Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng tmcp công thương việt nam chi nhánh thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 106 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Có thể nói lĩnh vực tiền tệ tín dụng Ngân hàng là một trong những lĩnh vực
nhạy cảm nhất của nền kinh tế do hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hình hoạt
động mang tính năng động và rủi ro cao, giữ vai trò tiên phong trong việc định
hướng cho các hoạt động của các doanh nghiệp.
Với chức năng chính là huy động vốn để tài trợ cho nền kinh tế, Ngân hàng
thu hút mọi nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu vốn lớn cho việc mở rộng, phát triển
kinh tế, đồng thời mang lại nguồn thu nhập cho chính bản thân ngân hàng. Song nền
kinh tế nước ta trong thời gian qua cịn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là năm 1998,
1999, hàng loại các vụ đổ vỡ tín dụng xảy ra giữa các ngân hàng thương mại và các
tổ chức kinh tế (vụ EPCO, Minh Phụng, vụ Temexco ở NHCTVN và NHNTVN
gây tổn thất hơn 10.000 tỷ đồng) đã làm ảnh hưởng khơng ít đến nền kinh tế nói
chung và bước phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng nói riêng. Một
trong những nguyên nhân dẫn tới những tổn thất tín dụng đó chính là những thiếu
sót yếu kém, chủ quan trong cơng tác thẩm định.
Đứng trước thực tế đó, địi hỏi tồn hệ thống ngân hàng phải khơng ngừng
nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
Bởi việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư không chỉ có ý nghĩa đối với
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng mà cịn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã
hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước và định
hướng đầu tư đúng đắn cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hoạt động thẩm định và chất lượng thẩm định là một vấn đề
không đơn giản chỉ giới hạn trong phạm vi một ngân hàng mà nó gắn liền với nhiều
nhân tố khác như các vấn đề pháp lý, môi trường hoạt động của ngành, môi trường
vĩ mô của nền kinh tế. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, khơng chỉ địi


Nguyễn Tuấn Anh

1

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

hỏi có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân Ngân hàng mà cịn có sự hỗ trợ của các cơ
quan hữu quan.
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, phát triển kinh tế luôn là một
trong những mục tiêu quan trọng nhất và được ưu tiên hàng đầu. Điều này càng
được thể hiện rõ nét trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay. Sức
mạnh của nền kinh tế ln là một tiếng nói có sức thuyết phục nhất để khẳng định
vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế. Việt nam trong những năm qua đã và
đang có những bước tiến mạnh mẽ và vững chắc về kinh tế, dần khẳng định mình
trên chính trường thế giới. Nền kinh tế chúng ta trong những năm qua liên tục tăng
trưởng với tốc độ 8-9%/năm là một minh chứng rõ nét cho sự phát triển thần kỳ đó.
Để đạt được điều này, chúng ta khơng thể khơng kể đến vai trị quan trọng
của các Ngân hàng thương mại với tư cách là nhà tài trợ chính cho các dự án đầu tư
nhằm mục tiêu đẩy nhanh tốc độ phát triển nền kinh tế. Cho vay theo dự án đầu tư
là một trong những hoạt động đem lại hiệu quả cho nền kinh tế nói chung và hoạt
động Ngân hàng nói riêng, tuy nhiên nó cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Chính vì vậy,
trước khi ra quyết định liên quan đến việc cho vay một dự án đầu tư, Ngân hàng
thường phải xem xét kỹ tất cả các khía cạnh của dự án đầu tư để đánh giá tính khả
thi, hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án đó. Thời gian qua, cơng tác thẩm định tài
chính dự án đầu tư tại các Ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều hạn chế. Hậu quả là

nhiều quyết định lựa chọn đầu tư dự án không chính xác như: cho vay các dự án có
hiệu quả thấp, không trả nợ được cho ngân hàng, ngược lại có khi bỏ qua các dự án
tốt… Điều này khơng chỉ làm ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động kinh doanh của
các Ngân hàng mà còn làm cho các nguồn lực của nền kinh tế được phân phối
không hiệu quả.
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long là một
trong những Chi nhánhcó dư nợ tín dụng lớn trong tồn hệ thống NHCTVN, trong
đó đặc biệt tỷ trọng cho vay các dự án đầu tư khá cao. Tuy nhiên, kết quả hoạt động
cho vay theo dự án đầu tư của Chi nhánh đạt được chưa tương xứng với qui mô đầu
Nguyễn Tuấn Anh

2

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

tư, nợ quá hạn và nợ xấu còn cao do đầu tư cho vay vào các dự án không hiệu quả.
Thực tế trên cho thấy việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
trong hoạt động cho vay nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh đang là một
yêu cầu đặt ra hết sức cấp thiết đối với Chi nhánh.
Xuất phát từ thực tế trên, qua quá trình cơng tác và nghiên cứu tại Ngân hàng
TMCP Cơng thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long, Tác giả lựa chọn đề tài
nghiên cứu: “Nâng cao chất lượng thẩm định Tài chính Dự án Đầu tư tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long”.
2. Mục đích nghiên cứu:
-


Hệ thống hố cơ sở lý luận về chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại

các Ngân hàng Thương mại.
-

Đánh giá thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân

hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.
-

Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định

tài chính các dự án đầu tư tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh
Thăng Long.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
-

Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng thẩm
định tài chính dự án đầu tư lấy thực tiễn tại Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long làm minh chứng.

-

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứuchất lượng thẩm định tài chính dự
án đầu tư tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng
Longtrong giai đoạn 2010- 2013.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp định tính và định lượng kết hợp với

các phương pháp thống kê, phân tích kinh tế... để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
Nguyễn Tuấn Anh

3

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

5. Những đóng góp của Luận văn:
-

Tổng kết được cơ sở khoa học về chất lượng thẩm định tài chính dự án như

khái niệm, nội dung về chất lượng thẩm định tài chính dự án, các chỉ tiêu đánh giá
cũng như những nhân tố tác động tới chất lượng thẩm định tài chính dự án tại
NHTM.
-

Phân tích thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng

TMCP Cơng thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long, từ đó chỉ ra được những
kết quả và hạn chế đạt được của Chi nhánh. Thơng qua việc phân tích các yếu tố
ảnh hưởng, luận văn tìm ra những ngun nhân chính gây ảnh hưởng xấu đến chất
lượng thẩm định tài chính dự án tại Vietinbank – chi nhánh Thăng long.
-


Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định

tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh
Thăng Long, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tại Chi nhánh nói
riêng và tồn hệ thống nói chung.
6. Nội dung và kết cấu của Luận văn:
Ngồi phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
các NHTM.
Chƣơng 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.
Chƣơng 3: Một số giảipháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu
tư tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.

