Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Hàng thửa kế theo quy định của pháp luật việt nam, và thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân tỉnh đắk nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.42 KB, 80 trang )

Ọ QU
TRƢỜN

T

P

MN

Ọ K N TẾ - LUẬT

N UYỄN T Ị T

N

N

N

T ẢO

T Ừ KẾ T EO QUY ỊN

Ủ P ÁP

LUẬT V ỆT N M V T Ự T ỄN ÁP DỤN
TỊ ÁN N ÂN DÂN TỈN

LUẬN VĂN T

TP,



ẮK NƠN

SĨ LUẬT

MINH NĂM 2018



T


Ọ QU

T

TRƢỜN

N

MN

Ọ K N TẾ - LUẬT

N UYỄN T Ị T

N

P


N

T ẢO

T Ừ KẾ T EO QUY ỊN

Ủ P ÁP

LUẬT V ỆT N M V T Ự T ỄN ÁP DỤN
TỊ ÁN N ÂN DÂN TỈN

T

ẮK NƠN

hun ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã ngành: 60 38 01 03

LUẬN VĂN T

N ƢỜ

ƢỚN

TP .

SĨ LUẬT

D NK O


MN



Ọ : TS. P

, NĂM 2018

MK M N


LỜ

M O N

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa
học của luận văn chưa được công bố trên bất kỳ cơng trình nào khác. Ngồi
ra, trong luận văn có sử dụng một số nhận xét, đánh giá, bình luận, cũng như
số liệu của các tác giả khác nhưng đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc
rõ ràng.

Đắk Lắk, tháng 05 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Thảo


D N


MỤ

Á TỪ V ẾT TẮT

1.

BLDS

Bộ luật dân sự

2.

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

3.

PLTK

Pháp lệnh thừa kế

4.

PLVTK

Pháp luật về thừa kế

5.


TAND

Tịa án nhân dân

6.

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

7.

UBND

Ủy ban Nhân dân

8.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤ LỤ
MỞ ẦU .......................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ..................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ........................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 7

6. Kết cấu của luận văn ..................................................................................................... 7
ƢƠN 1. MỘT S VẤN Ề LÝ LUẬN V QUY ỊN
Ủ P ÁP LUẬT
V ỆT N M VỀ
N T Ừ KẾ T EO LUẬT ...................................................... 8
1.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế .................................................................. 8
1.1.1. Diện thừa kế ..................................................................................................... 8
1.1.2. Hàng thừa kế .................................................................................................. 10
1.1.3. Cơ sở của việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật ....................... 14
1.2. Các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành ..................... 17
1.2.1. Hàng thừa kế thứ nhất .................................................................................... 17
1.2.2. Hàng thừa kế thứ hai ...................................................................................... 26
1.2.3. Hàng thừa kế thứ ba ....................................................................................... 32
KẾT LUẬN

ƢƠN

1 ............................................................................................. 39

ƢƠN 2. T ỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ T TÒ
ÁN N ÂN DÂN TRÊN Ị B N TỈN
ẮK NÔN V P ƢƠN
ƢỚNG
O N T ỆN NHỮN QUY ỊNH CỦ P ÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
N
THỪA KẾ THEO LUẬT ............................................................................................. 41
2.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế tại TAND trên địa bàn tỉnh Đắk Nông .. 41
2.1.1. Tổng quan về địa bàn Tỉnh Đắk Nông ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh
chấp thừa kế ................................................................................................. 41
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế tại TAND trên

địa bàn tỉnh Đắk Nông và những vướng mắc, tồn tại .................................. 42
2.2. Nguyên nhân của những vướng mắc tồn tại ............................................................ 59
2.3. Một số giải pháp hướng hoàn thiện các quy định về hàng thừa kế theo pháp luật .. 61
KẾT LUẬN

ƢƠN

2 ............................................................................................. 68

KẾT LUẬN.................................................................................................................... 70
D N

MỤ T

L ỆU T

M K ẢO .................................................................... 72


1

MỞ ẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một chế định quan trọng trong luật dân sự nói riêng và trong pháp
luật nói chung, bởi lẽ nó có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với quyền sở hữu tài sản một trong những quyền cơ bản của con người. Một bộ phận không thể thiếu trong
chế định này là những quy phạm điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật - hình
thức thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Như vậy, quy định hàng thừa kế là một vấn đề then chốt trong điều chỉnh quan hệ
thừa kế theo pháp luật. Qua xác định hàng thừa kế, người ta có thể xem xét chủ thể
nào có quyền hưởng di sản của người chết để lại và phần di sản được hưởng là bao

nhiêu. Do vậy, nếu pháp luật về hàng thừa kế có những quy định khoa học, phù hợp
với thực tiễn sẽ giúp cho việc giải quyết vấn đề thừa kế được nhanh gọn. Ngược lại,
nó sẽ là nguyên nhân dẫn tới những tranh chấp, bất đồng. Xuất phát từ ý nghĩa quan
trọng đó, các nước trên thế giới ln quan tâm tới việc hoàn thiện quy định pháp
luật về hàng thừa kế. Với công tác xây dựng pháp luật về thừa kế, hay cụ thể hơn là
về hàng thừa kế cũng tương tự việc xây dựng bất kỳ quy phạm nào khác, nắm vững
pháp luật hiện hành, phân tích được những thành cơng cũng như tồn tại của nó, hiểu
rõ tình hình thực tiễn, cùng với một nhãn quan sâu rộng về tiến trình phát triển của
lịch sử pháp luật nước nhà cũng như pháp luật tương ứng của các nước trên thế giới
sẽ giúp cho các nhà lập pháp xây dựng được những quy định tốt, có tính khả thi,
đáp ứng nhu cầu xã hội một cách hiệu quả.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng đa
dạng của các quan hệ xã hội, các tranh chấp về thừa kế nói chung và thừa kế theo
pháp luật nói riêng ở nước ta có xu hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội
dung, đặc biệt là các tranh chấp thừa kế nhà ở, quyền sử dụng đất bởi đây là loại tài
sản có giá trị lớn và có liên quan mật thiết tới chính sách đất đai của Nhà nước.
Thực tiễn giải quyết các trường hợp tranh chấp thừa kế, Tòa án các cấp đã gặp phải
khơng ít khó khăn, thậm chí phải xét xử nhiều lần ở nhiều cấp xét xử khác nhau gây
tốn kém cả về thời gian và chi phí. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác


2

nhau trong đó phải kể đến các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa
kế theo pháp luật nói riêng vẫn cịn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, cụ thể dẫn
đến nhiều cách hiểu khác nhau là tiền đề cho việc áp dụng không nhất qn, trình
độ chun mơn của một số thẩm phán còn hạn chế, v.v... Theo thống kê của TAND
tỉnh Đắk Nơng thì số lượng đơn đề nghị Tịa án xem xét vụ án theo trình tự giám
đốc thẩm ngày càng tăng và tính chất ngày càng phức tạp. Trong đó, phần lớn là các
vụ, việc liên quan đến tranh chấp thừa kế nhà ở, quyền sử dụng đất chiếm tỷ lệ cao,

tỷ lệ các bản án, quyết định bị sửa, hủy do vi phạm thủ tục tố tụng và do áp dụng sai
pháp luật về nội dung còn nhiều. Đáng chú ý, có một số vụ tranh chấp thừa kế liên
quan đến nhà, đất kéo dài nhiều năm, nhiều cấp xét xử làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân. Vẫn cịn tình trạng một số bản án giải quyết tranh
chấp thừa kế nhà, đất tuyên khơng rõ ràng, gây khó khăn cho cơng tác thi hành án
dân sự.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử về giải quyết tranh chấp
nói chung, giải quyết tranh chấp về thừa kề nói riêng, đã và đang đặt ra những yêu
cầu cấp bách và lâu dài để không ngừng nâng cao chất lượng xét xử trong quá trình
thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta theo đúng đường lối của Đảng. Chính vì ý
nghĩa lý luận và thực tiễn đã nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài

“Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp
dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông”.
làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế theo pháp luật nói chung và hàng thừa kế theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của TAND là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp
lý. Đặc biệt trong tình hình hiện nay thì số lượng bài viết, cơng trình nghiên cứu về
thừa kế và áp dụng pháp luật thừa kế trong hoạt động xét xử của Tịa án tăng lên rõ
rệt. Nhưng theo tìm hiểu của tác giả thì hiện nay, liên quan đến đề tài: “Hàng thừa
kế theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Nơng” thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào tương tự. Qua tìm hiểu các
cơng trình nghiên cứu khoa học về pháp luật thừa kế đã có nhiều cơng trình, bài viết


3

về vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng, có thể chia thành
các nhóm lớn như sau:

- Nhóm các đề tài nghiên cứu khoa học: Đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ
“Pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay”, Phạm Kim Anh (2009),
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Đề tài được nghiên cứu với mục đích
làm sáng tỏ những quy định của pháp luật về thừa kế liên quan đến quyền thừa kế của
công dân; quy định của pháp luật thực định về quyền thừa kế của cơng dân qua hai
hình thức: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Quá trình hình thành và phát
triển pháp luật thừa kế ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử; nêu những cơ sở và luận
điểm có tính chất tổng qt về tiến trình phát triển pháp luật thừa kế ở nước ta qua các
thời kỳ lịch sử và phân tích để thấy rõ những nội dung kế thừa, phát triển qua mỗi thời
kỳ lịch sử. Đề tài không nghiên cứu tất cả các nội dung của chế định thừa kế mà các
chuyên đề chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất, nhưng hiện có những
cách hiểu rất khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật như: xác định chính xác di
sản thừa kế, quan hệ pháp luật về thừa kế, thừa kế trong di chúc chung của vợ chồng,
vấn đề thừa kế thế vị.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ :“Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân
dân”, Tưởng Duy Lượng, Tòa án nhân dân tối cao (năm 2001); Đề tài gồm 3 nội
dung chính: i)khái quát các qui định của pháp luật thừa kế từ cách mạng tháng
8/1945 đến nay; ii)Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân dân; iii)Những vướng mắc
trong việc xét xử các tranh chấp thừa kế và kiến nghị hoàn thiện hướng giải quyết.
“Diện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2005. Những bất cập
và phương hướng hoàn thiện”, Vũ Thị Hương (2012), Kỷ yếu hội thảo khoa học,
Khoa Luật, Trường đại học Luật - Đại học Huế. Nhóm này đã nghiên cứu có tính
chất tổng qt các khái niệm liên quan đến quyền thừa kế của công dân; quy định
pháp luật thực định về quyền thừa kế; cũng như quá trình hình thành và phát triển
pháp luật thừa kế ở nước ta trong các giai đoạn lịch sử để thấy rõ những nội dung
thừa kế, phát triển qua mỗi thời kỳ lịch sử. Để từ đó nêu những kiến nghị nhằm



