời vẫn đảm bảo mối
quan hệ hợp lý với các tố chất, phẩm chất khác. Có thể thấy rõ hơn điều này
trong chuẩn bị thể lực cho VĐV các môn thể thao khác nhau cho những người
làm các nghề đặc biệt. Ở đây, cần kết hợp giữa chuẩn bị thể lực chung và
chuyên môn. Nhưng cái gốc, cơ bản, phổ thông, ban đầu nhất đối với mọi người
dân phải là tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Đó là quy định về yêu cầu phát triển
thể chất toàn diện với mọi người.
1.2.2.2. Nguyên tắc TDTT kết hợp và phục vụ cho lao động, quốc phòng.
Trong một xã hội nhân đạo, sự phát triển con người toàn diện và cân đối
không mâu thuẫn với những mục đích thực dụng của TDTT, mà ngược lại
chúng gắn liền và hòa nhập với nhau. Bởi vậy, sau nguyên tắc đầu tiên trên, còn

×