Nguyễn Tuấn Anh

4

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG THẨM
ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƢ TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI
1. 1. Khái quát về Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức có vai trị quan trọng đối với
nền kinh tế.Các NHTM có thể được định nghĩa qua chức năng, dịch vụ cung cấp
hoặc qua vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Trên phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp, NHTM được
định nghĩa như sau: “ NHTM là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh tốn và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế “ (Theo Peter S.Roes, năm 2002).
Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
thơng qua ngày 12/12/1997 thì: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập
theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để
hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và
sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng”.
Vậy khái niệm chung về NHTM được hiểu là “Ngân hàng thương mại là tổ
chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với nghiệp vụ chính là nhận tiền gửi,
cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán”

1.1.2. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
a/ Huy động vốn
Để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình thì NHTM phải có
vốn.Nguồn vốn của NHTM rất đa dạng và phong phú. Ngân hàng thường huy động
vốn từ các nguồn chủ yếu sau:
- Vốn tự có và các qũy của NHTM
Nguyễn Tuấn Anh

5

Lớp: QTKD4



Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

Tuy nguồn này chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn song đây lại
là bộ phận rất quan trọng. Nó thể hiện tiềm lực về mặt tài chính của ngân hàng, là
cơ sở để thu hút tiền gửi của khách hàng. Nguồn vốn này cịn đóng vai trị như một
tấm đệm giảm sóc giúp ngân hàng tránh khỏi nguy cơ mất khả năng thanh tốn hay
rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng, tùy theo tính chất sở hữu, năng
lực tài chính của chủ ngân hàng yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Cụ thể
nguồn này gồm có:
+ Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tùy thuộc vào tính chất của mỗi ngân hàng
mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu là khác nhau: Ngân hàng thuộc sở hữu nhà
nước thì vốn do ngân sách nhà nước cấp, Ngân hàng cổ phần do các cổ đơng đóng
góp thơng qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu, Ngân hàng liên doanh do các bên liên
doanh đóng góp, Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
+ Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động,
ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào
điều kiện cụ thể: nguồn từ lợi nhuận, nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, do
cấp thêm, góp thêm...
+ Các quỹ: Ngân hàng lập ra nhiều quỹ với các mục đích khác nhau như quỹ
dự phịng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư...
- Nhận tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn tiền
của ngân hàng. Tiền gửi bao gồm:
+ Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào
NHTM để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Lãi suất của khoản tiền này tuy thấp
nhưng thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức
phí thấp.

+ Tiền gửi của cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: Được chia thành
tiền gửi có kì hạn và khơng có kì hạn. Tiền gửi có kì hạn càng dài thì được hưởng
lãi suất càng cao.
Nguyễn Tuấn Anh

6

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

+ Ngoài ra cịn có nguồn tiền gửi của các NHTM khác.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quy mô tiền gửi của khách hàng tại NHTM
như chính sách lãi suất, phương thức trả lãi của ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội
trong từng thời kì, phong tục tập quán, uy tín của ngân hàng, sự thuận tiện về mặt vị
trí địa lý, các dịch vụ do ngân hàng cung cấp... Nắm được các yếu tố này, ngân hàng
có thể điều chỉnh lượng vốn huy động sao cho phù hợp với nhu cầu vốn của mình.
- Vốn vay
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên khi cần ngân
hàng thường vay mượn thêm. Thơng thường NHTM có thể vay từ các nguồn sau:
+ Vay Ngân hàng trung ương: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp
bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, ngân hàng thương
mại thường vay ngân hàng trung ương. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng
trung ương là tái chiết khấu (tái cấp vốn).
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Là nguồn mà các NHTM vay mượn lẫn nhau
và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
+ Vay trên thị trường tài chính: Là hình thức các NHTM vay mượn vốn bằng cách

phát hành các giấy nợ (kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu... ) trên thị trường tài chính.
b/ Hoạt động sử dụng vốn
-Hoạt động Ngân quỹ
Đây là hoạt động nhằm thúc đẩy khả năng thanh toán thường xuyên của
NHTM cho khách hàng. Khả năng thanh toán thường xuyên của một ngân hàng
được đảm bảo bằng những tài sản có tính lỏng rất cao như: tiền mặt tại ngân qũy,
tiền gửi tại NHTW và các NHTM khác, tiền đang trong q trình thu...Đây là tài
sản khơng sinh lời, hoặc nếu có sinh lời thì cũng rất thấp. Nếu ngân hàng để lại
nhiều tài sản loại này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chính
bởi vậy, ngân hàng phải duy trì loại tài sản này ở một mức độ hợp lý sao cho vừa
đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh lời.
Quỹ tiền mặt do bộ phận ngân quỹ (hay phòng ngân quỹ) thực hiện và bảo
quản trong kho, két tuyệt đối an tồn. Tại bộ phận ngân quỹ bố trí thủ quỹ và các
nhân viên kiểm ngân, thủ quỹ chịu trách nhiệm về số tài sản trong kho, két.
Nguyễn Tuấn Anh

7

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

Việc tổ chức cơng tác quỹ phụ thuộc vào mơ hình giao dịch mà ngân hàng
lựa chọn: mơ hình giao dịch nhiều cửa hay mơ hình giao dịch một cửa.
Trong mơ hình giao dịch nhiều cửa: quỹ là một bộ phận trực tiếp giao dịch
với khách hàng trong các nghiệp vụ liên quan đến việc thu (chi) tiền mặt từ (cho)
khách hàng.