4

hoàn thiện chế định thừa kế cho phù hợp với tổng thể các quy định trong bộ luật dân
sự và đồng bộ với các quy định của các ngành luật khác.
- Nhóm luận văn, luận án: Ở nhóm này có thể liệt kê một số cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu như Luận án tiến sĩ với đề tài "Thừa kế theo pháp luật của
công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" tác giả Phùng Trung Tập -Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2002.Với đề tài này, tác giả đã nghiên cứu, hệ thống hóa các
quy định pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình hình thành và phát triển qua các
thời kỳ từ năm 1945 để từ đó đánh giá nội dung những quy định về thừa kế theo
pháp luật của công dân Việt Nam. Luận án tiến sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực
tiễn của những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự" của tác giả
Nguyễn Minh Tuấn -Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2006.đã luận giải những
vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định về thừa kế của Việt Nam qua các thời
kỳ phát triển. Luận án tiến sĩ luật học “Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt
Nam” của tác giả Trần Thị Huệ -Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2007. Luận án
tập trung phân tích các qui định của pháp luật hiện hành về di sản thừa kế trong
BLDS Việt Nam và một số qui định của các ngành luật khác liên quan đến di sản
thừa kế (Luật đất đai, Luật HN&GĐ, Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ…).
Tìm hiểu cơ sở của các qui định về di sản thừa kế,thực tiễn áp dụng pháp luật về di
sản thừa kế và xác định di sản thừa kế qua hoạt động xét xử của TAND.
- Nhóm sách giáo trình, sách chun khảo: Ở nhóm này, trước tiên phải kể
đến cuốn sách chuyên khảo "Luật Thừa kế Việt Nam" của tác giả Phùng Trung Tập,
Nxb Hà Nội, 2008 và cuốn "Pháp luật thừa kế của Việt Nam - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Minh Tuấn, Nxb Hà Nội, 2009. Ngồi ra, cịn có
một số giáo trình và sách bình luận khoa học Luật dân sự Việt Nam. "Luật Thừa kế
Việt Nam –Bản án và bình luận bản án" của tác giả Đỗ Văn Đại, Nxb chính trị quốc
gia, 2009.
- Nhóm các bài báo, tạp chí chun ngành luật: Các bài nghiên cứu thuộc
nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Dân chủ và pháp luật,

Tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Luật học… Trong
đó phải kể đến bài viết "Hồn thiện chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự" của


5

Nguyễn Văn Mạnh, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, 5 năm 2002;
"Hoàn thiện quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự" của Phạm Văn Tuyết, đăng
trên Tạp chí Luật học (số Đặc san), năm 2003; "Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa
kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội,
ngoại" của Phùng Trung Tập, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 24 năm 2005;
"Di sản khơng có người thừa kế hoặc từ chối nhận di sản - vấn đề cần có hướng
dẫn" của Đỗ Văn Chỉnh đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 20, năm 2006; hay
bài viết của tác giả Phùng Trung Tập "Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt
Nam trong 60 năm qua", được đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2, năm
2006.
Đây thực sự là những cơng trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý luận và
thực tiễn. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu này hoặc đề cập đến những vấn
đề mang tính khái quát chung về chế định thừa kế qua các thời kỳ hoặc chỉ đi sâu
vào phân tích một quan hệ thừa kế nhất định chứ chưa nghiên cứu một cách toàn
diện, đầy đủ về vấn đề hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành. Thừa kế theo pháp
luật không phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi từng ngày từng giờ của các quan
hệ xã hội, quan hệ tài sản đòi hỏi phải có những quy phạm pháp luật mới để điều
chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu kịp thời để có hướng đề xuất các quy định pháp luật
điều chỉnh vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết.
Những bình luận sâu sắc, những ý kiến xác đáng về hướng hoàn thiện pháp
luật của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã được ghi nhận làm cơ sở hồn thiện
pháp luật về thừa kế. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu khai thác
trên phạm vi tương đối rộng lớn, có khi là tồn bộ chế định thừa kế hoặc tất cả các
vấn đề liên quan tới thừa kế theo pháp luật. Kế thừa những thành quả khoa học của

các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố, Luận văn này đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu
một cách tồn diện, có hệ thống cơ sở lý luận, qui định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về hàng thừa kế theo luật tại TAND trên địa bàn tỉnh Đắk nơng.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra định hướng và giải pháp góp phần hồn thiện pháp
luật về hàng thừa kế cũng như giải quyết tranh chấp thừa kế tại TAND.


6

3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về thừa kế và
hàng thừa kế, nhận diện được những hạn chế, bất cập của quy định này và các tồn tại,
vướng mắc trong thực tiễn. Từ đó, tìm ra một số giải pháp nhằm khắc phục những
vướng mắc, tồn tại trong công tác giải quyết các tranh chấp về thừa kế tại TAND.
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn hướng
đến giải quyết tính thực tế của vấn đề. Sau khi xây dựng và đánh giá về vấn đề lý
luận chung, luận văn sẽ chỉ ra các vấn đề phát sinh từ thực tiễn và vướng mắc trong
việc thực hiện các quy định về hàng thừa kế trong q trình giải quyết của Tịa án,
khái qt những mặt đạt được và những mặt hạn chế từ các quy định của pháp luật
và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy định về hàng thừa kế trong
quá trình giải quyết vụ án dân sự để đảm bảo hiệu quả xét xử của Tòa án. Việc
nghiên cứu vấn đề thừa kế với phạm vi khá hẹp là hàng thừa kế trong luận văn này
sẽ đem lại những phân tích chuyên sâu hơn xung quanh vấn đề hàng thừa kế, tìm
hiểu lý do, bản chất trong các quy định liên quan tới hàng thừa kế, đánh giá những ý
nghĩa của các quy định đó theo những cách nhìn nhận mới mẻ, từ đó đưa ra một số
kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về hàng thừa kế.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong q trình hồn thành luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó chú trọng các
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp,

phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh. Các phương pháp này được
sử dụng cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để tìm hiểu các khái
niệm, phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo
pháp luật, hàng thừa kế nhằm mục đích khái qt hóa các quy định của pháp luật về
vấn đề này, làm cơ sở cho việc đánh giá pháp luật. Trên cơ sở này, tác giả sử dụng
phương pháp bình luận để nhận xét, đánh giá các các bản án, quyết định giải quyết
tranh chấp về thừa kế cụ thể phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp so sánh: Sử dụng để so sánh giữa quy định của pháp luật thừa


