Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.9 KB, 7 trang )

Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

Các khái niệm cơ bản về lao
động và việc làm
Bởi:
Nguyễn Mạnh Tiến

Một số khái niệm và phạm trù có liên quan.
Người lao động là lực lượng về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh.
Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm tồn bộ dân
số có thể phát triển bình thường cả về thể lực lẫn trí lực (khơng bị khiếm khuyết, dị tật
bẩm sinh).
Nguồn lao động với tư cách là nguồn lực cách mạng nhất, quan trọng nhất quyết định
tới sự phát triển kinh tế, xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
Nguồn lao động được xem xét trên hai góc độ số lượng và chất lượng.
Số lượng nguồn lao động được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu như quy mô và tốc độ
phát triển nguồn lao động
Chất lượng nguồn lao động được xem xét trên các mặt: Sức khoẻ, trình độ văn hố, trình
độ chun mơn, năng lực phẩm chất.

Phương pháp xác định nguồn lao động
Việc xác điịnh quy mô, cơ cấu nguồn lao động được thực hiện thông qua các cuộc tổng
điều tra dân số hoặc điều tra thực trạng lao động và việc làm hàng năm. Phương pháp
xác định cũng được quy định cụ thể và áp dụng cho từng thời kỳ.
Dân số trong độ tuổi lao động.
Để có thể sống và phát triển, con người phải tiêu dùng một lượng của cải nhất định dưới
nhiều dạng như: lương thực, thực phẩm, vải vóc, nhà cửa, phương tiện thơng tin liên
lạc... những tư liệu sinh hoạt này không phải là quà tặng của tự nhiên mà ro con người
sáng tạo ra thơng qua q trình lao động. Tuy vậy khơng phải toàn bộ dân số tham gia
1/7




Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

vào quá trình sản xuất mà chỉ một bộ phận có đủ sức khoẻ và trí tuệ mà thơi. Khả năng
đó chỉ gắn với một giới hạn tuổi nhất định, gọi là "độ tuổi lao động". Một số nước quy
định "độ tuổi lao động" đối với nam từ 15 đến 64 tuổi, một số nước khác lại từ 15 đến
59 tuổi, thậm chí từ 10 đến 59 tuổi tuỳ theo trình độ phát triển về thể lực cũng như trí lực
của người dân mỗi nước và nhu cầu về lao động của nước họ. Đối với lao động nữ giới
hạn trên về độ tuổi lao động thường ngắn hơn. Hiện nay bộ luật Lao động của nước Việt
nam ban hành năm 1994 quy định về "độ tuổi lao động" nam từ đủ 15 đến 60 tuổi, nữ
đủ từ 15 đến 55 tuổi. Tuy nhiên không phải mọi người trong độ tuổi lao động đều tham
gia hoạt động kinh tế. Việc quy đổi người trên và dưới độ tuổi lao động thành người lao
động như sau: cứ hai người trên tuổi lao động được tính bằng một người lao động, ba
người dưới độ tuổi lao động được tính bằng một người trong độ tuổi lao động.
Dân số hoạt động kinh tế.
Trong nghiên cứu nguồn lao động, các thuật ngữ sau đây được sử dụng theo nghĩa tương
tự: Lực lượng lao động, dân số làm việc và "dân số hoạt động kinh tế" thông thường,
người ta phải chia dân số thành hai khối lớn: Một khối là những người tích cực với các
hoạt động kinh tế. Khuyến nghị của Liên hợp quốc đối với các cuộc điều tra dân số, hai
bộ phận này được tách bạch như sau: Dân số hoạt động kinh tế bao gồm tất cả những
người không phân biệt giới, có thể cung cấp sức lao động cho các hoạt động sản xuất ra
các hàng hoá kinh tế hoặc các hoạt động trong lĩnh vực hoạt động dân sự hopặc những
người hoạt động trong lĩnh vực vũ trang; khi phân tích số liệu, nhóm người làm việc
trong lĩnh vực vũ trang có thể tách riêng khơng tính vào "lực lượng lao động". Như thế,
lực lượng nhân sự bao gồm:
- Những người đang có việc làm: Là những người làm việc trong khoảng thời gian xác
định trong cuộc điều tra, kể cả làm việc cho gia đình được trả cơng hoặc tạm thời nghỉ
việc do ốm đau, tai nạn, tranh chấp lao động hoặc nghỉ lễ hoặc ngừng việc tạm thời do
thời tiết xấu, trục trặc dây truyền sản xuất...

