Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.56 KB, 80 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN VĂN TOÀN

NGHĨA VỤ CHỨNG MINH TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

Ngành: Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ VŨ NAM

TP. HỒ CHÍ MINH - 2018


2

LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu, thơng tin
là hồn tồn trung thực. Các tài liệu tham khảo được trích dẫn đều được ghi rõ nguồn
gốc và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tác giả. Mọi sao chép
không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, vi phạm quyền tác giả, tác giả xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
TÁC GIẢ

Nguyễn Văn Toàn



3

MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Phần mở đầu

Trang

1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................6
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu…………………………………......8
3. Mục đích của việc nghiên cứu……………………………………………………...8
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………...9
5. Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………………………………….10
6. Kết cấu của luận văn……………………………………………………...............11

Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM...................................12
1.1. Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân
sự tại Tòa án cấp sơ thẩm………………………………………………………….12
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án cấp sơ thẩm………………………………………………………………………14
1.1.2. Yêu cầu đối với nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm…………………………………………………………………..15
1.1.3. Phân loại nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án
cấp sơ thẩm………………………………………………………………………......16
1.1.4. Vai trò của nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án cấp sơ thẩm……………………………………………………………………….20
1.2. Quan hệ pháp luật trong nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án
dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm……………………………………….....................22



4

1.2.1. Chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm…………………………………………………………………..22
1.2.2. Đối tượng chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ
thẩm………………………………………………………………………………….29
1.2.3. Nội dung của nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tịa án cấp sơ thẩm…………………………………………………………………..31
1.2.4. Q trình hình thành và phát triển quy định của pháp luật về nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam………………………………................35
Kết luận chương 1:…………………………………………………………...38
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ
CHỨNG MINH TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TỊA ÁN CẤP
SƠ THẨM VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN………………………......................40
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm………………………………………40
2.1.1. Thực trạng việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các đương sự.......40
2.1.2. Quy định về những tình tiết, sự kiện phải chứng minh..........................46
2.1.3. Quy định về những tình tiết, sự kiện khơng phải chứng minh...............47
2.1.4. Các hình thức chứng minh.....................................................................48
2.1.5. Quy định về chứng cứ trong hoạt động chứng minh..............................49
2.2. Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án cấp sơ thẩm...........................................57
2.2.1. Tình hình thực hiện quy định về nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết
vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Gia Lai...................................57
2.2.2. Đánh giá chung về thực hiện quy định về nghĩa vụ chứng minh trong
giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm..........................................................64



5

2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm...........................................66
2.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.................................................66
2.3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.................................................68
Kết luận chương 2............................................................................................75
Kết luận ...........................................................................................................77
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................79


6

PHẦN

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án không phải là vấn
đề mới của pháp luật tố tụng dân sự. Trước Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được ban
hành đã từng được quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989
và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994. Tuy nhiên, quy định tại các
Pháp lệnh này về nghĩa vụ chứng minh mới chỉ mang tính nguyên tắc khi mới chỉ ra
những quyền và nghĩa vụ của đương sự khi tham gia giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án,
chưa cụ thể hóa thành những quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể có nghĩa vụ
chứng minh.
Đến Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì nghĩa vụ chứng minh của các đương sự

trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án đã được nâng lên thành một trong những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự. Kế thừa quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 giữ nguyên quy định mang tính chất
nguyên tắc này và được quy định tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động, thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tịa án và
chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Khoản 3 Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn quy định: Tịa án có trách
nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh
chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.
Quy định nói trên là một bước tiến tiến bộ thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà
nước trong việc xây dựng chế định pháp luật này thành một trong những nguyên tắc cơ
bản thể hiện và bảo đảm thực hiện nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự rõ nhất
trong tố tụng dân sự, là nguyên tắc mang tính đặc thù, khác biệt lớn so với ngun tắc
chứng minh trong tố tụng hình sự. Nó được hiểu rằng, đương sự có quyền khởi kiện, có
quyền tự định đoạt cho những yêu cầu trong phạm vi khởi kiện của mình thì cũng đồng
thời có nghĩa vụ chứng minh cho các yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố của mình là có
căn cứ, là hợp pháp.