7

kế hiện hành với quy định của pháp luật thừa kế trước đây.
- Phương pháp lịch sử: Được sử dụng để nghiên cứu quy định của hàng thừa
kế qua các giai đoạn làm định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật hiện hành.
- Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê các số liệu có liên quan đến giải quyết
tranh chấp thừa kế trên thực tế làm cơ sở cho các kết luận, đề xuất của luận văn.
5. ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Về đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về hàng
thừa kế và một số công trình nghiên cứu cũng như những vụ việc cụ thể có liên quan
đến vấn đề này. Thực tiễn cơng tác giải quyết tranh chấp thừa kế tại TAND trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông thông qua một số vụ án cụ thể trong những năm gần đây.
5.2. Về phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật
trong một số văn bản pháp luật như: BLDS năm 2015; BLDS năm 2005 và BLDS
năm 1995; Luật Hơn Nhân và Gia đình (HN&GĐ) năm 2014, Luật Hơn Nhân và
Gia đình (HN&GĐ) năm 2000; và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong
đó, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về thừa kế theo pháp luật của công

dân Việt Nam cụ thể là hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành.
- Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số nước về
hàng thừa kế, có sự so sánh và đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam, qua
đó tham khảo, học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những điểm phù hợp để bổ sung, hoàn
thiện các quy định về hàng thừa kế trong BLDS Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương:
hƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam về
hàng thừa kế theo luật.
hƣơng 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân trên địa
bàn tỉnh Đắk Nơng và phương hướng hồn thiện quy định của pháp luật Việt Nam
về hàng thừa kế theo luật.


8

ƢƠN
MỘT S

1.

VẤN Ề LÝ LUẬN V QUY ỊN
VỀ

N



P ÁP LUẬT V ỆT N M


T Ừ KẾ T EO LUẬT

1.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế
1.1.1. Diện thừa kế
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế, tuy
nhiên vấn đề này lại chưa được các nhà làm luật quy định cụ thể, chi tiết trong luật.
Khái niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp
lý. Còn luật thực định từ trước đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn
đề này. BLDS 2005 cũng như BLDS năm 2015, chưa có nội dung nào quy định về
khái niệm diện thừa kế là gì và diện thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề
cần được bổ sung trong quá trình hồn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Theo các tác giả của giáo trình Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội, khái niệm
diện thừa kế được hiểu là “phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người
chết theo quy định của pháp luật”1. Theo tác giả Phạm Văn Tuyết trong “Thừa kế quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng” thì diện thừa kế là phạm vi những
người được pháp luật xác định nằm trong diện có thể được hưởng di sản thừa kế
theo quy định của pháp luật. Nhìn chung, khái niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ
nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế.
Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong thừa kế theo pháp luật. Mà pháp luật phụ
thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội. Vì thế, ở mỗi
một chế độ xã hội nhất định thì phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp
luật lại được quy định ở diện rộng hẹp khác nhau.
Tiếp cận và tìm hiểu những quy định của pháp luật của một số nước trên thế
giới về diện thừa kế cho thấy: Mặc dù có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, nhưng nhìn chung: Dù ở chế độ xã hội nào, những người thuộc diện
thừa kế theo pháp luật đều có đặc điểm chung đều là những người thân thích gần
gũi với người để lại di sản thừa kế và do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối.

1


Trường Đại học Luật Hà Nội, (1998), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.266.


9

Pháp luật của Nhật và các nước Nam Mỹ quy định diện thừa kế bao gồm: Các
con của người chết; cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người chết; bà con xa, gần khác.
Một số nước như Đức, Áo, Thụy Sĩ quy định: Bà con bậc trên, thế hệ trên của
người chết như: Cha, mẹ, cố, cụ; bà con bậc dưới, thế hệ dưới của người chết như
con, cháu.
Điều 1629 Bộ Luật thương mại Thái Lan quy định diện thừa kế là: Con cái; bố,
mẹ; anh, chị, em cùng huyết thống; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha;
ơng bà; chú, bác, cơ, dì; người vợ (hoặc người chồng còn sống).
Ở nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, tư tưởng trọng
nam khinh nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Địa vị
của người vợ trong quan hệ gia đình ln bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con
và người chồng trong những quan hệ xã hội thông thường và ngay cả trong quan
hệ thừa kế.
Ngược lại, với bản chất pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật
thừa kế dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất ngay trong bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 9 Hiến pháp 1946
quy định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" 2, trong đó người
vợ có quyền thừa kế như những người con khác khi chồng chết trước. Đặc biệt, khi
Sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp
luật theo tinh thần của Điều 10 và Điều 11 bao gồm: Con cháu, vợ hay chồng của
người để lại di sản3.
Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta kể từ năm
1945 đến nay luôn được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và
quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản và người thừa kế.
Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của

người chết thì giữa họ phải có mối quan hệ nhất định khi người để lại di sản còn

2

Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946.

3

Chính phủ (1960), Sắc lệch số 02/SL của Chủ tịch nước ngày 13/1 về việc công bố Luật Hôn nhân và Gia

đình ngày 29/12/1959, Hà Nội.


