LỜI CAM ĐOAN
Tác giả của đề tài: “Hồn thiện cơng tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã
hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hịa Bình giai đoạn 2009-2012" xin cam đoan: Luận
văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, được tập hợp từ nhiều tài liệu, tự
thu thập các thông tin liên quan để đưa ra các giải pháp với mong muốn góp phần
nhỏ bé của mình vào việc hồn thiện cơng tác chi trả các chế độ BHXH tại BHXH
tỉnh Hịa Bình.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.
Hà Nội, ngày tháng
năm 2014
Tác giả luận văn
Bùi Thị Huệ
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian làm việc nghiêm túc, luận văn thạc sỹ của tơi đã được hồn
thành dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Vũ Quang. Tơi xin bày tỏ lịng
biết ơn sâu sắc đến thầy giáo TS. Vũ Quang trong suốt quá trình nghiên cứu và viết
đề tài đã nhiệt tình chỉ bảo phương hướng nghiên cứu và truyền đạt cho tôi những
kinh nghiệm, kiến thức q báu để tơi hồn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy, cô giáo trong Viện Kinh tế và
Quản lý - trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, đóng góp ý
kiến giá trị cho luận văn của tơi.
Bên cạnh đó, tơi xin chân thành cảm ơn Viện đào tạo sau Đại học - Trường
Đại học Bách Khoa Hà Nội, cơ quan BHXH tỉnh Hịa Bình và các Phịng nghiệp vụ
thuộc BHXH tỉnh Hịa Bình đã tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu và cung cấp số liệu
thực tế để tơi hồn thành luận văn thạc sỹ này
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới sự quan tâm, động viên của
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong thời gian vừa qua đã giúp tơi có thời gian và
nghị lực đề hồn thành tốt nhất luận văn tốt nghiệp này.
Tác giả
Bùi Thị Huệ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách bảo hiểm xã hội đã được Đảng, Nhà nước ta thực hiện từ năm
1960 của thế kỉ XX. Kể từ đó đến nay, chính sách bảo hiểm xã hội đã được phát
huy, đóng vai trị quan trọng trong cuộc sống của những người lao động. Bảo hiểm
xã hội (BHXH) luôn có mặt khi người lao động gặp những rủi ro: ốm đau, bệnh tật,
tai nạn, tuổi già và những khó khăn khác trong cuộc sống.
Chi Bảo hiểm xã hội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ Bảo
hiểm xã hội và liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người lao động. Chỉ có chi
đúng, chi đủ, chi kịp thời và an toàn đến tay người tham gia Bảo hiểm xã hội mới
đảm bảo quyền lợi của họ cũng như phát huy hết vai trị của chính sách Bảo hiểm xã
hội. Công tác chi trả Bảo hiểm xã hội phản ánh chất lượng của dịch vụ bảo hiểm xã
hội và trong một trừng mực nhất định, nó cịn thể hiện tính ưu việt của một chế độ
xã hội.
Thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm xã hội tỉnh Hịa Bình
được thành lập ngày 01-10-1997, có nhiệm vụ thực hiện chính sách Bảo hiểm xã
hội. Từ tháng 01-2003 thực hiện thêm chính sách Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh.
Đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng đơng vì vậy vấn đề chi trả cũng gặp nhiều
khó khăn, chẳng hạn như: đối tượng quản lý và nguồn kinh phí chi trả phức tạp,
phương tiện và chi phí chi trả chưa đáp ứng đủ nên ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự an
tồn trong q trình vận chuyển.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và mong muốn được tìm
hiểu và đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần giải quyết những khó khăn đó nên
em chọn đề tài: “Hồn thiện cơng tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo
hiểm xã hội tỉnh Hịa Bình giai đoạn 2009-2012” để làm luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích của đề tài là nghiên cứu
Tổng hợp và hệ thống hóa cơng tác chi trả chế độ BHXH tại tỉnh Hịa Bình
Phân tích thực trạng tổ chức cơng tác chi trả chế độ BHXH tại tỉnh Hịa Bình
1
giai đoạn 2009-2012. Từ đó rút ra những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến công tác
chi trả chế độ BHXH
Đề xuất một số giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện tổ chức công tác chi trả
chế độ BHXH tại tỉnh Hịa Bình
3.Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những hoạt động có liên quan tới tố
chức cơng tác chi trả chế độ BHXH tại tỉnh Hịa Bình
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện công tác chi trả
chế độ BHXH tại tỉnh Hịa Bình
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, trong quá trình nghiên cứu, tác
giả lựa chọn và sử dụng các phương pháp: Phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống kê và phương pháp nghiên cứu hệ thống
5. Đóng góp mới của Luận văn
Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về BHXH và vai trị
của cơng tác chi trả chế độ BHXH làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, phân
tích thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác chi trả chế độ BHXH
của tỉnh Hịa Bình
6. Kết cấu của Luận văn
Ngồi lời mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội và công tác chi trả các chế độ
Bảo hiểm xã hội.
Chương II: Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo
hiểm xã hội tỉnh Hịa Bình giai đoạn 2009-2012.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác chi trả các chế độ
Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hịa Bình.