7

Nghĩa vụ này chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động cung cấp chứng
cứ của đương sự. Nhưng việc cung cấp chứng cứ không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền
của các bên đương sự. Do vậy, việc hiểu và thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình khi giải quyết vụ án dân sự
tại Tịa án khơng phải là vấn đề đơn giản mà vụ án nào, đương sự nào cũng làm được,
đặc biệt trong điều kiện dân trí của nước ta nói chung cịn thấp. Điều này đã dẫn đến một
thực tế, dù pháp luật tố tụng quy định rất cụ thể nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự,
nhưng khi giải quyết vụ án dân sự vẫn còn xảy ra tình trạng Tịa án “làm thay” cho
đương sự, khi Tịa án tạo ra “cơ chế hợp pháp” là để đương sự yêu cầu và Tòa án thu

thập chứng cứ thay cho đương sự.
Thực tế trên đã tạo ra một tiền lệ xấu. Đối với Tịa án thì thêm việc cho những
người có trách nhiệm (Thẩm phán, Thư ký Tịa án) và trong nhiều trường hợp là vi phạm
các nguyên tắc tố tụng khi giải quyết vụ án. Đối với đương sự thì khơng tạo ra sự chủ
động của họ khi tham gia giải quyết vụ án tại Tòa án, làm cho đương sự có tư tưởng ỷ
lại vào Nhà nước (Tịa án), coi đó là trách nhiệm của Tịa án. Thậm trí nhiều trường hợp
cịn chống đối, bất hợp tác, gây khó khăn cho cả Tịa án và đương sự đang có tranh chấp
với mình nhưng lại khơng phải chịu hậu quả bất lợi trong nhiều trường hợp cụ thể. Xảy
ra tình trạng nói trên trong thực tiễn là do Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vẫn còn
thiếu những quy định mang tính chất ràng buộc giữa việc bảo đảm thực quyền của
đương sự với trách nhiệm của đương sự khi không thực hiện đúng các nghĩa vụ quy định
trong việc thực hiện các quyền đó.
Đối với Tịa án, là chủ thể có nghĩa vụ hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ cho
đương sự trong các trường hợp luật quy định, nhưng thực tế việc thực hiện quy định này
khơng phải đều được các Tịa án thực hiện tốt. Tình trạng hoặc là lạm quyền, hoặc là
thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong thu thập chứng cứ của một số Tòa án do các Thẩm phán
tiến hành vẫn xảy ra trên thực tế. Hạn chế của tình trạng này cũng do quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự năn 2015 còn thiếu chặt chẽ, thiếu các quy định mang tính chất
kiểm sốt các hành vi tố tụng của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự .
Xuất phát từ thực trạng nói trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghĩa vụ chứng
minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm” để làm luận văn tốt


8

nghiệp, với mong muốn góp phần hồn thiện các vấn đề về lý luận và thực tiễn
đối với chế định quan trọng mang tính nguyên tắc trong pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận

và các quy định của pháp luật tố tụng dân sự liên quan đến nghĩa vụ chứng minh
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án cấp sơ thẩm. Qua đó nói lên thực trạng áp
dụng quy định pháp luật này trong thực tiễn giải quyết vụ án dân sự nói chung và tại
một số Tòa án cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng.
2.1. Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật,
tác giả khơng có tham vọng nghiên cứu tổng thể các quy định của pháp luật liên quan
đến vấn đề chứng minh trong tố tụng dân sự, mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành liên quan đến nghĩa vụ chứng minh trong giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Trong đó tập trung làm rõ vai trị trung tâm
của các đương sự trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân
sự tại Tịa án cấp sơ thẩm.
3. Mục đích của việc nghiên cứu
Với đề tài luận văn này, nhiệm vụ nghiên cứu tác giả đặt ra hướng tới mục đích
là: Nghiên cứu về cơ sở lý luận quy định của pháp luật về nghĩa vụ chứng minh
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Trên cơ sở đó làm rõ bản chất
của quy định này, phân tích đánh giá thực trạng áp dụng quy định này trong thực tiễn
giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Chỉ rõ vai trò trung tâm trong
thực hiện nghĩa vụ chứng minh khi giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án là của các
đương sự. Qua phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật sẽ làm sáng tỏ những
điểm mới tiến bộ của pháp luật tố dân sự hiện hành, đồng thời chỉ ra những hạn chế,
bất cập của luật khi áp dụng. Từ đó, tác giả mạnh dạn đề xuất hướng hồn thiện các
quy định của pháp luật liên quan đến quy định này trong hệ thống pháp luật tố tụng
dân sự ở Việt Nam.


9

Thơng qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả cịn mong muốn làm phong phú
thêm cơ sở lý luận khoa học của quy định này khi đã trở thành nguyên tắc của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam. Với tinh thần nghiên cứu cơng phu, tồn diện, hi vọng

rằng đề tài sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho những chủ thể quan tâm đến
lĩnh vực này, đồng thời góp ý cho các nhà làm luật tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
quy định của pháp luật liên quan đến nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án
dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngồi các phương pháp nghiên cứu mang tính chất biện chứng của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, luận văn được nghiên cứu bằng các phương pháp chuyên ngành của
khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn của quy định
pháp luật này. Trong đó, chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, so sánh và
phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp phân tích luật kết hợp với phương pháp tổng hợp để phân tích
các khái niệm, đặc điểm về chứng minh, nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án
dân sự; phân loại và đặc điểm của nghĩa vụ chứng minh, chủ thể có nghĩa vụ chứng
minh và các vấn đề có liên quan nhằm làm rõ nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân
sự là gì, chủ thể nào có nghĩa vụ chứng minh chính, chủ thể nào có nghĩa vụ chứng
minh mang tính chất hỗ trợ. Phân tích các quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng
minh trong vụ án dân sự và thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ
thẩm để thấy rõ những hạn chế trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương
sự, cũng như hạn chế của quy định pháp luật trong vấn đề này. Từ đó, rút ra được
khái niệm tổng quát, những nội dung chung nhất mang ý nghĩa bao hàm để người đọc
dễ hiểu và nắm vấn đề.
- Phương pháp so sánh dùng để đối chiếu so sánh các quy định về nghĩa vụ
chứng minh quy định trong pháp luật tố tụng dân sự qua các thời kỳ để thấy rõ sự
phát triển và tiến bộ trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng
minh của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.


10

Thông qua các phương pháp được sử dụng, luận văn nghiên cứu các quy

định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng trong
giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm nhằm làm rõ những điểm còn bất cập
để từ đó đề xuất những giải pháp hữu ích nhằm hồn thiện pháp luật và góp phần
nâng cao ý thức, chất lượng hoạt động chứng minh của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự đã
được nhiều nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn, công tác giảng dạy tiến
hành, cơng bố trong nhiều bài viết. Có một số Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một
số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên
cứu về vấn đề này. Q trình học tập và hồn thiện luận văn, tác giả đã tiếp cận
nghiên cứu một số bài viết, và cơng trình và nhận thấy rằng:
- “Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử” của Luật gia Tưởng Duy
Lượng – Ngun Phó Chánh án Tịa án nhân dân tối cao, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia – Sự thật năm 2014. Đối với cơng trình này tác giả đã dành nhiều thời gian
nghiên cứu chuyên sâu về một số chuyên đề phổ biến thường gặp trong tố tụng dân
sự, trong đó tập trung viết về thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực tiễn giải
quyết các vụ án dân sự để đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các chuyên đề này,
trong đó chuyên đề về chứng cứ và chứng minh.
- “Chế định chứng minh trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thị Minh Hằng- Luận án tiến sĩ Luật học năm 2007. Trong đề tài này, tác giả tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự liên quan đến quy định về
chứng minh trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu tương đối rộng
nên đề tài chưa bao hàm hết nghĩa vụ chứng minh mang tích chất đặc thù của đương
sự gắn với chính tư cách tố tụng của họ.
- “Thu thập nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa
án nhân dân cấp sơ thẩm” của tác giả Nguyễn Kim Lượng – Luận văn thạc sĩ năm
2015. Đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân



11

sự liên quan đến quá trình thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ của
Tòa án trong giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm. Bên cạnh đó cịn phân tích các hạn chế
tại các quy định pháp luật này làm ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án của Tịa
án và đưa ra các kiến nghị hồn thiện.
Ngồi ra, tác giả cịn nghiên cứu thêm các cơng trình khác như “Nghĩa vụ
chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự từ thực tiễn xét xử của Tịa án nhân
dân quận Tân Bình, TPHCM” của tác giả Trịnh Thị Oanh - Luận văn thạc sĩ năm
2017; “Chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự” của tác giả Hồng Ngọc
Thỉnh - Tạp chí Luật học năm 2004 và nhiều bài viết của các tác giả khác trên Tạp
chí Tịa án nhân dân nhiều năm gần đây…
Có thể khẳng định đây là những cơng trình khai thác các vấn đề về chứng cứ
và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau,
nhưng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể gắn với thực tiễn áp dụng
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tuy vậy, đây vẫn là những nguồn tài liệu
quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật của mình.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Lý luận về nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và kiến nghị hoàn thiện


12

CHƢƠNG 1

LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
1.1. Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân
sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án cấp sơ thẩm
Để nêu ra được khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự
tại Tòa án cấp sơ thẩm là gì, trước hết cần phải hiểu rõ các khái niệm chứng minh,
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự, vụ án dân sự, giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm và một số khái niệm có liên quan trực tiếp.
Theo Từ điển Tiếng Việt, nghĩa vụ là những việc bắt buộc phải làm đối với xã
hội đối với người khác mà pháp luật hay đạo đức quy định. Nghĩa vụ trong tố tụng
dân sự là những việc buộc phải tuân theo, buộc phải làm dựa trên căn cứ là các quy
định trong Bộ luật Tố tụng dân sự.1
Có thể thấy, mỗi một vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng
những mâu thuẫn nhất định giữa các bên đương sự, nên thường rất phức tạp. Để giải
quyết được vụ việc dân sự thì mọi vấn đề của vụ việc, dù là bên nào trong quan hệ
tranh chấp nêu ra cũng đều phải được làm rõ. Việc làm rõ, làm sáng tỏ các quan
điểm do các bên đưa ra được tiến hành theo một quy trình tố tụng dân sự chặt chẽ do
luật quy định. Quá trình làm sáng tỏ các quan điểm này được tiến hành trước khi Tòa
án đưa ra quyết định cuối cùng về việc giải quyết vụ việc dân sự đó. Q trình thực
hiện các cơng việc này được gọi là việc chứng minh của các chủ thể do luật quy định,
nhằm đạt mục đích đề ra tùy theo yêu cầu và địa vị tố tụng của các chủ thể.