10

sống. Mối quan hệ này là sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của người này và nghĩa
vụ của người kia hoặc là bổn phận và trách nhiệm giữa họ khi người để lại di sản
còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn từ sâu xa của giá trị đạo đức truyền
thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một chế độ xã hội nhất định.
Theo BLDS 2015 thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết,
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột chắt ruột của người chết mà người chết
là cụ nội, cụ ngoại.
Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân cịn sống có quan hệ hơn nhân,
quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời
điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra và cịn sống sau thời điểm
mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những
cá nhân thuộc diện thừa kế được xác định theo số người được pháp luật chỉ định

trong các hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
1.1.2.

àng thừa kế

Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người
thuộc diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế
đều được hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di
sản thừa kế, pháp luật phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế.
Trước hết, có thể hiểu hàng thừa kế là nhóm người có quan hệ cùng tính chất
gần gũi với người để lại di sản thừa kế4. Khái niệm này đã nêu bật vấn đề cơ bản là
hàng thừa kế theo pháp luật luôn ln bao gồm những người có quan hệ gần gũi với
người để lại di sản. Tuy nhiên, hiểu như thế nào là "nhóm người có quan hệ cùng
tính chất gần gũi" không phải là vấn đề đơn giản. Nhiều quan điểm thừa nhận những
người cùng một bậc trong quan hệ với người để lại di sản là những người có quan
hệ cùng tính chất gần gũi. Nhưng những người thuộc về các bậc khác nhau có quan
4

Trường Đại học luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
Tr64.


11

hệ cùng tính chất gần gũi với người để lại di sản hay không? Trong cùng một hàng
thừa kế cha, mẹ, vợ, chồng và con của người để lại di sản; ông bà nội, ngoại và các
anh, chị, em ruột của người để lại di sản; các cụ và bác, chú, cậu, cơ, dì, ruột có phải
là những người có quan hệ cùng tính chất gần gũi?... Họ là những người có quan hệ
hơn nhân hoặc quan hệ huyết thống với nhau, những người trong dòng tộc lại thuộc
các bậc khác nhau, có khi là quan hệ huyết thống trực hệ, có khi là quan hệ huyết

thống bàng hệ,... Trong nhiều trường hợp như vậy, quả khơng dễ dàng có được một
quan điểm đồng nhất.
Ngoài ra, theo Từ điển luật học thì hàng thừa kế được hiểu: trong trường hợp
khơng có di chúc thì hàng thừa kế là thứ tự ưu tiên hưởng di sản theo quy định của
pháp luật5. Định nghĩa đã hàm chứa trong nó yêu cầu phân chia những người thuộc
diện thừa kế thành các hàng thừa kế khác nhau với mức ưu tiên hưởng di sản khác
nhau. Nhưng, chúng ta thấy quan điểm này lại "mắc" phải một vấn đề khác: Đâu chỉ
có trường hợp khơng có di chúc thì vấn đề thừa kế theo pháp luật mới được đặt ra.
Nhiều trường hợp, mặc dù người thừa kế có để lại di chúc nhưng di chúc đó khơng
được thực hiện hoặc khơng thực hiện được thì việc phân chia di sản thừa kế cũng
phải được tiến hành theo hình thức thừa kế theo pháp luật. Như vậy, khái niệm này
đã không bao quát hết các trường hợp thừa kế theo pháp luật.
Nghiên cứu và phân tích một số các quy định về hàng thừa kế theo pháp luật
của một số nước trên thế giới cho thấy việc xác định hàng thừa kế ở mỗi nước có
khác nhau, nhưng cũng như diện thừa kế, việc quy định hàng thừa kế cũng đều dựa
trên quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng.
Điều 731 BLDS Pháp quy định hàng thừa kế được chia thành bốn lớp:
+ Lớp thứ nhất gồm: Con, cháu của người chết.
+ Lớp thứ hai gồm: Cha, mẹ và anh, chị, em ruột của người chết.
+ Lớp thứ ba gồm: Ông, bà, cụ, kỵ của người chết.
+ Lớp thứ tư gồm: Cháu chú, cháu bác, cháu cậu, cháu dì, cháu già của

5

Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 182-183.


12

người chết6.

Khái niệm hàng thừa kế là gì cũng khơng được quy định cụ thể trong hệ thống
pháp luật của Việt Nam và cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm chính xác,
đầy đủ thể hiện rõ nội dung của hàng thừa kế.
Điều 651 BLDS năm 2015 quy định những người thừa kế theo pháp luật được
sắp xếp theo ba hàng thừa kế sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết.
Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ơng nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết
là cụ nội, cụ ngoại7.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng thừa kế cũng được sắp
xếp dựa trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những người thừa kế
ở hàng thứ nhất và hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hơn nhân, ni
dưỡng với người để lại di sản, giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại
diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện nhất định. Những người thừa
kế ở hàng thứ ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau
theo quan hệ huyết thống nhưng giữa họ khơng có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm
sóc, ni dưỡng nhau.
Với mục đích làm nổi bật tính độc lập và tính hiện đại của pháp luật thừa kế
Việt Nam quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật, cần thiết phải có sự so
sánh với một số nội dung cơ bản pháp luật thừa kế một số nước trên thế giới nhằm
làm rõ những nét đặc thù của pháp luật Việt Nam.

6

Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp năm 1998.


7

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015.