Với mơ hình giao dịch một cửa: đầu ngày, cuối ngày quỹ chính thực hiện
việc giao (nhận) tiền mặt cho các giao dịch viên (Teller) phù hợp với hạn mức quỹ
mà các giao dịch viên được nắm giữ. Như vậy, khi có nghiệp vụ tiền mặt phát sinh,
quỹ khơng phải trực tiếp thu – chi tiền mặt cho khách hàng (trừ các giao dịch vượt
hạn mức giao dịch của các giao dịch viên).
- Hoạt động tín dụng
Đây là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM. Trong đó ngân hàng thiết
lập quan hệ giao dịch với chủ thể khách hàng thông qua hợp đồng giao tiền hoặc tài
sản, cho họ sử dụng trong một thời gian nhất định, sau đó ngân hàng nhận lại tiền
hay tài sản cùng với một khoản tiền lãi tính theo lãi suất đã được thỏa thuận.
Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho
nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh tốn những chi phí trong hoạt động, phần
còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt
của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho vay
mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trơi nổi, chi
phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư .
Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho vay của Ngân hàng thương mại ngày
càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú và đa dạng.
Tại hầu hết các nước cơng nghiêp trong nhóm những nước hàng đầu thế giới, cho
vay của các Ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho
vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ
phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư
dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát,...)
- Hoạt động đầu tư
Nguyễn Tuấn Anh

8

Lớp: QTKD4



Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

Các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư bằng nhiều cách, như cho vay liên
ngân hàng, góp vốn vào các doanh nghiệp hay mua bán chứng khốn trên thị trường
với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Các chứng khốn ngân hàng nắm giữ thường là
các chứng khốn có độ an tồn và có tính lỏng cao, sẽ giúp ngân hàng đảm bảo khả
năng thanh khoản được tốt hơn mà lại không làm giảm hiệu quả kinh doanh. Cho
vay trên thị trường liên ngân hàng cũng là một cách hữu hiệu để tận dụng nguồn
vốn nhàn rỗi tạm thời, thường là trong thời gian ngắn.
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mơ và
tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân hàng thương mại. Phải sang
đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng thương mại mới quan tâm mở rộng
hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành công nghiệp. So với hoạt
động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao hơn nhưng rủi ro cao hơn do
thu nhập từ hoạt động đầu tư khơng được xác định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp mà Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra đối với hoạt
động đầu tư, Ngân hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình.
Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào thị
trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia.Ngân hàng thương mại có thể
tham gia như một người cung cấp hàng hố cho thị trường chứng khốn hay đóng
vai trị là nhà đầu tư, mua bán chứng khốn vì mục tiêu kiếm lời cho chính Ngân
hàng.Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khốn thơng qua uỷ thác của khách hàng.
c/ Hoạt động trung gian
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn
thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho khách hàng
của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian bởi vì khi thực hiện các
hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay chủ nợ mà đứng ở vị trí

trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ mà khách hàng cần.Đây là
các hoạt động mà NHTM cung cấp cho khách hàng các dịch vụ có liên quan đi kèm
mà qua đó ngân hàng cũng nhận được một khoản thu dưới hình thức phí, hoa hồng.
Các dịch vụ trung gian mà ngân hàng cung cấp ngày càng trở nên phong phú, tiện
Nguyễn Tuấn Anh

9

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

lợi và đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của khách hàng cũng như yêu cầu của hoạt
động kinh doanh. Có thể kể đến các dịch vụ phát sinh thường xuyên như mua bán,
trao đổi ngoại tệ, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cung cấp
dịch vụ mơi giới đầu tư chứng khốn, dịch vụ bảo hiểm, cung cấp dịch vụ ủy thác tư
vấn, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán hộ khách hàng qua
các hình thức: phát séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, mở thư tín dụng, dịch vụ
chuyển tiền...

1.2. Hoạt động đầu tƣ và dự án đầu tƣ
1.2.1. Hoạt động đầu tư
Quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại các quốc gia trên thế giới và Việt Nam
trong những năm gần đây đã khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động đầu tư.
Những quốc gia và các doanh nghiệp có mức đầu tư thấp và kém hiệu quả sẽ phát
triển chậm, khó đứng vững trên thương trường và ngược lại, những quốc gia, doanh
nghiệp đẩy mạnh hoạt động đầu tư, huy động hợp lý các nguồn lực của nền kinh tế

trong mỗi hoạt động đầu tư sẽ tăng trưởng và phát triển.
Trong lý thuyết và trên thực tế quản lý đầu tư có khá nhiều quan niệm khác
nhau về đầu tư (investment) như:
Đầu tư, theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực xã hội sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Đầu tư, theo nghĩa rộng, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại, để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó
có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ.
Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả nhưng muốn tối đa hố hiệu quả đầu tư thì
trước khi quyết định đầu tư nhất thiết phải có sự chuẩn bị thật cẩn thận và nghiêm

Nguyễn Tuấn Anh

10

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

túc thể hiện qua việc lập dự án đầu tư trên cơ sở mọi thông tin liên quan đến hoạt
động đầu tư đã được thu thập đầy đủ và phân tích tỉ mỉ, khoa học, khách quan.

1.2.2. Dự án đầu tư
Về bản chất: Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo
mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được mục tiêu nhất

định trong một khoảng thời gian xác định (Theo Nghị định số 42/CP ngày
16/7/1996 của Chính phủ).
Theo Nghị định số 42/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ có nêu rõ “Dự án
đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo
những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc
nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian
xác định”.
Theo Nghị định số 88/CP ngày 01/9/1999 của CP: “Dự án là tập hợp những đề
xuất để thực hiện một phần hay tồn bộ cơng việc, mục tiêu hoặc yêu cầu nào đó”.
Theo Ngân hàng thế giới: “Dự án đầu tư là tổng thể các chính sách, hoạt
động và chi phí liên quan đến nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu
nào đó trong thời gian nhất định”.
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng các dự án đầu tư đều giống
nhau ở những điểm sau:
-

Mỗi dự án đều phải có mục tiêu xác định và phục vụ cho mục đích phát triển

và sinh lợi.
-

Các hoạt động trong khuôn khổ dự án phải là hoạt động có kế hoạch.

-

Thời gian và nguồn nhân lực dành cho mỗi dự án là hữu hạn, không được

vượt qua một giới hạn nhất định, Nếu trái lại có thể đạt được mục tiêu trung gian
nào đó nhưng khơng đạt mục đích cuối cùng là phát triển và sinh lợi. Vì vậy, khơng
thể có những dự án thực hiện với bất kỳ giá nào.