2
CHƢƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC CHI TRẢ
CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội
1.1.1 Khái niệm về Bảo hiểm xã hội
BHXH đã hình thành rất lâu, hệ thống BHXH đầu tiên được thiết lập tại Đức
vào năm 1850 và sau đó được hồn thiện với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi
ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã
hội: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Kinh nghiệm về BHXH
ở Đức sau đó được lan dần sang nhiều nước trên thế giới. Trong quá trình phát triển,
các chế độ BHXH và đối tượng BHXH ngày càng được mở rộng. Theo đó, khái
niệm BHXH cũng có nhiều thay đổi và ngày càng được hồn chỉnh.
Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về BHXH và cũng có rất nhiều khái
niệm BHXH được đưa ra. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra một định nghĩa
về BHXH được chấp nhận rộng rãi nhất:
Bảo hiểm xã hội: Là hình thức bảo trợ mà xã hội dành cho các thành viên
của mình thơng qua nhiều biện pháp cơng nhằm tránh tình trạng khốn khó về mặt
kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm đáng kể thu nhập vì bệnh tật, thai sản, tai nạn
lao động, mất sức lao động và tử vong, chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình có
con nhỏ [41].
Ở nước ta, hệ thống ASXH mà đặc biệt là cơ chế BHXH đã hình thành rất
sớm, ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Về nội
dung thực hiện, xét từ năm 1945 đến nay, Việt Nam gần như thực hiện đầy đủ các
chế độ cần có của cơ chế BHXH và rất nhiều cơ chế khác của ASXH mà các quốc
gia khác trên thế giới đang thực hiện, thể hiện nét ưu việt và sáng tạo trong hệ thống
ASXH của Việt Nam. Hiện nay, hệ thống này tương đối phức tạp, bao gồm: BHXH;
cứu trợ xã hội; ưu đãi xã hội; chăm sóc xã hội; dịch vụ xã hội và các đảm bảo khác
cung cấp bởi người sử dụng lao động.
3
Dưới góc độ kinh tế, BHXH được coi là quá trình tổ chức và sử dụng một
quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích từ sự đóng góp của người sử dụng lao động,
người lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước theo quy định của pháp luật, nhằm hỗ trợ
cho việc giải quyết những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia
đình họ khi họ gặp những rủi ro dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng thanh toán từ
thu nhập theo lao động.
Với góc độ xã hội, BHXH được coi là sự liên kết của những người lao động
xuất phát từ lợi ích chung của xã hội, của người lao động và người sử dụng lao
động. Khi tham gia quan hệ này, người lao động sẽ được hưởng một khoản trợ cấp
nhất định nếu có những biến cố rủi ro, trên cơ sở tự đóng góp của các bên.
Nghiên cứu về BHXH, nhiều tác giả nước ngoài cũng đã đưa ra các định nghĩa khác
nhau về BHXH áp dụng riêng trong điều kiện của các nước đang phát triển. Các tác
giả có chung một quan điểm là BHXH không chỉ dừng lại ở việc mất đột ngột thu
nhập theo dự kiến mà còn tính đến cả việc ngăn chặn, giảm nghèo kinh niên và
mang lại mức sống tối thiểu. Cách tiếp cận BHXH mà mỗi nước lựa chọn còn tùy
thuộc vào mục tiêu chính sách quốc gia và điều kiện cụ thể của nền kinh tế.
Mặc dù khái niệm BHXH của Việt Nam được xác định trong từ điển Bách
khoa toàn thư Việt Nam cũng tương tự như khái niệm BHXH mà ILO đưa ra,
nhưng thực tế trong quá trình thảo luận, xây dựng chính sách, cũng có nhiều định
nghĩa BHXH khác do các tổ chức quốc tế và trong nước đưa ra, đề cập đến các mặt
khác nhau của BHXH ở Việt Nam. Trong đó, có nhiều định nghĩa quá rộng hoặc
quá chung chung, không thể áp dụng trong điều kiện thực tế ở Việt Nam.
Khái niệm BHXH được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của luận văn này là khái
niệm BHXH đã được ghi trong Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khố XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/06/2006.
Bảo hiểm xã hội: Là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng
vào quỹ bảo hiểm xã hội [33].
4
Bảo hiểm xã hội bắt buộc: Là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động
và người sử dụng lao động phải tham gia [33].
1.1.2 Vai trò của Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội có vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia, vai trị đó được thể hiện qua các mặt sau:
- Đối với người lao động:
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hồn thiện q trình
cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa thì những “rủi ro” như ốm đau, tai nạn lao động –
bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm… lại diễn ra một cách thường xuyên và
ngày càng phổ biến hơn và phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây ra
những khó khăn cho người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không
tốt cho cả xã hội.
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước,
BHXH sẽ góp phần giúp cho cá nhân người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng
cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi…
giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai.
Từ đó, góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng
cơng việc cho doanh nghiệp nói riêng và cho tồn xã hội nói chung.
- Đối với người sử dụng lao động:
Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát triển
của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình sản xuất để
tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết vận dụng
sức lao động của công nhân để tạo ra sản phẩm cho xã hội đó chính là người sử
dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người
chủ sử dụng lao động phải tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết
những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của người sử dụng lao động thật tốt để
người lao động yên tâm tham gia lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống, từ
đó lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình
sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động đạt kết quả cao. Muốn vây, chủ sử
5
dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho người lao động của mình để BHXH
đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp phải
những rủi ro bất chắc như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp...
Việc tham gia đóng BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động là góp
phần vào q trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển hơn,
nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu
nhập cho người lao động và góp phần vào phát triển kinh tế.