- Khơng có việc làm, thất nghiệp: Gồm những người trong khoảng thời gian xác định
của cuộc điều tra khơng có việc làm. Nó cũng bao gồm cả những người trước đó khơng
tìm được việc làm vì lý do ốm đau, tai nạn tạm thời mà họ khơng có thoả thuận sẽ bắt
đầu công việc mới ngay sau khoảng thời gian xác định ở trên, hoặc họ tạm thời nghỉ
hoặc nghỉ khơng có thời hạn mà khơng được trả cơng ở những nơi mà cơ hội kiếm việc
làm rất hạn hẹp. Khối thất nghiệp cũng bao gồm những người khơng có việc làm, có khả
năng lao động mặc dù họ khơng tích cực kiếm việc làm vì họ tin rằng khơng có cơ hội
làm việc nào mở ra đối với họ.
Dân số không hoạt động kinh tế.
Khối này bao gồm các nhóm sau:

2/7


Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

Người làm việc nhà: Bao gồm những người không phân biệt giới tính, khơng thuộc dân
số hoạt động kinh tế, tham gia vào các hoạt động trong phạm vi gia đình của chính họ.
Ví dụ người làm việc nội trợ hoặc trông nom nhà cửa con cái (những người được th
giúp việc nhà có trả cơng thì lại được coi là có hoạt động kinh tế).
- Học sinh, sinh viên: Bao gồm tất cả mọi người không phân biệt giới tính đang tham
gia học tập thường xun, khơng kể trường cơng trường tư hay các khố huấn luyện ở
bất kỳ cấp giáo dục nào.
- Người hưởng lợi tức, hưởng thu nhập mà không làm việc. Bao gồm tất cả những người
khơng phân biệt giới tính, khơng thuộc khối dân số hoạt động kinh tế, nhưng thu nhập
do đầu tư, do có tài sản cho thuê, do tiền bản quyền hay phát minh sáng chế, tiền tác giả,
tiền lương hưu do các năm làm việc trước đó.
- Các người khác: Bao gồm tất cả những người khác không phân biệt giới tính, khơng
thuộc khối dân số hoạt động kinh tế nhưng được trợ cấp hoặc được nhận các khoản hỗ
trợ có tính tư nhân khác và những người khơng thuộc bất kỳ một diện nào trong các diện

kể trên, chẳng hạn như trẻ em không hoặc chưa đi học.
Người thất nghiệp.
Là người có tuổi nằm trong tuổi lao động, có khả năng lao động và có nhu cầu lao động
nhưng khơng có việc làm trong thời điểm xác định của cuộc điều tra.

Việc làm.
Việc làm, phân loại việc làm.
Nói đến việc làm là nói đến vai trị của con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Để đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống, người lao động phải thơng qua hoạt
động sản xuất, chính là người lao động có việc làm. Tuy vậy khái niệm về việc làm lại
có sự khác nhau, tuỳ vào từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đây trong chế độ quan liêu bao cấp, ở nước ta thì việc làm được xem là những
hoạt động lao động trong các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã và các đơn vị kinh
tế tập thể. Tức là người lao động phải nằm trong biên chế nhà nước thì mới được xem là
người có việc làm.
Tuy nhiên khi nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết và định hướng của Nhà nước thì quan niệm việc làm có thay đổi
cho phù hợp hơn với cơ chế mới. Ngày nay Nhà nước ta quy định rất rõ về việc làm
trong bộ luật Lao động là: "Việc làm là những hoạt động có ích khơng bị pháp luật ngăn
cấm và đem lại thu nhập cho người lao động". Vậy, theo quan niệm mới này thì tất cả