Nguyễn Tuấn Anh

11

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp
-

Đại học Bách Khoa Hà Nội

Vì mỗi dự án đầu tư là một hệ thống các hoạt động có cùng mục tiêu, nên

phương pháp đầu tư theo dự án về thực chất là phương pháp tiếp cận hệ thống, nó
có cơ sở khoa học vững chắc và được thế giới áp dụng rộng rãi.
Xét về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một
cách chi tiết, đầy đủ, khoa học và toàn diện một dự kiến đầu tư trong tương lai. Dự
án đầu tư là tài liệu kinh tế – kỹ thuật về một kế hoạch tổng thể huy động nguồn lực
đầu vào cho mục tiêu đầu tư. Vì vậy, trong dự án đó, nội dung phải được trình bày
một cách có hệ thống và chi tiết theo một trình tự, logic và theo đúng quy định
chung của hoạt động đầu tư. Cụ thể:
+ Giải trình sự cần thiết phải đầu tư và mục tiêu đầu tư.
+ Xác định quy mô đầu tư và giải pháp đầu tư sẽ thực hiện.
+ Tính tốn kinh tế và hiệu quả đầu tư của dự án.
+ Xác định độ an toàn và tính khả thi của dự án.
Đây cũng là phương tiện chủ yếu mà chủ đầu tư sử dụng để thuyết phục
nhằm nhận được sự ủng hộ về mặt tài chính từ phía chính phủ, ngân hàng, các tổ
chức tài chính và các nhà đầu tư khác.

Xét trên góc độ quản lý thìdự án đầu tư là cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà
nước xem xét, phê duyệt cấp giấy phép đầu tư, là căn cứ quan trọng để đánh giá và
đưa ra những điều chỉnh kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực
hiện và khai thác dự án; và là cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý khi có tranh chấp giữa
các bên tham gia liên doanh đầu tư. Do dự án đầu tư là tài liệu được xây dựng trên
những căn cứ khoa học và thực tiễn, được trải qua thẩm định và phê duyệt của cơ
quan có thẩm quyền nên hồ sơ dự án đầu tư mang tính pháp lý và trở thành một
công cụ quản lý quan trọng trong hoạt động thực hiện một dự án đầu tư.
Việc quản lý dự án sẽ đi trong khuôn khổ mà nội dung dự án đã thể hiện về
yêu cầu sử dụng các nguồn lực, về hướng tới mục tiêu dự án: sinh lợi của nhà doanh
nghiệp, cho lợi ích kinh tế – xã hội của ngành, vùng – địa phương.
Nguyễn Tuấn Anh

12

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

Các kết quả của nghiên cứu được xác lập liên quan đến nguồn lực huy động
cho dự án: kỹ thuật vật chất – lao động – tài chính và quỹ thời gian. Tài liệu dự án
chính là cơ sở, chỗ dựa cơ bản để tiến hành các hoạt động quản lý nguồn lực.
Cịn đứng trên phương diện kế hoạch hố, dự án đầu tư là một công cụ thể
hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh
tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ.Xét theo góc độ này dự án
đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong kế hoạch hóa nền kinh tế
nói chung (Một đơn vị sản xuất kinh doanh cùng một thời kỳ có thể thực hiện nhiều

dự án).
Như vậy, vai trò của dự án đầu tư trên các góc độ là khác nhau, nhưng dù
đứng trên góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao giờ cũng có chung một chu trình
như sau:
 Giai đoạn 1: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư gồm các bước chính sau:
- Nghiên cứu cơ hội đầu tư;
- Nghiên cứu tiền khả thi;
- Nghiên cứu khả thi;
- Thẩm định và ra quyết định đầu tư.
 Giai đoạn 2: Giai đoạn thực hiện đầu tư bao gồm các bước chính sau:
- Khảo sát, thiết kế, lập dự toán;
- Dự kiến mua thiết bị, công nghệ, vật tư kỹ thuật;
- Tổ chức đấu thầu, chọn thầu, giao nhận thầu;
- Thi công theo đúng thiết kế, tiến độ đã đề ra;
- Tiến hành chạy thử;
- Bàn giao đưa cơng trình vào khai thác.
 Giai đoạn 3: Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư (dự án đi vào hoạt động) bao
gồm các bước chính sau:
- Tổ chức sản xuất, kinh doanh;
Nguyễn Tuấn Anh

13

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội


- Kết thúc dự án;
- Đánh giá sau dự án.
Trong ba giai đoạn trên đây, giai đoạn 1 – giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền
đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt khi dự án
đầu tư đi vào hoạt động. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, vấn đề chất lượng, tính
chính xác của các kết quả nghiên cứu, tính tốn và dự đốn là quan trọng nhất và vì
thế cơng tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng có vị trí rất quan
trọng để có được quyết định đầu tư đúng đắn.

1.3. Chất lƣợng thẩm định tài chính dự án đầu tƣ
1.3.1. Thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.3.1.1. Khái niệm thẩm định tài chính dự án đầu tư
Để có thể hiểu rõ về thẩm định tài chính dự án thì trước hết chúng ta cần tìm
hiểu về thẩm định dự án nói chung. Khi một doanh nghiệp có nhu cầu về vốn cho
việc mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh thì họ thường mang những dự án của
mình đến các NHTM để được vay vốn. Tuy nhiên, việc lập những dự án này do chủ
dự án thực hiện nên thường mang tính chủ quan, các chỉ tiêu đôi khi bị làm cho sai
lệch theo chủ đích của chủ dự án. Do đó, để đảm bảo an tồn trong hoạt động cho
vay của mình, ngân hàng luôn tổ chức thẩm định lại các thông số, chỉ tiêu được chủ
đầu tư nêu ra trong dự án.
Thẩm định dự án cho vay của NHTM là việc tổ chức, xem xét, phân tích một
cách khách quan, khoa học, hệ thống và tồn diện tất cả các khía cạnh liên quan đến
tính pháp lý, tính khả thi, hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án, từ đó ra quyết định
cho vay một cách hiệu quả, an tồn (theo Tài liệu Thẩm định tài chính dự án- Đại
học kinh tế Quốc dân).
Thẩm định dự án bao gồm các nội dung: thẩm định sự cần thiết và mục tiêu
của dự án; thẩm định phương diện thị trường của dự án; thẩm định phương diện kỹ
thuật; thẩm định phương diện tổ chức quản trị nhân sự; thẩm định phương diện tài
chính và thẩm định phương diện kinh tế, xã hội, môi trường của dự án.
Nguyễn Tuấn Anh


14

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

Thẩm định tài chính là một nội dung rất quan trọng trong hoạt động thẩm
định dự án để ra quyết định cho vay của các NHTM. Theo đó, thẩm định tài chính
dự án được hiểu là việc rà soát, đánh giá một cách khoa học, tồn diện tất cả các
khía cạnh về tài chính của dự án, từ đó là cơ sở để các NHTM ra các quyết định về việc
có cho vay hay không, số tiền cho vay, lãi suất và thời hạn cho vay, phương án giải
ngân và thu nợ, biện pháp đề phòng rủi ro cùng những điều khoản đảm bảo kèm theo.