13

Theo BLDS của Nhật Bản, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Con (cháu) trực hệ.
Khác với pháp luật dân sự của Việt Nam, Nhật Bản quy định hàng thừa kế thứ nhất chỉ
dựa trên quan hệ huyết thống. Vợ hoặc chồng của người để lại di sản không được quy
định cụ thể trong một hàng thừa kế nào mà phụ thuộc vào các hàng và bậc thừa kế
theo quan hệ huyết thống nội tộc của người để lại di sản. Theo đó, phần di sản người
vợ hoặc chồng chết trước để lại sẽ tùy thuộc người vợ hoặc chồng còn sống được
xếp vào cùng hàng thừa kế với những người có quan hệ huyết thống ở các bậc khác
nhau của người để lại di sản8.
Quan hệ nuôi dưỡng không phải là cơ sở để xác định diện và hàng thừa kế.
Ngồi ra, có những người cùng được hưởng thừa kế cùng một lúc nhưng lại không
được hưởng di sản như nhau vì pháp luật Nhật Bản quy định: Trong trường hợp có
hai người cùng hàng, thì phần mà người chồng góa hoặc người vợ góa của người để
lại di sản được hưởng theo nguyên tắc nhất định Ví dụ: Khi vợ, (chồng) và các con
là người thừa kế thì phần cho các con là hai phần ba và phần cho vợ (chồng) là một
phần ba.
Theo BLDS của Cộng hòa Pháp, quyền thừa kế đầu tiên đối với di sản của
người chết là những người bề dưới, không phân biệt độ tuổi, giới tính và khơng phụ
thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ đều được hưởng di sản. Như vậy, ở hàng
thừa kế thứ nhất chỉ là các con của người để lại di sản 9. Điều đó thể hiện Luật thừa
kế của Cộng hòa Pháp dựa trên quan hệ duy nhất là quan hệ huyết thống, là quan hệ
chủ đạo trong việc xác định người thừa kế theo pháp luật. Vợ góa hoặc chồng góa
khơng thuộc hàng thừa kế nào của người để lại di sản. Vợ, chồng chỉ được hưởng di

sản thừa kế của nhau trong trường hợp khơng cịn thân thuộc của bên vợ hoặc bên
chồng chết trước có thể thừa kế. Như vậy, khả năng vợ chồng có thể thừa kế của
nhau rất khó xảy ra.
Quan hệ nuôi dưỡng cũng không được coi là cơ sở để xác định diện và hàng
thừa kế. Sự khác nhau giữa những quy định pháp luật thừa kế của Nhật Bản, Cộng

8

Bộ luật dân sự Nhật Bản năm 1995.

9

Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp năm 1998.


14

hòa Pháp so với Việt Nam xuất phát từ phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa,
cơ sở vật chất và hoàn cảnh xã hội khác nhau của mỗi nước tác động mạnh mẽ đến
việc xây dựng pháp luật. Căn cứ vào những yếu tố khác biệt trên đã tạo nên sự khác
nhau khi quy định về hàng thừa kế theo pháp luật giữa các nước.
Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định những người thừa kế theo hàng dựa
trên quan điểm khác với nhiều nước phương Đông cũng như các nước phương Tây.
Pháp luật thừa kế của Việt Nam luôn đứng trên tinh thần bảo vệ quyền lợi cho
những người có quan hệ huyết thống, hơn nhân hoặc ni dưỡng.
1.1.3. ơ sở của việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật
BLDS Việt Nam hiện hành cũng quy định diện và hàng thừa kế dựa trên ba cơ
sở: Quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.
Quan hệ huyết thống:
Lễ giáo và truyền thống đạo đức của người Việt Nam vốn rất coi trọng dịng

dõi cũng như tổ tiên đã sinh ra mình. Vì vậy, quan hệ huyết thống là cơ sở quan
trọng, cơ bản quy định diện thừa kế theo luật.
Quan hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng chung một gốc, ví dụ:
Quan hệ giữa cụ và ông bà, giữa ông bà và bố mẹ, giữa bố mẹ đẻ và con, giữa anh,
chị, em cùng bố cùng mẹ, cùng bố khác mẹ, cùng mẹ khác bố.
Những người có quan hệ huyết thống ln có trách nhiệm thương yêu, đùm
bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Cha, mẹ có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, ni dưỡng con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao
động và khơng có tài sản để tự ni mình”.
Điều 104 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Ơng bà nội, ơng bà ngoại có
quyền, nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương
tốt cho con cháu; trường hợp cháu chưa thành niên, cháu đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni
mình mà khơng có người ni dưỡng theo quy định tại Điều 105 của Luật này thì
ơng bà nội, ơng bà ngoại có nghĩa vụ ni dưỡng cháu”.
Điều 105 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Anh, chị, em có quyền, nghĩa vụ


15

thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ ni dưỡng nhau trong
trường hợp khơng cịn cha mẹ hoặc cha mẹ khơng có điều kiện trơng nom, ni
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con”.
Theo mức độ quan hệ với người để lại di sản, BLDS năm 2015 phân những
người thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các hàng thừa kế khác nhau.
Quan hệ hôn nhân:
Hôn nhân là sự gắn bó giữa nam và nữ để trở thành một gia đình, một tế bào
của xã hội. Trong đó họ phải cùng nhau tạo dựng những nền tảng vững chắc về mặt
kinh tế để đảm bảo cho cuộc sống gia đình ổn định và việc ni dạy con cái tốt.

Đồng thời, họ cũng phải có những trách nhiệm và bổn phận đối với nhau do pháp
luật quy định và trên cơ sở đạo đức truyền thống của người Việt Nam.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 thì: Kết hơn là việc
nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều
kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Cũng theo Điều 8 và Điều 9 của Luật này, nam nữ
kết hôn phải tuân theo các quy định về điều kiện kết hôn, không vi phạm những
điều cấm, và tiến hành đúng trình tự, thủ tục luật định.
Khi kết hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng phát sinh và được pháp luật
bảo vệ. Việc kết hôn khơng chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà cịn
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người, ngồi ra hai bên cịn có quan hệ tài
sản. Dù không được quy định một cách minh thị về quyền thừa kế tài sản của
vợ/chồng như quy định tại khoản 1 Điều 3110 Luật HN&GĐ năm 2000, nhưng với
những quy định tại Điều 6611 Luật HN&GĐ năm 2014; Điều 64412 và Điều 65113