3/7


Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

các hoạt động lao động trong mọi thành phần kinh tế, không bị pháp luật cấm và tạo ra
thu nhập từ hoạt động đó được coi là việc làm.
Việc làm là hoạt động tạo ra giá trị, của cải vật chất chỉ thông qua hoạt động sản xuất
con người mới có điều kiện đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống. "Lao động là
nguồn gốc của mọi của cải... lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của tồn bộ đời sống

lồi người." Ta có thể thấy việc làm được thể hiện dưới các dạng sau:
- Việc làm chính: Là cơng việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có
thu nhập cao hơn các cơng việc khác.
- Việc làm phụ: Là công việc mà người lao động dành nhiều thời gian nhất sau cơng
việc chính.
- Việc làm hợp lý: Là công việc mà người thực hiện nhận thấy phù hợp với điều kiện và
năng lực của bản thân.
- Việc làm hiệu quả: Là công việc mà đem lại hiệu quả cao nhất đối với người lao động.
Cũng từ cách phân chia như vậy, người ta phân chia:
- Việc làm đầy đủ: Là những người có việc làm ổn định và sử dụng hết thời gian làm
việc theo mức chuẩn quy định có thu nhậo cao từ việc làm đó.
- Thiếu việc làm: Bao gồm những người có việc làm bấp bênh (khơng ổn định) hoặc
đang có việc làm (40 giờ trong 5 ngày trở lên) trong tuần lễ tham gia không đầy đủ thời
gian làm trong ngày, trong năm và hưởng thu nhập rất thấp khơng đủ sống từ việc làm
đó nhưng khơng thể kiếm được việc làm khác.
- Thất nghiệp: Bộ Lao động thương binh và xã hội quy định: người thất nghiệp là người
đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra khơng
có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
Tạo việc làm.
Lao động là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Giải quyết việc làm cho người
lao động vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn
quan tâm đến vấn đề việc làm cho người lao động. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
việc giải quyết việc làm cho người lao động "Giải quyết việc làm và đảm bảo cho mọi
người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước,
các doanh nghiệp và toàn xã hội". Nhà nước hàng năm đang nỗ lực tạo những điều kiện
cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay vốn hoặc miễn, giảm thuế và áp dụng các biện pháp
khuyến khích để người lao động có khả năng tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn

4/7



Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

vị và các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển theo cả chiều rộng và chiều
sâu nhằm tạo việc làm cho ngày càng nhiều người lao động có việc làm.
Như vậy, để có việc làm trước hết cần hai yếu tố là sức lao động và điều kiện cần thết
để sử dụng sức lao động, trong đó bao gồm cả yếu tố xã hội. Như vậy, việc làm là phạm
trù dùng để chỉ trạng thái phù hợp với sức lao động và những điều kiện sử dụng sức lao
động đó. Trạng thái phù hợp thể hiện thơng qua tỷ lệ chi phí ban đầu với chi phí lao
động. Quan hệ tỷ lệ này phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi trình
độ đó thay đổi thì tỷ lệ đó cũng thay đổi theo. Chính vì vậy, q trình tạo việc làm là q
trình tạo ra của cải vật chất. Có thể mơ phỏng quy mơ tạo việc làm theo phương trình
sau:
Y = f (C,V,X...)
Trong đó:
Y: Số lượng việc làm được tạo ra.
C: Vốn đầu tư.
V: Sức lao động.
X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm....
Chẳng hạn muốn tạo việc làm cho lao động trong lĩnh vực cơng nghiệp thì cần thiết phải
bỏ vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị, công cụ, nguyên vật liệu,
thuê công nhân và thị trường cho sản phẩm đầu ra và sản phẩm đầu vào của quá trình
sản xuất. Hoặc tạo việc làm trong nông nghiệp cần tổ chức sản xuất thâm canh tăng vụ,
sản xuất thâm canh trồng màu và làm các ngành nghề truyền thống khi nông nhàn, tất
nhiên các hoạt động này cũng rất cần đến vốn, thị trường tiêu thụ.

SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN SỐ,
LAO ĐỘNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT CÔNG ĂN VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG .
Sự cần thiết phải điều chỉnh sự phát triển dân số, lao động.

Dân số
Ngay từ những năm 60 Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề dân số. Song nó
chưa thực sự được coi trọng, bởi vì mức độ gia tăng dân số ở nước ta vẫn còn khá cao
cho tới ngày nay, tỷ lệ này hiện nay hàng năm khoảng 1,8%/năm. Quy mô dân số lớn,
tốc độ gia tăng dân số lại cao trong điều kiện kinh tế - xã hội còn chậm và thấp kém

5/7


Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

đang đặt ra cho chúng ta những vấn đề kinh tế - xã hội hết sức gay gắt cần giải quyết
trước mắt cũng như lâu dài dân số và phát triển là hai mặt của vấn đề và có ảnh hưởng
qua lại sâu sắc với nhau. Do vậy chúng ta cần phải điều chỉnh sự phát triển dân số sao
cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển ở hiện tại và lâu dài.
Nguồn lao động.
Tăng dân số nhanh một mặt làm dồi dào thêm nguồn nhân lực, nguồn vốn vô cùng to lớn
và quý giá nhất của đất nước. Song mặt khác nó lại đặt ra hàng loạt các vấn đề phát triển
nguồn nhân lực từ bảo đảm y tế, giáo dục, đào tạo nghề, và giải quyết công ăn việc làm,
nâng cao mức sống vật chất và tinh thần. Dân số gia tăng nhanh sẽ ảnh hưởng đến sự
biến thiên của quy mô nguồn lao động, chất lượng và cơ cấu nguồn lao động. Khi dân số
tăng nhanh nguồn lao động, nguồn lao động bổ xung ngày càng lớn trong khi nguồn lao
động hiện thời vẫn chưa giải quyết hết việc làm. Về mặt chất lượng thì sự gia tăng dân
số nói chung và lực lượng lao động nói riêng làm chất lượng giảm sút. Mặc dù chúng ta
đã thành cơng trong việc xố mù chữ. Song tỷ lệ lao động có tay nghề, qua đào tạo còn
rất thấp và bất hợp lý so với yêu cầu của cơng cuộc Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố đất
nước.
Sự cần thiết nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho người lao động.
Vấn đề tạo việc làm, thu hút con người tham gia vào quá trình lao động, phát triển kinh
tế có tầm quan trọng lớn, đặc biệt là ở nứoc ta với đặc trưng của nền kinh tế chậm phát

triển. Tuy nhiên muốn tạo việc làm thu hút con người vào quá trình lao động phải xét
đến hàng loạt các vấn đề có liên quan.
Đối tượng của tạo việc làm là những người thiếu việc làm, những người thất nghiệp
nhưng có nhu cầu làm việc. Hiện tượng tồn tại một lực lượng lao động tihếu việc làm và
thất nghiệp với tỷ lệ cao biểu hiện sự lãng phí nguồn lực quan trọng nhất trong quá trình
phát triển kinh tế. Hơn nữa thiếu việc làm và thất nghiệp còn gây ra một áp lực lớn đối
với sự ổn định chính trị và tiến bộ xã hội. Trong những năm gần đây, khi nước ta đang
tiến hành cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước thì việc khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực bên trong được xem là mục tiêu hàng đầu. Đặc biệt là nguồn lực con
người cần tạo việc làm, thu hút lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm tới mức
thấp nhất lực lượng thất nghiệp.
Xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với đói nghèo. Tỷ lệ thất nghiệp cao không
những gây tổn thất lớn cho nền kinh tế mà cịn gây ra nhiều khó khăn cho cuộc sống cá
nhân người lao động. Những người thất nghiệp, họ không sản xuất ra sản phẩm nhưng
họ vẫn phải tiêu dùng một nguồn lực nhất định của xã hội đặc biệt ở tuổi trưởng thành,
mức tiêu dùng thường lớn hơn các độ tuổi khác. Đối với nước ta, những người thất
nghiệp là những người khơng có thu nhập và sống nhờ vào nguồn thu nhập của người
khác trong gia đình. Hơn nữa thường những người thất nghiệp là những người chủ gia