1.3.1.2. Mục đích, yêu cầu của hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư
 Mục đích của hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định tài chính dự án là một nội dung được quan tâm nhất trong hoạt
động thẩm định dự án cho vay của các NHTM. Công tác thẩm định tài chính dự án
cho vay nhằm những mục đích sau:
-

Đánh giá khách quan về tính khả thi, hiệu quả của dự án: Dự án được lập ra

bởi các chủ dự án và luôn được họ đánh giá là khả thi và có hiệu quả cao. Với
phương diện là người cho vay, nhằm đảm bảo vốn của mình được sử dụng một cách
an tồn và có hiệu quả thì các NHTM phải tiến hành thẩm định tài chính dự án
thơng qua các thông số, chỉ tiêu cụ thể để đánh giá khách quan về tính khả thi, hiệu

quả của dự án, từ đó lựa chọn những dự án tốt, có khả năng hoàn vốn và trả lãi cho
ngân hàng.
-

Đánh giá mức độ rủi ro của dự án: Dự án luôn tiềm ẩn rủi ro. Chính vì vậy

mà khả năng khó thu hổi hoặc mất vốn của các NHTM là rất lớn. Cơng tác thẩm
định tài chính dự án sẽ giúp các NHTM nhận diện được rủi ro, từ đó phối hợp với
chủ dự án để có những biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro mà vẫn đảm bảo khả năng
sinh lời trong hoạt động cho vay theo dự án.
-

Là cơ sở để các NHTM ra quyết định cho vay: Cho vay theo dự án rủi ro rất

nhiều nhưng lại đem lại lợi nhuận cao. Vỡ vậy, các NHTM luôn chú trọng tới hoạt
động thẩm định tài chính dự án để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho nguồn vốn đầu
tư của mình. Trên cơ sở đánh giá được tính khả thi, hiệu quả và những rủi ro của dự
án thì các NHTM sẽ ra quyết định có cho vay hay khơng, nếu cho vay thì hạn mức
là bao nhiêu, trong thời gian bao lâu, phương thức trả nợ như thế nào…
Nguyễn Tuấn Anh

15

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội


 Yêu cầu của hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư
Để đảm bảo hoạt động thẩm định tài chính dự án cho vay của các NHTM
được thực hiện một cách có hiệu quả, là cơ sở vững chắc cho việc ra quyết định cho
vay thì hoạt động này phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
-

Việc thẩm định phải đảm bảo trung thực, khách quan. Cán bộ thẩm định

không vì lợi ích cá nhân hay áp đặt ý kiến chủ quan của mình vào làm sai lệch kết
quả thẩm định.
-

Dữ liệu đưa vào tính tốn các thơng số, chỉ tiêu tài chính phải được sàng lọc

cẩn thận và lấy từ nguồn đáng tin cậy để đảm bảo việc tính tốn được chính xác.
-

Các chỉ tiêu thẩm định phải được lựa chọn một cách khoa học, có tính thuyết

phục cao.
-

Kết quả thẩm định phải đánh giá được tính khả thi, hiệu quả tài chính, khả

năng trả nợ của dự án; là căn cứ ra quyết định cho vay của các NHTM.

1.3.1.3. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung có liên quan chặt chẽ với
nhau như: thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án và các nguồn tài trợ cũng như
phương thức tài trợ, thẩm định dòng tiền của dự án, dự tính lãi suất chiết khấu, xác

định tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài chính của dự án, đánh giá rủi ro trong dự án.
 Thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án và các nguồn tài trợ cũng như phương
thức tài trợ
Thẩm định tổng vốn đầu tư, nhu cầu vay vốn
Thẩm định tổng vốn đầu tư thực sự của dự án là rất cần thiết đối với ngân
hàng vì nó chính là một trong những cơ sở để xác định số tiền cho vay của ngân
hàng.Nếu xác định tổng vốn đầu tư của dự án khơng chính xác sẽ khiến cho vốn của
ngân hàng được sử dụng khơng hiệu quả. Để có thể xác định được đúng tổng mức
vốn đầu tư của dự án thì cán bộ thẩm định cần nắm được những khoản mục cần sử
dụng vốn; đánh giá được mức độ tin cậy của số liệu mà khách hàng cung cấp; tiến
hành so sánh, đối chiếu với giá cả trên thị trường để tính tốn được chính xác tổng
vốn đầu tư của dự án. Tổng vốn đầu tư của dự án là toàn bộ giá trị tài sản cần thiết
Nguyễn Tuấn Anh

16

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

để dự án có thể đi vào hoạt động. Thơng thường, tổng vốn đầu tư của dự án thường
gồm: vốn cố định, vốn lưu động thường xuyên và vốn dự phòng
-

Vốn cố định

+ Chi phí chuẩn bị đầu tư, bao gồm chi phí điều tra, khảo sát để lập dự án, chi

phí đào tạo, chuyển giao cơng nghệ.
+ Chi phí xây lắp, mua sắm thiết bị, tài sản cố định
+ Chi phí bảo hiểm
+ Lãi vay ngân hàng trong thời gian thực hiện dự án
-

Vốn lưu động thường xuyên: Là giá trị tài sản lưu động cần thiết cho hoạt

động của dự án, bao gồm: tiền mặt, các khoản phải thu và trả trước, dự trữ hàng
hóa, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và hàng tồn kho…
-