- Đối với nền kinh tế:
Góp phần gắn bó giữa giới chủ và giới thợ từ đó làm cho thị trường lao động
phát triển lành mạnh, bền vững. Đặc biệt là mâu thuẫn vốn có của giới chủ và giới
thợ về cơ bản được giải quyết và đây là tiền đề rất quan trọng giúp cho người lao
động nâng cao năng suất lao động, phát huy sáng tạo, góp phần làm cho sản xuất
ngày càng phát triển.
Nhờ có chính sách BHXH mà quỹ BHXH được hình thành và tồn tích lại
theo thời gian và bắt đầu những năm 60 của thế kỷ 20 quỹ BHXH ở các nước, đặc
biệt là các nước phát triển đã trở thành một khâu tài chính trung gian vơ cùng quan
trọng góp phần đầu tư, phát triển, tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
- Đối với xã hội:
Thứ nhất: cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch
vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm”
cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất kỳ ai cũng cần đến.
Thứ hai: với tư cách là một trong những chính sách xã hội của Nhà nước,
BHXH sẽ bảo hiểm cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “trục
trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với người lao động góp phần phục hồi năng lực làm việc,
khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc
nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực vào nâng cao
năng suất lao động xã hội. BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng
của quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội.
6
Thứ ba: với tư cách là quỹ tiền tệ tập trung, nhằm tác động mạnh đến hệ
thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính
vì vậy, đặt ra một u cầu cho quỹ BHXH là phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng
nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển tiền “nhàn rỗi”
của quỹ. Phần này có tác động khơng nhỏ tới sự phát triển của đất nước, góp phần
tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho
người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tăng tổng sản
phẩm quốc dân nói chung.
Thứ tư: BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ
phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu
nhập này được phân phối theo hai cách: là phân phối theo chiều dọc và phân phối
theo chiều ngang; phân phối giữa những người khỏe với người già, giữa nam với
nữ, giữa người đang được hưởng trợ cấp với người chưa được hưởng trợ cấp và
phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội,
giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Về mặt kinh tế, nhờ có tổ
chức phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ ln
được đảm bảo trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội do có sự “san sẻ rủi
ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng một khoản nhỏ trong thu nhập của
mình vào quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải
những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH thực hiện nguyên tắc “lấy số đơng bù số ít”. Tuy
nhiên, tính kinh tế và xã hội của BHXH không tách rời nhau mà đan xen lẫn nhau.
Khi nói đến bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là nói lên tính xã
hội của BHXH, ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi
ro xã hội thì đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
1.1.3 Bản chất, chức năng của BHXH
1.1.3.1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội
Với những vai trò của BHXH đã nêu ở trên thì bản chất của BHXH được thể
hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
7
trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ
thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì
BHXH càng đa dạng và hồn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH
hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người
sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan
chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và
gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người
như: ốm đau, tai nạn lao đơng- bệnh nghề nghiệp… Hoặc có thể là những trường
hợp xảy ra khơng hồn tồn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản… Đồng thời những
biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngồi q trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp những biến
cố, rủi ro, sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn
tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngồi ra cịn
được sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao
động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
Nếu xét về yếu tố lịch sử thì BHXH được hình thành từ những năm 50 của
thế kỷ 19. Tuy nhiên bây giờ vẫn chưa có một khái niệm thật chuẩn mực về BHXH
vì các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu vẫn cịn có nhiều quan điểm khác nhau:
- Nếu đứng trên góc độ tài chính: thì BHXH là q trình san sẽ rủi ro, san sẻ
tài chính giữa các bên tham gia theo quy định thống nhất của pháp luật Nhà nước.
Sự san sẻ rủi ro giữa những người khỏe mạnh với những người gặp sự kiện bảo
hiểm, những người giàu với những người nghèo thơng qua sự đóng góp vào quỹ
tiền tệ tập trung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Qũy này được hình thành chủ yếu
8
do người lao động và người sử dụng đóng góp là chủ yếu, Nhà nước đóng và hỗ trợ
thêm và từ các nguồn khác nữa.
- Nếu đứng trên góc độ pháp lý: BHXH là một cơ chế pháp định bảo vệ người
lao động và gia đình họ thơng qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao động
tham gia bảo hiểm và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro. Khi người lao động
hoặc gia đình họ gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì quỹ BHXH sẽ chi trả
một khoản tiền giúp họ ổn định cuộc sống.
- Theo tổ chức lao động quốc tế ILO: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với
tất cả các thành viên của mình với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng
hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già
và chết, y tế, thai sản”.
- Thế giới quan niệm: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần
thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm
bảo an toàn xã hội”.
- Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH cũng được xuất phát trên cơ sở
quan hệ lao động và quan hệ quản lý xã hội, cụ thể:
+ Bên tham gia BHXH: có thể bao gồm người lao động, người sử dụng lao
động và nhà nước và có thể chỉ có người lao động và nhà nước.
+ Bên BHXH: thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước đứng ra
thành lập và bảo trợ, cơ quan này tổ chức hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật.
+ Bên được bảo hiểm chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ các
điều kiện ràng buộc cần thiết.
Cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên chính là quỹ tài chính
BHXH vì quỹ này do tất cả các bên tham gia đóng góp và mức đóng của từng bên là
do sự thỏa thuận giữa các bên sau đó được tiến hành luật hóa và cụ thể thực hiện.