10

Khoản 1 Điều 31 Luật HN&GĐ năm 2000: “Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định

của pháp luật về thừa kế”
11

Điều 66 Luật HN&GĐ năm 2014: “…Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được

chia đơi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị
Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế…”
12

Điều 644 BLDS năm 2015: “1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất

của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được

người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a) Con chưa


16

BLDS năm 2015 có thể hiểu: Vợ/chồng cịn sống sẽ được quyền hưởng thừa kế di
sản của chồng/vợ đã mất dù là thừa kế theo di chúc hay thừa kế theo pháp luật.
Quan hệ nuôi dƣỡng:
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ được xác lập dựa trên cơ sở nuôi con nuôi
được pháp luật thừa nhận. Mối quan hệ này nhằm đảm bảo cho trẻ em quyền được
chăm sóc, ni dưỡng; tránh những điều bất hạnh thiệt thòi cho những đứa trẻ vốn
đã không được hưởng điều kiện và sự quan tâm từ chính cha mẹ mình. Xuất phát từ
bổn phận của người nuôi dưỡng đối với con nuôi, quan hệ nuôi dưỡng trở thành một
cơ sở cần thiết cho việc xác định diện thừa kế theo pháp luật.
Tại khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định: “Nuôi con nuôi là việc
xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm
con nuôi”. Cũng tại Điều 2 của Luật này cũng đã làm rõ mục đích ni con ni:
“Việc ni con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi
ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con ni được ni
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình”.
Việc ni con ni nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong
quan hệ cha, mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi chưa thành niên được ni
dưỡng chăm sóc tốt.
Trong quan hệ ni dưỡng, điều kiện để cha, mẹ nuôi và con nuôi được thừa
kế tài sản của nhau là việc con nuôi được pháp luật thừa nhận. Pháp luật chỉ thừa
nhận và xác định quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi trong trường
hợp nhận con nuôi không trái với ln thường đạo lý, mục đích xã hội như bóc lột
sức lao động dùng con ni vào mục đích xấu xa phạm pháp... Điều kiện quan trọng
để việc nhận con nuôi là hợp pháp là phải tuân theo các điều kiện của Luật ni con
ni năm 2010.

Ngồi ra, giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc ni

thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;…”
13

Điều 651 BLDS 2015: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng

thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;…”


17

dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì cũng được thừa kế di sản của nhau.
Mối quan hệ giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi và mối quan hệ giữa con riêng với
cha dượng, mẹ kế nếu được pháp luật thừa nhận thì họ sẽ là hàng thừa kế thứ nhất
của nhau.
Các quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng là những quan hệ tình cảm có
mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật nước ta dựa vào ba quan hệ này để
xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
1.2.

ác hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Những nhóm người được pháp luật xếp trong cùng một hàng được hưởng

phần di sản bằng nhau được gọi là hàng thừa kế. Không phải tất cả những người
thuộc diện được hưởng thừa kế đều được hưởng phần di sản như nhau, mà tùy
thuộc vào mức độ quan hệ gần gũi với người để lại di sản những người thừa kế
theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai
ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản 14.
1.2.1.

àng thừa kế thứ nhất

Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật quy định rất khác nhau về
hàng thừa kế. Giai đoạn trước năm 1945, tư tưởng phong kiến, lễ giáo hủ tục hà

14

Xem khoản 1,khoản 3 Điều 651 BLDS năm 2015.


18

khắc đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng lập pháp thời kỳ này. Hàng thừa kế theo
pháp luật và người thừa kế theo trật tự hàng cũng bị những tư tưởng phong kiến chi
phối mạnh mẽ. Trong Bộ luật Hồng Đức thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, quy định hai hàng
thừa kế trong đó các con là hàng thừa kế thứ nhất khi thừa kế di sản của cha mẹ. Tới
bộ Dân luật Bắc Kỳ 1936, các nhà làm luật không chia diện những người thừa kế
thành hàng cụ thể mà quy định năm thứ tự ưu tiên hưởng di sản trong đó thứ tự thứ

nhất là con cái (các con đẻ, các con nuôi, con vợ cả hay con vợ lẽ) của người để lại
di sản. Trong trường hợp người để lại di sản khơng cịn con thì cháu được hưởng di
sản của ơng bà.
Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho nền độc lập
dân tộc. Hiến pháp năm 1946 được ban hành đánh dấu sự thay đổi của hệ tư tưởng
thống trị lúc đó. Hàng thừa kế theo pháp luật đầu tiên được quy định gián tiếp tại
Điều 10 và Điều 11 của Sắc lệnh số 97 và theo tinh thần chung của quy định này chỉ
có một hàng thừa kế là vợ góa, chồng góa, các con của người để lại di sản. Tuy
nhiên, những quy định trong Sắc lệnh số 97 chưa giải quyết đầy đủ các quan hệ thừa
kế trong xã hội. Để khắc phục những vướng mắc đó Bộ Tư pháp đã ban hành Thơng
tư số 1742 trong đó quy định hai thứ tự ưu tiên hưởng thừa kế là vợ, hoặc chồng,
các con của người chết là người được hưởng di sản trước những người thân thích
khác của người để lại di sản. Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ so với Sắc lệnh số 97
nhưng Thông tư số 1742 khi quy định về hàng thừa kế cịn có nhiều mâu thuẫn thể
hiện ở một số nội dung sau:
- Nếu người chết khơng có con cháu thì vợ hoặc chồng của người chết chỉ
được hưởng một nửa di sản, còn một nửa thuộc về cha, mẹ hoặc những người thừa
kế khác của người chết. Như vậy, vợ hoặc chồng của người chết tuy thuộc hàng
thừa kế thứ nhất nhưng khi người chết khơng có con thì vợ hoặc chồng của người
chết chỉ được hưởng một nửa di sản của người vợ hoặc chồng chết trước. Việc quy
định như vậy đã không đảm bảo đầy đủ ý nghĩa của việc chia hàng thừa kế. Vì về
nguyên tắc, người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng di sản thừa kế trong trường
hợp khơng có người thừa kế ở hàng trước. Trong trường hợp này người ở hàng thừa
kế thứ nhất vẫn sống nhưng di sản thừa kế lại được chia cho cả những người thuộc