Vốn dự phòng: Do những tính tốn cho dự án đều là những dự tính nên có

thể phát sinh thêm so với thực tế khi dự án đi vào hoạt động. Vì vậy, để đảm bảo đủ
vốn cho dự án hoạt động liên tục thì cần có khoản vốn dự phịng.
Trên cơ sở tính tốn lại tổng vốn đầu tư, ngân hàng sẽ tiến hành xác định nhu
cầu vốn vay thực tế để thực hiện dự án của doanh nghiệp: Vốn vay = Tổng vốn đầu
tư – Vốn chủ sở hữu – Vốn khác.
Kiểm tra nguồn tài trợ và phương thức tài trợ
Một dự án thường được tài trợ bởi nhiều nguồn khác nhau: vay nợ từ các tổ
chức tín dụng, tổ chức kinh tế; vốn chủ sở hữu và một số nguồn khác. Ngân hàng
phải xác định được tỷ lệ giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu của dự án để đảm bảo một
tỷ lệ an tồn nhất định theo quy mơ vốn vay; tiến hành thẩm định tính khả thi của
các nguồn tài trợ này. Nếu như một dự án sau khi thẩm định cho thấy hiệu quả cao,
khả năng trả nợ cả lãi và gốc vay tốt nhưng đi vào thực hiện thì lại gặp khó khăn về
nguồn vốn do khơng thể huy động được vốn như dự kiến ban đầu. Điều này sẽ
khiến cho dự án bị đình trệ và có thể khơng đi vào thực hiện được, ảnh hưởng tới
khả năng trả nợ của dự án.Chính vì vậy, thẩm định tính khả thi của các nguồn tài trợ
là rất quan trọng.Bên cạnh đó, ngân hàng cịn kiểm tra tính hợp lý về thời hạn của

nguồn huy động để đảm bảo sự phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của dự án.
Nguyễn Tuấn Anh

17

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

 Thẩm định dòng tiền của dự án
Dòng tiền của dự án chính là điều mà ngân hàng quan tâm nhất vì nó cho
thấy khả năng trả nợ lãi và gốc vay của dự án. Dòng tiền của dự án là các khoản thu,
chi được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu trình của
dự án.
Các nguyên tắc khi thẩm định dòng tiền
-

Dòng tiền phù hợp: Đó là bất cứ sự thay đổi nào trong dịng tiền của doanh

nghiệp trong tương lai được coi là hệ quả trực tiếp của việc thực hiện dự án.
-

Loại bỏ chi phí chìm ra khỏi phân tích: Chi phí chìm là những chi phí đã xuất

hiện từ trước mà khơng thể bù đắp dù dự án có được thực hiện hay khơng ví dụ như
chi phí tư vấn việc lắp đặt dây chuyền sản xuất của dự án… Đây là chi phí chìm vì
doanh nghiệp bắt buộc phải trả khoản này dù dự án có đi vào hoạt động hay khơng.

Việc loại bỏ chi phí chìm sẽ khiến cho việc tính tốn chi phí, dịng tiền được chính
xác, từ đó hỗ trợ tốt cho việc ra các quyết định.
-

Chi phí cơ hội được đưa vào phân tích: Trong nhiều trường hợp, doanh

nghiệp sử dụng một số tài sản hữu ích cho dự án. Như vậy, doanh nghiệp không cần
vốn đầu tư cho tài sản này nữa. Tuy vậy, giá trị tài sản này cần được đưa vào khoản
mục chi phí đầu tư vì nếu khơng sử dụng tài sản này cho dự án thì doanh nghiệp có
thể thu được khoản lợi nhuận từ việc sử dụng tài sản vào những mục đích khác. Đây
chính là việc phản ánh chi phí cơ hội vào việc tính tốn dịng tiền.
-

Tác dụng phụ khi dự án vào hoạt động cần được xem xét khi tính tốn dịng

tiền của dự án: Khi dự án đi vào hoạt động có thể gây ra những tác động phụ, chẳng
hạn như giảm doanh thu của một mặt hàng cũ của doanh nghiệp. Vì vậy, khi tính
tốn dịng tiền của dự án cần tính tới cả sự sụt giảm doanh thu của sản phẩm hiện tại
của doanh nghiệp.
-

Phân bổ chi phí quản trị chung: Khơng phải bất cứ khi nào cũng phân bổ chi

phí chung vào dự án mà phải xem xét sự chênh lệch của khoản chi phí này trước và
sau khi thực hiện dự án. Nếu chi phí này tăng lên thì mới tính vào chi phí của dự án.
Nội dung thẩm định dịng tiền của dự án
Nguyễn Tuấn Anh

18


Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

Để có thể tính tốn đúng dịng tiền của dự án thì ngân hàng cần xác định và
kiểm tra tính chính xác của số liệu về doanh thu, chi phí của dự án.
 Về doanh thu của dự án: Doanh thu của dự án được dự tính từ sản lượng sản
xuất, số lượng sản phẩm, dịch vụ được bán ra với mức giá cả dự kiến. Trên cơ sở
kết quả thẩm định thị trường, nguồn cung đầu vào cùng thông số kỹ thuật của dự án,
chúng ta sẽ tính tốn được cơng suất khai thác, sản lượng bán tương ứng với mức
giá bán dự kiến. Khi tính tốn doanh thu phải loại bỏ thuế gián thu ra ngồi.
 Về chi phí: Ngân hàng sẽ kiểm tra việc tính tốn của doanh nghiệp đã đầy đủ
các yếu tố chi phí cần thiết chưa và có hợp lý hay khơng. Kết quả thẩm định thị
trường và các đặc tính kỹ thuật của dự án là cơ sở quan trọng cho việc tính tốn chi
phí của dự án. Thuế gián thu cũng cần được loại bỏ ra khỏi chi phí của dự án.
Trên cơ sở xác định được doanh thu, chi phí của dự án sẽ xác định dòng tiền
ròng (NCF) của dự án. Về cơ bản thì dịng tiền rịng của dự án bao gồm những
khoản mục sau:
-

Dòng tiền ròng từ hoạt động sản xuất kinh doanh (OCF): Có 3 cách để tính

dịng tiền hoạt động của dự án: Phương pháp từ dưới lên, phương pháp từ trên
xuống và phương pháp tiết kiệm thuế.
+ Phương pháp từ dưới lên: OCF = LNST + Khấu hao
+ Phương pháp từ trên xuống: OCF = Dòng tiền vào – Dòng tiền ra.
+ Phương pháp tiết kiệm nhờ thuế: OCF = Doanh thu – (Chi phí khơng tính khấu

hao)*(1-T) + Khấu hao*T với T là thuế suất thuế TNDN.
-

Dòng tiền ròng đầu tư của dự án: Bao gồm đầu tư vào TSCĐ và thay đổi vốn

lưu động thường xuyên. Đầu tư vào TSCĐ có thể được bỏ ra một lần vào năm 0
hoặc bỏ ra vào một số năm trong quá trình triển khai và vận hành dự án và thường
mang dấu (-). Thay đổi vốn lưu động thường xun có thể mang dấu (-) hoặc mang
dấu (+).
-