1

Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng việt, NXB Đà Nẵng, trang 192


13


Vì vậy, chứng minh có thể được hiểu là hoạt động tố tụng của các chủ thể
tố tụng theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ
việc dân sự.
Với khái niệm này thì nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự được hiểu là
hoạt động của chủ thể tham gia tố tụng phải làm, phải tuân theo quy trình thủ tục do
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định để nhằm làm rõ sự thật của các yêu cầu, bảo vệ cho
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong khoa học pháp lý, tố tụng dân sự là trình tự do pháp luật quy định cho
việc giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật được gọi là hoạt động tố
tụng dân sự. Trong hoạt động tố tụng dân sự thì quá trình chứng minh được diễn ra
trong suốt quá trình giải quyết vụ án dân sự. Hoạt động chứng minh bao gồm nhiều
hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng. Khi tham gia tố tụng dân sự với tư cách
tố tụng khác nhau thì các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ đặc trưng, riêng biệt,
trong đó có nghĩa vụ chứng minh. Có thể hiểu rằng, chứng minh trong tố tụng dân sự
là một quá trình thu thập, cung cấp, sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ sở pháp
lý cũng như cơ sở thực tế các yêu cầu của các bên trong vụ án dân sự.
Như vậy, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự được hiểu là trách nhiệm
của chủ thể tham gia tố tụng thu thập, cung cấp và sử dụng chứng cứ nhằm chứng tỏ
yêu cầu hoặc phản bác một vấn đề trong vụ án dân sự.2
Trong thực tế, không phải ai cũng hiểu vụ án dân sự là gì và giải quyết vụ án
dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm là như thế nào. Theo tinh thần quy định tại Điều 1 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các
đương sự mà theo quy định thì cá nhân, cơ quan, tổ chức tự mình hoặc thơng qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tịa án có thẩm quyền để u cầu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các vụ án về tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động được gọi chung là vụ án dân sự. Vậy có thể

Nguyễn Cơng Bình (2005), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB TP Hà Nội, trang 132.


2


14

hiểu một cách đơn giản vụ án dân sự là có tranh chấp xảy ra giữa các bên trong
mối quan hệ dân sự, dẫn đến việc một trong các bên khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải
quyết nhằm đảm bảo quyền lợi, lợi ích hợp pháp của mình.
Việc giải quyết vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành được
thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Nguyên tắc xét xử hai cấp trong tố tụng dân
sự là tư tưởng chỉ đạo, có tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định hướng
của Nhà nước trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Nguyên tắc này được quy định
rõ trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.3 (Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm) Trong đó xác định một vụ án dân sự được xét xử lần đầu ở cấp sơ
thẩm (là cấp xét xử thứ nhất) và có thể được xét xử ở lần thứ hai ở cấp xét xử phúc
thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị theo quy định nhằm giải quyết đúng đắn, kịp thời
vụ việc dân sự, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức.
Như vậy, việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm là hoạt động
của Tòa án sử dụng các quy định của pháp luật thực hiện xét xử lần đầu đối với vụ
án dân sự. Trên cơ sở xem xét chứng cứ chứng minh của các bên và tài liệu chứng cứ
thu thập được trong hồ sơ vụ án, Tòa án đưa ra phán quyết bằng quyết định hoặc
bản án nhằm quy định quyền và nghĩa vụ các bên, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án
nhanh chóng kịp thời, đúng luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên chủ
thể tham gia tố tụng dân sự.
Từ một số khái niệm liên quan đến việc chứng minh, hoạt động chứng minh
trong tố tụng dân sự, có thể thấy rằng chứng minh trong tố tụng dân sự là nghĩa vụ
của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự. Nghĩa vụ này được tiến hành theo trình tự,
thủ tục luật định, được hiểu rằng: Nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân

sự tại Tòa án cấp sơ thẩm là các quy định về trách nhiệm, hoạt động của các chủ thể
tham gia tố tụng dân sự thực hiện việc thu thập, cung cấp, chứng cứ và chứng minh
cho các u cầu của mình để Tịa án tiến hành xem xét giải quyết mọi vấn đề cần giải
quyết của vụ án, đưa ra phán quyết bằng bản án, quyết định phù hợp, đúng luật.
3