6/7


Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm

đình, nguồn thu nhập của họ có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của các thành viên trong
gia đình, khi đời sống kinh tế của gia đình khó khăn thì nó lại ảnh hưởng đến mọi mặt
của đời sống gia đình. Đây chính là những ngun nhân sâu xa, phức tạp của những rối
ren cho xã hội.
Trên góc độ quản lý Nhà nước, hiện tượng tồn tại thất nghiệp lớn chính là chúng ta
khơng phát huy hết nội lực những tiềm năng vô cùng to lớn, quý giá, sáng tạo ra giá trị

và sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Ở nước ta hiện nay tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng
6% đến 7% lực lượng lao động và chủ yếu là thất nghiệp theo cơ cấu (có ngành cần lao
động thì khơng có, ngành cần ít lao động thì lại thừa nhiều). Đó là hiện tượmg hệ thống
đào tạo không gắn với cầu về lao động trên thị trường lao động cả về số lượng và chất
lượng lao động, phần lớn sinh viên ra trường đều vấp phải một khó khăn đó là việc làm.
Họ là những người được đào tạo và có trình độ chun mơn những mong khi ra trường
đem hết hiểu biết, tài năng của mình để phục vụ đất nước, phục vụ quê hương và ổn
định cuộc sống cá nhân, vậy mà phần lớn trong số họ phải ra nhập đội quân thất nghiệp.
Như thế, việc đầu tư cho giáo dục có nên khơng? Làm thế nào để sử dụng họ có hiệu quả
nhất cả về số lượng lẫn chất lượng? Câu hỏi này khơng phải ngày một ngày hai mà có
thể trả lời được. Đó là một vấn đề khó khăn mang tính phức tạp và thời sự đối với tất cả
các ngành và các cấp lãnh đạo. Do tầm quan trọng cũng như sự ảnh hưởng lớn lao của
vấn đề việc làm và thất nghiệp những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã phối hợp
giữa các ngành các cấp để đưa ra phương án khả dĩ nhằm giảm đến mức thấp nhất số
người thất nghiệp nhưng do tính phức tạp của vấn đề nên kết quả đạt được còn rất nhiều
hạn chế. Chương trình trong những năm tới là phải đưa vấn đề tạo việc làm cho người
lao động mang tính quốc sách hàng đầu khơng chỉ đối với lao động công nghiệp đo thị
mà cả lao động nông nghiệp nơng thơn vì lao động nước ta trong nơng nghiệp chiếm tỷ
trọng sấp xỉ 80%.
Về mặt xã hội, thất nghiệp gây nên những hậu quả nặng nề, khi xét đến nguyên nhân
của các tệ nạn xã hội, người ta nhận thấy rằng, những người thất nghiệp tham gia vào
các tệ nạn này chiếm tỷ trọng đáng kể. Những người thất nghiệp tham gia vào các tệ
nạn xã hội như nghiện ma tuý, trộm cắp, mại dâm, đâm thuê, chém mướn trong xã hội
đen... đều đem lại thu nhập ít nhiều cho người tham gia. Trong lúc các con đường khác
tạo việc làm một cách chân chính bị khép lại, thì con đường đến với các tệ nạn xã hội lại
thường mở ra và khó kiểm sốt.

7/7




×