Dịng tiền ròng thu hồi sau đầu tư: Bao gồm thu hồi vốn lưu động ròng và

thanh lý tài sản cố định. Cần lưu ý, nếu giá trị thanh lý của TSCĐ lớn hơn giá trị

Nguyễn Tuấn Anh

19

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

ban đầu trên sổ sách của tài sản thì phần chênh lệch sẽ phải tính thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Vậy NCF = OCF + Dòng tiền ròng đầu tư của dự án + Dòng tiền ròng thu
hồi sau đầu tư

 Thẩm định lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà chủ dự án yêu cầu đối
với dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định NPV của dự án.
Hầu hết các dự án đều có cơ cấu tài trợ hỗn hợp gồm nợ và vốn chủ sở hữu
do đó, lãi suất chiết khấu của dự án chính bằng chi phí vốn bình qn của dự án.

k  WACC  Ws  rs  Wd  rd  (1  T )
Trong đó: + WACC: Chi phí vốn bình qn
+ Ws, Wd: tỷ trọng VCSH và tỷ trọng nợ trong tổng vốn đầu tư
+ rs, rd: Chi phí VCSH và chi phí nợ
+ T: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Ta lưu ý rằng, rs được tính theo cơng thức sau:
rs  R f   ( Rm  R f )

Với Rf là lợi tức phi rủi ro, chính bằng lãi suất trái phiếu chính phủ; Rm là tỷ
suất sinh lợi trung bình của thị trường; β là hệ số rủi ro hệ thống.
Việc tính rs ở Việt Nam là tương đối khó khăn do khơng có số liệu thống kê
đầy đủ về giá cổ phiếu của các công ty trong q khứ. Bên cạnh đó, số lượng cơng
ty niêm yết trên thị trường không nhiều.
 Xác định tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài chính của dự án
Thơng thường, để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án các ngân hàng
thường sử dụng các chỉ tiêu sau: NPV, IRR, PP, PI…
 Giá trị hiện tại ròng (NPV)
Giá trị hiện tại ròng (NPV) là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các
dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện
tại hóa ở mốc 0. Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định tài
chính dự án.
Nguyễn Tuấn Anh

20


Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

Công thức:
n

NPV  
0

NCFi
 CF0
(1  k )i

Trong đó: NCFi là dịng tiền ròng của dự án năm i
k: Lãi suất chiết khấu của dự án
i: Số năm thực hiện của dự án
CF0: Vốn đầu tư ban đầu
NPV phản ánh kết quả lãi, lỗ của dự án sau khi chiết khấu dòng tiền về hiện
tại. Nếu NPV < 0 thì dự án bị lỗ, nếu NPV=0 thì dự án hồn vốn và NPV >0 chứng
tỏ dự án có lãi. Khi ra quyết định dựa vào NPV, đối với những dự án độc lập thì lựa
chọn dự án có NPV  0, cịn đối với các dự án loại trừ nhau thì lựa chọn dự án có
NPV  0 và lớn nhất.
Ưu điểm của phương pháp này: NPV cho biết phần giá trị tăng thêm của dự
án được chiết khấu về thời điểm hiện tại, vì vậy là cơ sở để nhà đầu tư ra quyết
định. Bên cạnh đó, NPV cũng đã tính đến giá trị thời gian của tiền – một nguyên tắc

quan trọng trong việc ra các quyết định tài chính.Tuy vậy, NPV cũng tỏ ra bất lợi
khi so sánh những dự án có vốn đầu tư hay thời gian khác nhau.
 Tỷ suất nội hoàn (IRR) và tỷ suất nội hồn điều chỉnh (MIRR)
Tỷ suất nội hồn chính là lãi suất chiết khấu làm cân bằng giá trị hiện tại của
các dòng tiền vào kỳ vọng và giá trị hiện tại của các dịng tiền ra kỳ vọng hay nói
cách khác IRR chính là lãi suất chiết khấu làm cho NPV=0.
Phương trình xác định IRR như sau:

CFi

 (1  k )

i

 CF0  0

k ở đây chính là IRR
Khi sử dụng chỉ tiêu IRR ra quyết định đối với những dự án độc lập thì lựa
chọn dự án có IRR  lãi suất chiết khấu, còn đối với những dự án loại trừ nhau thì
lựa chọn dự án có IRR lớn nhất.

Nguyễn Tuấn Anh

21

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp


Đại học Bách Khoa Hà Nội

Phương pháp IRR khắc phục nhược điểm của phương pháp NPV đó là có thể
so sánh các dự án có thời gian hay vốn đầu tư khác nhau. Tuy vậy, phương pháp
IRR lại ngầm giả định rằng các dòng tiền thu được trong các năm hoạt động của dự
án được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Việc giả định này là khơng
thuyết phục vì lãi suất chiết khấu sẽ thay đổi theo từng năm. Do vậy, để khắc phục
nhược điểm này người ta sử dụng phương pháp tỷ suất nội hoàn điều chỉnh MIRR.
MIRR là lãi suất chiết khấu làm cân bằng tồn bộ chi phí giá trị hiện tại với giá trị
tương lai của toàn bộ dòng tiền vào đã được quy đến thời điểm kết thúc dự án.
Cơng thức tính MIRR :

TV
 CF0  0
(1  MIRR) n
Trong đó TV chính là giá trị tương lai của các dịng tiền vào được tính lãi
kép theo chi phí vốn của dự án. Phương pháp MIRR giả định rằng các dịng tiền
được đầu tư theo chi phí vốn của dự án chứ không phải là theo IRR của dự án.
Nguyên tắc khi lựa chọn dự án là những dự án có MIRR  lãi suất chiết khấu.
 Thời gian hồn vốn (PP)
Thời gian hồn vốn chính là thời gian kỳ vọng để bù đắp vốn ban đầu của dự
án.
Cách xác định thời gian hoàn vốn của dự ỏn

PP n

Số vốn đầu tư còn lại cần được thu hồi
Dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn

Vi n là năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn.