Xem Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015


15

1.1.2. Yêu cầu đối với nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự
tại Tòa án cấp sơ thẩm
Yêu cầu đặt ra đối với việc chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án cấp sơ thẩm là sự đầy đủ và chính xác trong hoạt động thu thập, cung cấp chứng
cứ và chứng minh.
Để đảm bảo nghĩa vụ chứng minh trong việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án cấp sơ thẩm được thực hiện đầy đủ và chính xác thì cần phải đảm bảo các yêu cầu
sau:
- Với yêu cầu về chủ thể của nghĩa vụ chứng minh: Phải có đầy đủ năng lực
chủ thể gồm năng lực pháp luật và năng lực điều khiển hành vi khi tham gia vào mối
quan hệ dân sự, tham gia giải quyết khi phát sinh tranh chấp dân sự. Phải đúng là chủ
thể có nghĩa vụ chứng minh theo quy định của pháp luật thì mới đảm bảo việc thực
hiện nghĩa vụ chứng minh là chính xác và đầy đủ.
- Với yêu cầu về đối tượng chứng minh: Mỗi vụ việc dân sự đều có đối tượng
chứng minh riêng mà xác định đúng đối tượng chứng minh có tính chất quyết định
tới kết quả giải quyết vụ án. Vì vậy cần phải xác định đúng đối tượng chứng minh, đó
là các đối tượng phải liên quan đến vụ án dân sự và là đối tượng cần được xác định
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Việc xác định đúng đối tượng chứng minh
giúp cho chủ thể có nghĩa vụ chứng minh đi đúng hướng, giảm bớt chi phí và thời

gian khi tiến thực hiện nghĩa vụ chứng minh mà vẫn đạt hiệu quả như mong muốn.
- Với yêu cầu về phương tiện thực hiện nghĩa vụ chứng minh: Phương tiện để
thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là rất đa dạng và phong phú. Tuy
nhiên không phải phương tiện nào cũng được áp dụng khi thực hiện nghĩa vụ chứng
minh. Phương tiện thực hiện nghĩa vụ chứng minh phải là những công cụ do pháp
luật quy định các chủ thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện
của vụ án dân sự. Các chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh chỉ được sử dụng các
phương tiện chứng minh do pháp luật quy định mà khơng thể sử dụng bất kì phương


16

tiện nào khác để chứng minh. Đối với mỗi phương tiện cụ thể cũng chỉ được sử
dụng để thực hiện nghĩa vụ
chứng minh khi đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định. Việc
yêu cầu về phương tiện thực hiện nghĩa vụ chứng minh như vậy, nhằm đảm báo tính
pháp lý cho các hoạt động của chủ thể khi thực hiện nghĩa vụ chứng minh, và đảm
bảo cho kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh là có giá trị hợp pháp, được
sử dụng để Tịa án xem xét, giải quyết vụ án dân sự. Ví dụ: Chứng cứ là phương tiện
chứng minh quan trọng nhất phục vụ cho việc chứng minh. Các chứng cứ có thể
được thể hiện bằng nhiều dạng khác nhau, nhưng nó chỉ có giá trị là chứng cứ khi
đáp ứng đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ và được thu thập theo đúng trình tự, thủ
tục do luật quy định…
1.1.3. Phân loại nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án cấp sơ thẩm.
Việc phân loại nghĩa vụ chứng minh có thể được dựa trên nhiều căn cứ khác
nhau. Nhưng thông thường nghĩa vụ chứng minh được phân loại dựa trên các căn cứ
sau:
Một là, căn cứ vào đặc điểm và tính chất, thì nghĩa vụ chứng minh trong giải
quyết vụ án dân sự được phân loại thành nghĩa vụ chứng minh nội dung và nghĩa vụ