Đứng trên bình diện xã hội thì BHXH là quá trình sử dụng một phần tổng sản
phẩm quốc nội để đảm bảo an toàn về kinh tế cho người lao động và toàn xã hội.
9
Bởi vậy, quỹ tài chính BHXH là điều kiện tiên quyết để san sẻ rủi ro, san sẻ tài
chính cho các bên tham gia.
Mục đích chính của BHXH là nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của người
lao động và gia đình họ trong trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất thu
nhập, mất việc làm. Mục đích này được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hóa như
sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất đi để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe chống lại bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư, nhu cầu đặc biệt
của người già và trẻ em.
Tất cả những mục đích nói trên, thế giới ngày nay đều thừa nhận và cho rằng
góp phần đảm bảo ASXH cho từng nước và toàn thế giới.
Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn
kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình sử dụng thu nhập cá
nhân và tổng sản phẩm trong nước(GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế cho
người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất
xã hội.
1.1.3.2. Chức năng của Bảo hiểm xã hội
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì quy cho
cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người khi hết tuổi lao động theo
các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm hoặc mất khả năng lao động
tạm thời, làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng được hưởng trợ cấp
BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn
hưởng theo đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH nó quyết định
nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa người lao động tham gia BHXH.
10
Tham gia BHXH khơng chỉ có người lao động mà có cả người sử dụng lao động.
Các bên tham gia phải đóng góp vào quỹ BHXH. Qũy này được dùng để trợ cấp
cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy
theo quy luật số đơng bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả
chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu ngập cao và
những người có thu nhập thấp… Thực hiện chức năng này có nghĩa BHXH đã góp
phần thực hiện cơng bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất từ
đó nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe
mạnh thì hăng hái sản xuất, lao động thì được chủ sử dụng lao động trả tiền công,
khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và khi về già thì được BHXH trợ cấp thay thế
nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ luôn được đảm bảo giúp họ yên
tâm lao động sản xuất. Giúp tăng năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người
lao động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động vốn có những
mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động. Thông
qua BHXH, những mâu thuẫn đó được điều hịa và giải quyết. Đối với Nhà nước và
xã hội thì chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng
vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp
phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an
toàn hơn.
1.1.4 Đối tƣợng của BHXH
Tuy BHXH ra đời rất lâu, nhưng đối tượng Bảo hiểm xã hội vẫn có nhiều
quan điểm chưa thống nhất. Đơi khi cịn nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với
đối tượng tham gia BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do
người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên
nhân như ốm đau, bệnh tật, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là
thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất
11
khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH.
Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao
động.Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có
thể là tất cả hoặc là một bộ phận người lao động tham gia BHXH. Người lao động
tham gia BHXH nhằm đảm bảo cuộc sống cho chính họ và gia đình họ khi họ gặp
phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm. Còn người sử dụng lao động họ tham gia bảo
hiểm để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng nhằm ổn định sản xuất.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH đều thực hiện BHXH đối với
các viên chức Nhà nước, những người làm cơng ăn lương. Vì khi đó BHXH chưa
phát triển và những đối tượng này chỉ có một khoản thu nhập cố định đó là tiền
lương của họ. Nếu họ không may gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì họ sẽ bị
mất thu nhập, và không thể trang trải cuộc sống. Khi tham gia BHXH nếu họ khơng
may gặp phải sự kiện bảo hiểm thì được quỹ BHXH chi trả giúp họ ổn định cuộc
sống.
1.1.5 Các chế độ của BHXH
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định
cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với
người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa
về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế
độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các
thông tư, điều lệ… Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó
có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách
BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề
mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán
trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Tại hội nghị quốc tế về lao động hàng năm, tổ chức quốc tế về lao động (ILO)
đã thông qua công ước 102 (6/1952), công ước đầu tiên về những quy phạm tối
thiểu của BHXH gồm 9 chế độ trợ cấp như sau:
1. Chăm sóc y tế
12
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp tuổi già
4. Trợ cấp thất nghiệp
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp thai sản
8. Trợ cấp tàn tật
9. Trợ cấp tử tuất.
Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của từng nước mà hệ thống này có thể thực
hiện được tồn bộ hoặc cũng có thể thực hiện được một số chế độ nào đó. Nhưng
một quốc gia được gọi là có hệ thống chế độ BHXH ít nhất thực hiện được 3 chế độ
trong đó ít nhất phải có một trong sáu chế độ sau chế độ (2) Trợ cấp ốm đau; (3)
Trợ cấp thất nghiệp; (4) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (8) Trợ cấp
cho người tàn phế; (9) Trợ cấp tử tuất; Chăm sóc y tế (1)
Các chế độ bảo hiểm xã hội gồm có
- Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây:
+ ốm đau;
+Thai sản;
+ Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
+ Hưu trí;
+Tử tuất.
- Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây:
+ Hưu trí;
+ Tử tuất.
- Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ sau đây:
+ Trợ cấp thất nghiệp;
+ Hỗ trợ học nghề;
+ Hỗ trợ tìm việc làm.
Có nhiều yếu tố khoa học tác động đến điều kiện, thời gian và mức hưởng trợ
13
cấp trong từng chế độ, cũng như khả năng áp dụng bao nhiêu chế độ trong một hệ
thống: như tiền lương, thu nhập của người lao đông, hệ thống tài chính quốc gia…
Thời gian hưởng và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương
ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời khả năng thanh tốn cịn phụ thuộc vào khả
năng thanh tốn của quỹ tài chính BHXH.