Thời gian hồn vốn cho người thẩm định biết tương đối chính xác về mức độ
rủi ro của dự án. Thời gian thu hồi vốn càng dài thì rủi ro của dự án càng cao. Hạn
chế của phương pháp này là các dịng tiền xuất hiện sau mốc thời gian hồn vốn
khơng được quan tâm và phương pháp này cũng không quan tâm tới chi phí vốn.
Một biến thể của thời gian hoàn vốn là thời gian hoàn vốn chiết khấu tức là
các dòng tiền kỳ vọng được chiết khấu dựa trên chi phí vốn và cộng dồn để xác định

Nguyễn Tuấn Anh

22

Lớp: QTKD4


Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

mốc thời gian đủ để bù đắp vốn đầu tư ban đầu.Vì vậy, nó tính tới những tác động
của chi phí vốn.
 Hệ số doanh lợi (PI)
Hệ số doanh lợi được tính dựa vào mối quan hệ tỷ lệ giữa tổng giá trị hiện tại
của các dòng tiền sau mốc đầu tư so với vốn đầu tư ban đầu.
Công thức xác định:
PI 

PV
P

Trong đó: PV: Thu nhập rịng hiện tại

P: Vốn đầu tư ban đầu
PV=NPV+P
PI cho biết 1 đồng đầu tư vào dự án sẽ mang lại bao nhiêu đồng thu nhập
ròng hiện tại. Chỉ tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với chỉ tiêu NPV và cùng đưa ra
một quyết định chung.
 Hệ số năng lực trả nợ hàng năm (DSCR)
Đây là chỉ tiêu cho biết dự án có khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ đến mức nào
và có an tồn khơng. Hệ số năng lực trả nợ hàng nm c tớnh theo cụng thc sau:

DSCRn

Dòng tiền trả nợ hàng năm
Nợ tới hạn

Trong ú:
Dũng tin tr n hng năm = EBIT + khấu hao.
Nợ tới hạn = Nợ gốc phải trả + Lãi vay
Hệ số này càng cao và lớn hơn 1 thì khả năng trả nợ hàng năm của dự án là
lớn, vốn cho vay của ngân hàng an tồn.
 Phân tích điểm hịa vốn của dự án (BP)
Điểm hòa vốn của dự án là điểm mà ở đó doanh thu của dự án vừa đủ bù đắp
các chi phí của dự án. Như vậy, tại điểm hòa vốn, lợi nhuận của doanh nghiệp bằng
0.Điểm hòa vốn giúp người thẩm định có một cái nhìn trực quan về khả năng hòa
vốn của dự án, chỉ cần vượt q mức sản lượng hịa vốn là dự án có lãi.Tuy nhiên,

Nguyễn Tuấn Anh

23

Lớp: QTKD4



Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

BP lại khơng tính tới giá trị thời gian của tiền đối với chi phí cố định, chi phí biến
đổi nên sẽ khơng chính xác như những chỉ tiêu khác.
Điểm hịa vốn của dự án được xác định qua chỉ tiêu sản lượng hịa vốn,
doanh thu hịa vốn hay cơng suất hịa vốn.
-

Sản lượng hòa vốn: là sản lượng làm cho lợi nhuận của dự án bằng 0.
Cơng thức tính:

Qhv 

FC
PV

Trong đó: FC: Tổng chi phí cố định hàng năm của dự án
V: Chi phí biến đổi / 1 đơn vị sản phẩm
P: Giá bán một đơn vị sản phẩm
-

Doanh thu hòa vốn: Là mức doanh thu để lợi nhuận của dự án bằng 0.
Cơng thức tính:

Qhv 


FC
P  VC / R

Trong đó: VC: Tổng chi phí biến đổi của dự án
R: Tổng doanh thu của dự án
-

Cơng suất hịa vốn: Là mức hoạt động cần thiết của dự án phải đạt được để

lợi nhuận bằng 0.
Cơng thức tính:

Shv 

Qhv
Q

 Đánh giá rủi ro của dự án
+ Phân tích độ nhạy
Đây là phương pháp phân tích những biến đổi trong giá trị NPV, IRR của dự
án khi một hay một số yếu tố giả định của dự án như giá cả, doanh thu, chi phí…
thay đổi .Phương pháp này cho phép đánh giá được độ nhạy cảm của dự án với
những yếu tố nào, từ đó đưa ra được biện pháp phịng ngừa rủi ro.

Nguyễn Tuấn Anh

24

Lớp: QTKD4



Luận văn tốt nghiệp

Đại học Bách Khoa Hà Nội

+ Phân tích tình huống: Là việc đánh giá những thay đổi của các chỉ tiêu như
NPV, IRR… do sự thay đổi nhỏ cùng chiều của một loạt những yếu tố.
+ Phân tích tình huống mơ phỏng: Phương pháp này dựa trên sự kết hợp giữa
phân tích độ nhạy và phân tích tình huống, tức là xem xét sự thay đổi của các chỉ
tiêu NPV, IRR…khi có sự thay đổi với giá trị lớn của tất cả các yếu tố để có thể
đánh giá chi tiết hơn về hiệu quả tài chính của dự án.

1.3.2. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.3.2.1. Khái niệm chất lượng thẩm định tài chính dự án
Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay là một khái
niệm trừu tượng và phụ thuộc vào góc độ đánh giá cũng như mục tiêu của từng chủ
thể liên quan đến dự án. Tuy vậy, trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến
chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay dưới góc độ là nhà tài
trợ (tức các NHTM).
Theo đó, chất lượng thẩm định tài chính dự án được đo lường bằng một chỉ
tiêu tổng hợp phản ánh mức độ chính xác, khoa học của nội dung và kết quả thẩm
định trong điều kiện thời gian ngắn nhất và chi phí thẩm định thấp nhất, từ đó là cơ
sở để ngân hàng lựa chọn được những dự án có tính khả thi, hiệu quả tài chính cao,
khả năng hồn trả vốn và lãi đúng hạn, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay
của ngân hàng, đem lại sự hài lòng cho khách hàng.

1.3.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án
Chất lượng thẩm định tài chính dự án được đánh giá thông qua các chỉ tiêu
sau: nội dung thẩm định, thời gian thẩm định, chi phí thẩm định, chất lượng tín
dụng và hiệu quả hoạt động cho vay theo dự án.

 Nội dung thẩm định
Nội dung thẩm định đầy đủ, khoa học, đảm bảo tính thuyết phục, chính xác
trong tính tốn các chỉ tiêu tài chính sẽ là căn cứ cho thấy chất lượng thẩm định tài
chính dự án là tương đối tốt. Vì vậy, nội dung thẩm định là một trong những chỉ tiêu
giúp đánh giá chất lượng thẩm định tài chính của ngân hàng. Nội dung thẩm định tài
chính dự án được cho là đầy đủ, khoa học khi đáp ứng các tiêu chí sau:

Nguyễn Tuấn Anh

25

Lớp: QTKD4


×