19

hàng thừa kế sau.
- Quyền thừa kế của người vợ góa lại chia làm hai trường hợp là có con chung

với chồng hay khơng có con dẫn đến việc người vợ không ở một hàng thừa kế cụ
thể nào15.
Nhằm khắc phục tình trạng thiếu thống nhất trên của Thơng tư số 1742,
TANDTC đã ban hành Thông tư số 594 xác định cụ thể có hai hàng thừa kế và
những người thừa kế ở hàng đầu được hưởng toàn bộ di sản, nếu khơng có những
người thừa kế hàng đầu hoặc tuy có nhưng họ đều từ chối quyền hưởng thì những
người ở hàng tiếp theo được hưởng di sản. Theo Thông tư này, hàng thừa kế thứ
nhất đã được chỉ rõ, cụ thể là: Vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các
con đẻ, các con ni, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi mà không quy định chung
chung như Sắc lệnh số 97 và Thông tư số 1742 trước đây là “bố, mẹ” và “các con”
của người để lại di sản. Như vậy, trong hàng thừa kế thứ nhất, những người thừa kế
được xác định theo cơ cấu có quan hệ hơn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng đối với
người để lại di sản. Bề trên gồm bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi của người chết.
Bề dưới gồm các con đẻ và con nuôi của người để lại di sản. Cùng bậc gồm có vợ
góa hoặc chồng góa của người để lại di sản.
Điểm mới của Thông tư số 594 so với các văn bản trước đó là bố mẹ (bao gồm
bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi) của người chết được thừa kế ở hàng thứ nhất cùng với vợ
con của người để lại di sản. Như vậy, so với các văn bản trước đó, thì người thừa kế
ở hàng thứ nhất được mở rộng. Ngồi những người có quan hệ huyết thống cịn có
những người có quan hệ ni dưỡng với người để lại di sản như bố nuôi, mẹ nuôi và
con nuôi. Những người trong cùng hàng thừa kế thứ nhất được hưởng một suất
ngang nhau. Quan hệ vợ chồng cho đến khi mở thừa kế phải là quan hệ hôn nhân
hợp pháp hoặc hôn nhân thực tế được Tịa án thừa nhận. Con đẻ và con ni đều
được thừa kế. Con đẻ gồm có con chung và con riêng, kể cả người con được thụ thai
khi người bố còn sống và sinh ra sau khi người bố chết không quá 300 ngày. Con
nuôi được thừa kế phải là con nuôi hợp pháp, nghĩa là việc nuôi con nuôi được

15

Bộ Tư pháp (1956), Thông tư số 1742-BNC ngày 18/9 quy định một số vấn đề về thừa kế, Hà Nội.



20

UBND cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ
hộ tịch. Một số trường hợp con nuôi thực tế cũng được thừa nhận và thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của cha mẹ ni.
Mặc dù Thơng tư số 594 có rất nhiều điểm mới, tiến bộ so với Thông tư số 1742
nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế và không phù hợp với đời sống thực tế khi quy
định: Người con nuôi không phải là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ đẻ
ra mình và cha mẹ đẻ của người con nuôi lại không phải là hàng thừa kế thứ nhất của
người con ni đó.
Nhằm củng cố và hồn thiện hơn nữa quyền thừa kế nói chung và quyền thừa
kế theo pháp luật của cơng dân nói riêng tiếp theo Thông tư số 594 là Thông tư số
81 được ban hành. Nội dung của Thông tư này khẳng định rõ cơ sở pháp lý của việc
thừa kế theo pháp luật là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng. Diện những người thừa kế theo pháp luật gồm những người thân gần gũi của
những người chết theo ba quan hệ này. Nhưng không phải tất cả những người trong
diện thừa kế đều được thừa kế một lúc mà chia thành hai hàng thừa kế. Những
người thân gần gũi nhất với người chết được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất. Những
người thừa kế ở hàng thứ nhất được thừa kế trước và thừa kế tồn bộ di sản, bao
gồm: Vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi, bố đẻ,
mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi. Thông tư này cũng quy định cụ thể quan hệ vợ chồng cho
đến khi mở thừa kế phải là quan hệ hơn nhân hợp pháp hoặc hơn nhân thực tế được
Tịa án thừa nhận. Trường hợp một bên xin ly hôn hoặc cả hai bên xin thuận tình ly
hơn, Tịa án đã xử cho ly hôn, trong thời gian bản án chưa có hiệu lực pháp luật, nếu
một bên chết, bên còn sống vẫn được quyền thừa kế của bên kia.
Điểm mới tiến bộ trong Thông tư số 81 là quy định: Con riêng của vợ hay con
riêng của chồng người chết không được thừa kế di sản của người chết, vì khơng có
quan hệ huyết thống đối với người chết. Nhưng nếu có đầy đủ bằng chứng để xác

định rằng người con riêng đã được bố dượng hoặc mẹ kế u thương, ni dưỡng,
chăm sóc như con đẻ, thì người con riêng đó được thừa kế. Đây là quan điểm tiến
bộ nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa người con riêng của vợ hoặc của chồng với cha
kế, mẹ kế trong quan hệ gia đình.


×