Để hình thành hệ thống chế độ này cần phải dựa trên những cơ sở nhất định
như: cơ sở sinh học, cơ sở môi trường và điều kiện lao động, cơ sở kinh tế xã hội,
luật pháp của từng nước. Sau đây là đặc điểm hệ thống các chế độ:
- Chế độ chăm sóc y tế:
Người lao động là người tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần cho xã hội bởi
vậy muốn xã hội phát triển ổn định, bền vững thì trước hết quan tâm đến sức khỏe
cho họ kể cả khi bình thường hay khi ốm đau, tai nạn. Bởi vậy, tổ chức lao động
quốc tế coi đây là chế độ đầu tiên trong 9 chế độ BHXH. Mục đích là để bảo vệ và
phục hồi cải thiện sức khỏe cho người lao động, từ đó tái sản xuất sức lao động cho
họ giúp họ làm việc một cách bình thường. Đồng thời cịn giúp bản thân gia đình họ
ứng phó với các nhu cầu phát sinh cá nhân để đảm bảo cuộc sống.
Chế độ này có đối tượng rất rộng bởi vì khơng chỉ có người lao động tham
gia BHXH mà thậm chí cả vợ hoặc chồng con cái họ bởi lẽ nếu những người này
được chăm sóc y tế có cuốc sống khỏe mạnh bình thường thì bản thân người lao
động cũng yên tâm, phấn khởi tham gia sản xuất. Góp phần nâng cao năng suất lao
động cá nhân.
Đây là chế độ đặc thù trong 9 chế độ có đối tượng rộng nhưng BHXH sẽ tiến
hành chi trả trợ cấp theo tất cả những chi phí phát sinh trong suốt thời gian điều trị
chăm sóc những người được bảo vệ. Tuy nhiên để tránh chuộc lợi BHXH người ta
quy định người tham gia BHXH phải có ít thất 1 thời gian nhất định có đóng
BHXH. Đây là chế độ BHXH ngắn hạn vừa mang tính chất hồn trả vừa mang tính
chất khơng hồn trả. Những nước thiết lập quỹ BHYT thì mức phí phải nộp phụ
thuộc chủ yếu 3 yếu tố: số người tham gia BHXH; số người được chăm sóc y tế
14
hàng năm; chi phí bình qn một người được chăm sóc y tế hàng năm.
- Chế độ trợ cấp ốm đau:
Ốm đau là loại rủi ro rất phổ biến trong cuộc sống của mỗi con người và hầu
như ai cũng gặp phải. Khi bị ốm đau bản thân người ốm và gia đình gánh chịu
những chi phí phát sinh và nếu tham gia BHXH thì chế độ chăm sóc y tế gánh vác.
Nếu ốm đau còn điều trị dài ngày thì nghỉ ốm sẽ mất thu nhập và thu nhập bị gián
đoạn, khoản chế độ này sẽ được bù đắp hoặc thay thế bởi chế độ ốm đau. Bởi vậy
mục đích của chế độ này là nhằm đảm bảo tính liên tục về thu nhập cho người lao
động và gia đình họ, giúp họ ổn định cuộc sống. Việc quy định mức trợ cấp và thời
gian trợ cấp tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước.
Chế độ này cũng là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hồn trả, vừa
mang tính khơng hồn trả.
- Chế độ trợ cấp thất nghiệp
Thất nghiệp là loại rủi ro nghề nghiệp mà trong cơ chế thị trường người lao
động rất hay gặp phải đây là loại rủi ro có tác động rất lớn đến tất cả vấn đề kinh tế,
chính trị, xã hội của mỗi nước… thất nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau và
hậu quả vô cùng nặng nề bởi vậy ngày nay tất cả các nước, tất cả các nhà kinh tế,
nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng thất nghiệp là vấn đề nan giải khó giải
quyết. Thất nghiệp ln đi đơi với lạm phát. Mục đích của chế độ này góp phần ổn
định thu nhập và tâm lý cho người lao động cũng như gia đình họ giúp người lao
động bị thất nghiệp sớm có cơ hội và điều kiện quay trở lại thị trường lao động. Góp
phần ổn định kinh tế xã hội của mỗi nước bởi vì thất nghiệp ảnh hưởng sâu sắc đến
tất cả những lĩnh vực này…
Nếu quan sát thực trạng triển khai Bảo hiểm thất nghiệp ở tất cả các nước
trên thế giới thì mức trợ cấp thất nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố sau:
quỹ BHXH, tình hình biến động của thị trường lao động; chế độ tiền lương của
quốc gia. Điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Mức trợ cấp
thất nghiệp luôn luôn nhỏ hơn tiền lương, tiền công trước khi bị thất nghiệp nhưng
phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ trong thời gian
15
người lao động bị thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp ngắn hay dài
phụ thuộc vào thời gian tham gia BHXH của người lao động trước đó và tổ chức lao
động khuyến cáo thời gian trợ cấp có thể 13-26 tuần trong 1 năm. Chế độ trợ cấp
thất nghiệp cũng được coi là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hồn trả, vừa
mang tính khơng hồn trả. Hiện nay, Bảo hiểm thất nghiệp được triển khai dưới 2
dạng chủ yếu đó là: triển khai độc lập với BHXH hoặc coi đó là một chế độ của
BHXH.
- Chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN
Đây là một trong những chế độ được triển khai sớm nhất trên thế giới cũng
như ở Việt Nam bởi vì nó đáp ứng nhu cầu thực tế trước mắt của mọi người lao
động, bởi lẽ đây là loại rủi ro có thể phát sinh bất cứ lúc nào, ở đâu. Hiện nay, trên
thế giới có 178 nước triển khai chế độ này. Mục đích là góp phần đảm bảo thu nhập
cho người lao động, gia đình họ khi khơng may gặp tai nạn lao động…, phục hồi
khả năng lao động cho người lao động từ đó giúp họ sớm quay lại thị trường lao
động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao
động, trách nhiệm này thực hiện cả khi người lao động còn khỏe mạnh lẫn cả khi bị
tan nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Đây là chế độ vừa mang tính ngắn hạn, vừa mang tính dài hạn nên việc quản
lý rất khó khăn nó liên quan đến ngành nghề, giới tính, thời điểm xảy ra tai nạn, nơi
sảy ra tai nạn… Bởi vậy khi luật hóa chế độ này phải hết sức cụ thể và sát với thực tiễn.
- Trợ cấp hưu trí
Trong hệ thống 9 chế độ thì chế độ trợ cấp hưu trí là một chế độ quan trọng
nhất. Vì chế độ này liên quan đến tất cả người lao động trong xã hội từ khi bước vào
độ tuổi lao động đến khi người ta chết. Đặc biệt là mức đóng và mức hưởng của chế
độ này luôn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mức phí và trong tổng quỹ
BHXH. Ngồi ra hoạt động thu, chi của chế độ này cũng có liên quan đến tất cả các
cơ quan, các hoạt động BHXH. Chính vì vậy, chế độ hưu trí được đa số các nước áp
dụng và cũng là một chế độ được thực hiện sớm nhất.
16
Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Thể hiện sự quan tâm của chính phủ, người sử
dụng lao động khơng chỉ khi họ cịn trẻ khỏe mà cả khi họ đã già yếu không thể lao
động được nữa. Sự quan tâm này không chỉ thuần túy là nghĩa vụ và trách nhiệm
mà còn là đạo lý của mỗi dân tộc, mỗi một chế độ chính trị xã hội. Ngoài ra, giúp
cho người lao động tiết kiệm cho bản thân ngay từ trong quá trình lao động để đảm
bảo ổn định cuộc sống khi về già, từ đó giảm bớt gánh nặng cho gia đình và người
thân và cho xã hội.
Đối tượng, mức trợ cấp và khoảng thời gian trợ cấp phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, xã hội của từng nước.
Chế độ hưu trí là chế độ trợ cấp dài hạn được thực hiện ngoài q trình lao
động. Số tiền trợ cấp thơng thường được cơ quan BHXH chi trả định kỳ theo tháng
cho người về hưu. Chế độ hưu trí là chế độ mang tính chất hồn trả và ít nhiều có sự
tách biệt qúa trình đóng và hưởng vì người lao động tham gia đóng phí bảo hiểm
trong suốt q trình lao động và được hưởng trợ cấp khi về hưu. Điều này thể hiện
tính kế thừa liên tục giữa các thế hệ người lao động để hình thành quỹ hưu trí. Vì
vậy, việc xác định mức đóng, mức hưởng rất phức tạp.
- Trợ cấp gia đình
Chế độ này nhằm hỗ trợ cho người lao động đơng con có điều kiện vật chất
tối thiểu cần thiết để chăm sóc và ni dạy con cái. Khuyến khích người lao động
tham gia BHXH và tạo nguồn lao động tương lai. Góp phần tạo sự bình đẳng trong
xã hội và từ đó tạo sự ASXH, tính đến hết năm 2010 trên thế giới có trên 86 nước
thực hiện trợ cấp gia đình.
Đây là chế độ liên quan đến việc làm vì vậy đối tượng được trợ cấp chỉ bao
gồm những người đang lao động và gia đình họ. Trong đó, chỉ có những lao động
đơng con mới được hưởng trợ cấp và trách nhiệm chủ yếu thuộc về người sử dụng
lao động.
Những người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với người lao động
đơng con gặp hồn cảnh khó khăn trong cuộc sống bằng cách bổ xung các quyền lợi
17
cho người được trợ cấp. Cụ thể là bổ sung vào tiền lương, tiền cơng thậm trí là bằng
hiện vật thiết yếu. Tuy nhiên phần trợ cấp này là bao nhiêu và hình thức chi trả như
thế nào hồn tồn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước.
- Trợ cấp thai sản
So với nam giới thì lao động nữ mang một số đặc điểm là thể chất tình trạng
sức khỏe và tâm sinh lý có những đặc điểm khác hẳn với nam giới và thông thường
là kém hơn nam giới. Bởi vậy, nó liên quan đến cơng việc mà nữ giới đảm nhiệm.
Những công việc này ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng làm vợ, làm mẹ của lao
động nữ. Nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách BHXH. Vậy khi thiết kế
chính sách BHXH cần phải chú ý đến chính sách sử dụng lao động nữ và chính sách
đãi ngộ đối với họ. Trong hệ thống chính sách BHXH, lao động nữ khơng chỉ là đối
tượng tham gia BHXH được hưởng trợ cấp mà họ cịn là đối tượng nghiêm cứu để
hồn thành tồn bộ hệ thống BHXH nói chung. Thực hiện tốt chế độ trợ cấp thai sản
sẽ bù đắp thay thế được nguồn thu nhập cho lao động nữ khi họ sinh đẻ và nuôi con
nhỏ. Tái sản xuất cho lao động nữ và những thế hệ lao động kế tiếp, góp phần thực
hiện quyền bình đẳng nam nữ và quyền phụ nữ nói chung.
- Trợ cấp tàn tật
Thực hiện chế độ này nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động
và gia đình họ khi người lao động khơng may bị tàn tật, từ đó góp phần đảm bảo an
sinh xã hội, khuyến khích người lao động hăng hái tham gia BHXH. Đây cũng là
một chế độ thể hiện tính nhân đạo nhất. Chế độ này vừa mang tính hồn trả vừa
mang tính khơng hồn trả. Tuy nhiên, đây cũng là chế độ rất dễ bị lạm dụng trong
khâu giám định y khoa.
- Trợ cấp tử tuất
Đây là một chế độ bảo hiểm nhân đạo nhất trong tổng số 9 chế độ BHXH cho
nên hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện, thực hiện chế độ này nhằm góp
phần khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống cho gia đình người lao động khơng may
bị chết. Khuyến khích những người cịn sống tham gia BHXH và góp phần đảm bảo
ASXH cho đất nước. Chế độ này thường được các nước chia làm 2 phần:
18
+ Trợ cấp mai táng, chon cất cho người lao động bị chết.
+ Trợ cấp dài hạn cho vợ hoặc chồng, bố mẹ 2 bên theo luật quy định nhưng
mức trợ cấp tối đa cho những người này không vượt quá tiền lương đang làm việc
của người lao động khi còn sống.
1.1.6 Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.1.6.1 Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH
- Khái niệm: Quỹ BHXH được hình thành bằng nhiều nguồn khác nhau,
hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung là quỹ dự trữ tài chính để đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động và gia đình họ khi họ bị giảm
hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm vì những “rủi ro xã hội” như ốm
đau, thai sản, TNLĐ-BNN, tử tuất...[33].
- Đặc điểm của quỹ BHXH:
+ Qũy BHXH ra đời và tồn tại với mục đích ổn định cuộc sống cho người
lao động và gia đình họ. Qũy này hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận nên quản
lý theo nguyên tắc cân bằng thu-chi.
+ Phân phối quỹ BHXH mang tính chất hồn trả và khơng hồn trả. Tính
hồn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là người tham gia và đóng BHXH đồng thời
họ là đối tượng được nhận trợ cấp, họ được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ,
thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau tùy thuộc vào biến cố
hoặc rủi ro họ gặp phải cũng như mức đóng và thời gian đóng BHXH của họ. Tính
khơng hồn trả thể hiện ở chỗ cùng tham gia và đóng BHXH, nhưng có người được
hưởng trợ cấp nhiều lần, nhiều chế độ. Nhưng có người được hưởng ít lần hơn,
thậm trí khơng được hưởng. Chính vì đặc điểm này mà một số đối tượng được
hưởng trợ cấp BHXH nhiều hơn mức đóng của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện
tính xã hội của tồn bộ hoạt động BHXH.
+ Qúa trình tích lũy để bảo tồn quỹ và đầu tư quỹ là mang tính nguyên tắc
cụ thể. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an
toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, BHXH phải tự bảo vệ mình trước
nguy cơ mất an tồn về tài chính, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn và
19
tăng trưởng quỹ BHXH trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt
động của BHXH.
+ Qũy BHXH là hạt nhân của tài chính BHXH, và nó là khâu tài chính trung
gian cùng với tài chính doanh nghiệp và NSNN hình thành nên hệ thống tài chính
quốc gia chịu sự chi phối của pháp luật nhà nước. Tuy nhiên, mỗi khâu tài chính
được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Vì
vậy, chúng ln độc lâp với nhau trong quản lý và sử dụng.
+ Sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH là do điều kiện kinh tế xã hội và
điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế-xã hội ngày
càng phát triển thì ngày càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu
cầu thỏa mãn về BHXH ngày càng được nâng cao. Đồng thời kinh tế xã hội phát
triển họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH…
1.1.6.2 Nguồn hình thành quỹ BHXH
* Nguồn tài chính vận động làm tăng quy mơ quỹ BHXH nhiều hay ít phụ
thuộc vào chính sách huy động của Nhà nước để hình thành nên 2 loại quỹ này.
Mặc dù mức đóng BHXH ở các nước rất khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển của
xã hội và khả năng kinh tế, phụ thuộc vào số lượng các chế độ thực hiện, số lượng
người tham gia... nhưng nhìn chung nguồn tài chính hình thành nên quỹ BHXH cơ
bản gồm có 03 yếu tố:
- Người lao động tham gia đóng góp BHXH: Trên thế giới đại đa số các nước
đều dựa vào thang bảng lương để xác định mức đóng BHXH vì đối tượng của
BHXH là thu nhập của người lao động, trong khi thu nhập chủ yếu là tiền lương.
- Chủ sử dụng lao động có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện
chính sách BHXH. Nếu chính sách BHXH khơng hợp lý và khơng có sự hợp tác của
người sử dụng lao động thì sẽ khó có thể thực hiện được. Mặt khác, trong suốt quá
trình lao động thì người sử dụng lao động là sợi dây nối giữa người lao động và cơ
quan BHXH, là người trực tiếp tổ chức thực hiện chính sách BHXH tại tổ chức,
doanh nghiệp.
20
- Nhà nước hỗ trợ quỹ BHXH thông qua một số hình thức như: Chuyển một
khoản tiền nhất định vào quỹ tại thời điểm thành lập quỹ hoặc khi xảy ra sự kiện đột
xuất theo đề nghị của hệ thống BHXH; đảm nhận chi trả một số khoản thay cho hệ
thống BHXH; hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện làm việc; miễn thuế cho
các hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH, quỹ BHYT... Nhìn
chung, ở tất cả các nước, Nhà nước ln có vai trị quan trọng trong việc thực hiện
các chế độ BHXH,. Ở nước ta, Điều 149 Bộ Luật Lao động và Điều 88 Luật BHXH
năm 2006 quy định: người sử dụng lao động, người lao động, Nhà nước hỗ trợ và
các nguồn thu khác để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
* Nguồn hình thành quỹ BHXH bắt buộc:
- Người sử dụng lao động đóng theo quy định tại điều 92 của Luật BHXH.
Điều 92 Luật BHXH quy định mức đóng và phương thức đóng của người sử
dụng lao động cụ thể là:
- Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền cơng
đóng bảo hiểm xã hội của người lao động quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1
điều 2 của Luật BHXH như sau:
a) 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại
2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ quy định tại Mục
1 và Mục 2 Chương III của Luật BHXH và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ
chức bảo hiểm xã hội;
b) 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
c) 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần
đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%.
- Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên mức lương tối thiểu chung
đối với mỗi người lao động quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH
như sau:
a) 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
b) 16% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần
đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%.
21
- Người sử dụng lao động thuộc các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh thì mức đóng
hằng tháng theo quy định tại khoản 1 nêu trên; phương thức đóng được thực hiện
hằng tháng, hằng quý hoặc sáu tháng một lần.
- Người lao động đóng theo quy định tại điều 91 của Luật BHXH.
Điều 91 Luật BHXH quy đinh mức đóng và phương thức đóng của người lao
động như sau:
- Hằng tháng, người lao động quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều
2 của Luật BHXH đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền cơng vào quỹ hưu trí và tử
tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức
đóng là 8%.
- Người lao động hưởng tiền lương, tiền công theo chu kỳ sản xuất, kinh
doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp
thì mức đóng bảo hiểm xã hội hằng tháng theo quy định tại khoản 1 nêu trên;
phương thức đóng được thực hiện hằng tháng, hằng quý hoặc sáu tháng một lần.
- Mức đóng và phương thức đóng của người lao động quy định tại điểm e
khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH do Chính phủ quy định.
- Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ.
- Hỗ trợ của Nhà nước.
- Các nguồn thu hợp pháp khác.
…
1.1.6.3 Mục đích sử dụng quỹ BHXH
- Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: đây là khoản chi lớn nhất để thực
hiện mục đích lớn nhất của BHXH. Thơng thường trên thế giới giới khoản chi này
luôn luôn chiếm 80 đến 85% quỹ BHXH.
- Chi quản lý bộ máy: khoản chi này giúp cho cơ quan BHXH các cấp tổ
chức và thực hiện thành cơng chính sách BHXH. Nội dung khoản chi này bao gồm:
tiền lương cho cán bộ công nhân viên trong ngành và bồi dưỡng nghiệp vụ….
22
- Chi dự phịng: bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng khoản chi này cũng
mang tính chất bắt buộc nhằm đảm bảo quỹ BHXH đủ lớn và an toàn. Đặc biệt là
khắc phục kịp thời những biến động lớn trong hệ thống tài chính quốc gia có ảnh
hưởng đến quỹ BHXH.
- Chi đầu tư: khoản chi này bao giờ cũng được quản lý riêng và nó được lấy
từ khoản chênh lệch thu > chi của Qũy BHXH và lấy từ lợi nhuận do đầu tư quỹ
mang lại.
Chi đầu tư bao gồm: vốn gốc, nguồn vốn bổ xung hàng năm và các khoản chi
phí khác để thực hiện đầu tư.
- Những chi phí phát sinh ngồi những khoản chi nói trên như chi phí về
thanh lý, nhượng làm tài sản.
- Nếu quỹ BHXH được hình thành từ 2 loại: quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ
BHXH dài hạn thì việc chi trả và việc quản lý thu sẽ được cụ thể hơn.
+ Qũy BHXH ngắn hạn chi cho các chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh ngề nghiệp.
+ Qũy BHXH dài hạn chi cho các chế độ dài hạn như: hưu trí và tử tuất.
- Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc
hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.
- Chi khen thưởng từ quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định
của Chính phủ đối với người sủ dụng lao động thực hiện tốt cơng tác bảo hộ lao
động, phịng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1.1.6.4 Đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
- Đầu tư là yêu cầu khách quan: do đặc thù người tham gia BHXH đóng phí
trong một thời gian dài và rất lâu sau họ mới được hưởng chế độ trợ cấp dài hạn
như: hưu trí, tử tuất. Đồng thời số người tham gia đóng phí và hưởng tại một thời
điểm thường có sự chênh lệch dương (đơi khi khá lớn) nên quỹ BHXH tại một thời
điểm nhất định có số tiền kết dư lớn. Mặt khác, quỹ BHXH cũng luôn phải đối mặt
với những nguy cơ rủi ro, như việc tính tốn mức đóng-mức hưởng của đối tượng
không khoa học, những biến động xã hội đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ; bị giảm
23