chứng minh hình thức.
- Nghĩa vụ chứng minh nội dung: hay còn gọi là nghĩa vụ thuyết phục, nghĩa
vụ khẳng định, nghĩa vụ khách quan…Đây là nghĩa vụ ấn định hẳn cho bên có u
cầu hay cáo buộc và khơng thể chuyển cho bên kia. Chủ thể có nghĩa vụ chứng minh
lúc này buộc phải thực hiện các hoạt động chứng minh nếu khơng thực hiện thì sẽ bị
thua kiện. Đó là thực hiện các hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ cần thiết nộp
cho Tòa án để chứng minh cho các yêu cầu của mình. Đồng thời, chủ thể có nghĩa vụ
chứng minh phải sử dụng, viện dẫn các cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, cơ sở pháp lý
để trình bày, phân tích giá trị của các chứng cứ, nhằm thuyết phục Tịa án cơng nhận
các chứng cứ mà mình cung cấp là hợp pháp, có giá trị trong việc xác định những yêu


17

cầu, cáo buộc của mình là hợp lý, là đúng sự thật. Nghĩa vụ nội dung là nhằm vào
sự thật vụ án và chỉ ràng buộc với bên đi kiện.
- Nghĩa vụ chứng minh hình thức: là một phần của nghĩa vụ chứng minh nội
dung, đó là nghĩa vụ xuất trình chứng cứ. Đây là nghĩa vụ chung của cả các bên
đương sự. Khi tham gia tố tụng, các bên đều có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tịa
án để làm cơ sở cho việc khẳng định hay bác bỏ một vấn đề. Nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ là nhằm cung cấp công cụ pháp lý để phục vụ cho việc thực hiện nghĩa vụ
nội dung và có thể chuyển dịch giữa các bên trong quá trình tố tụng. Khi các bên xuất
trình chứng cứ theo yêu cầu của Tịa án, thì các bên đã hồn thành nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ. Quá trình dịch chuyển nghĩa vụ cung cấp chứng cứ được thực hiện cho đến
khi một bên khơng cịn khả năng cung cấp được chứng cứ nữa. Tòa án sẽ xem xét và
quyết định chứng cứ của bên nào sẽ được công nhận và của bên nào là không được
công nhận để sử dụng làm căn cứ cho việc ra phán quyết cuối cùng của Tòa án về
việc giải quyết vụ án dân sự.
Tuy nhiên, đây chỉ là cách phân loại để thấy rõ cấp độ quan trọng của nghĩa vụ
chứng minh. Trên thực tế, để việc chứng minh có hiệu quả thì khơng thể tách rời hai

hình thức này trong quá trình chứng minh thành các biện pháp độc lập mà chủ thể
chứng minh luôn phải sử dụng đồng thời hai hình thức này. Do đó, xét về bản chất thì
hai hình thức này khơng thể tách rời nhau.
Hai là, căn cứ vào tính chất, thời điểm của các giai đoạn giải quyết vụ án dân
sự thì có thể phân loại nghĩa vụ chứng minh thành: Nghĩa vụ chứng minh trong giai
đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án, nghĩa vụ chứng minh trong giai đoạn hòa giải và
chuẩn bị xét xử, nghĩa vụ chứng minh tại phiên tòa sơ thẩm
- Nghĩa vụ chứng minh trong giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự:
Trong giai đoạn này, nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể tham gia tố tụng được thể
hiện qua việc cung cấp chứng cứ chứng minh cho các yêu cầu của mình trong đơn
khởi kiện. Các chủ thể căn cứ theo các quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ
chứng minh của mình. Tịa án sẽ xem xét nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu


18

chứng cứ kèm theo. Nêu thấy đủ điều kiện thì thụ lý, nếu chưa rõ thì yêu cầu
đương sự bổ sung đơn khởi kiện theo luật định.
- Nghĩa vụ chứng minh trong giai đoạn hòa giải và chuẩn bị xét xử: Trong giai
đoạn này, các bên đương sự được tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tại thời điểm này, các bên vẫn có thể tiếp tục
cung cấp chứng cứ, hoặc yêu cầu Tòa tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp
các đương sự khơng tự mình thu thập được. Hoặc Tòa án tự thu thập chứng cứ theo
luật định. Trong q trình hịa giải, dưới sự tổ chức và điều hành của Tòa án, các bên
đương sự dựa vào những chứng cứ mà mình đã cung cấp để tự thoả thuận với nhau
về các nội dung cần giải quyết của vụ án. Nếu các bên tự thỏa thuận được tất cả các
nội dung, hịa giải thành thì Tịa án sẽ căn cứ theo đó để ra quyết định cơng nhận sự
thỏa thuận của các đương sự. Khi đó các đương sự sẽ chấm dứt nghĩa vụ chứng minh,
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ.
- Nghĩa vụ chứng minh tại phiên tòa sơ thẩm: Tại phiên tòa sơ thẩm, các bên

thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình bằng việc cung cấp thêm chứng cứ mới để
chứng minh cho các u cầu của mình. Và thơng qua hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa, các bên đương sự tham gia tố tụng sẽ sử dụng bản giải trình với lập luận, lý luận,
và các cơ sở pháp lý nhằm chứng minh các chứng cứ mà mình cung cấp là hợp pháp
và có giá trị chứng minh cho các yêu cầu của mình. Quá trình tranh tụng là quá trình
thể hiện rõ nhất việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể tham gia tố tụng.
Nghĩa vụ này sẽ chấm dứt khi khơng cịn bên nào có thể đưa ra chứng cứ, lập luận,
cơ sở pháp lý để tiếp tục tranh tụng. Lúc này Tòa án sẽ xem xét và đưa ra phán quyết
dựa trên các căn cứ của luật định, chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, và diễn
biến tại phiên tòa.
Ba là, căn cứ vào đặc điểm của chủ thể có nghĩa vụ chứng minh, có thể phân
loại nghĩa vụ chứng minh thành:
- Nghĩa vụ chứng minh của đương sự: căn cứ theo quy định của bộ luật tố tụng
dân sự, đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh bằng hoạt động thu thập, giao nộp,
cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Đồng thời, sử dụng các cơ sở pháp lý và cơ sở thực


19

tiễn để lập luận, chứng minh cho các chứng cứ mà mình đã cung cấp. Việc
thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự thể hiện trong suốt quá trình giải quyết
vụ án. Đặc biệt nhất là ở giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa, đương sự sẽ tiến hành
tranh luận, trình bày, đối đáp với nhau để khẳng định chứng cứ của mình là đúng, là
thật, là hợp pháp, phản bác những chứng cứ gây bất lợi cho những yêu cầu của mình.
- Nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự: người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, khi nhận trách
nhiệm và nghĩa vụ cho đương sự thì họ tiến hành việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh
song song với đương sự. Việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của họ là do được
đương sự nhờ, nhằm giúp cho đương sự khẳng định các tài liệu chứng cứ mà đương
sự cung cấp là thật, hợp pháp trước Tịa án. Trong q trình những người này thực

hiện nghĩa vụ chứng minh thì đương sự có quyền bổ sung hoặc trình bày thêm những
ý kiến khác để phục vụ cho việc chứng minh.
- Nghĩa vụ chứng minh của người đại diện: Người đại diện khi thực hiện nghĩa
vụ chứng minh thì thực hiện tất cả nghĩa vụ chứng minh của đương sự mà họ đại
diện. Việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh kết thúc tùy thuộc vào tính chất của mỗi
loại đại diện.
- Nghĩa vụ chứng minh của cơ quan, tổ chức, cá nhân bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người khác, lợi ích cơng cộng, lợi ích Nhà nước: Những cơ quan, tổ
chức, cá nhân này thực hiện nghĩa vụ chứng minh bằng việc thu thập, cung cấp, giao
nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp. Việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh và kết quả của
việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các cơ quan, tổ chức, cá nhân này ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án: Tòa án thực hiện nghĩa vụ chứng minh
bằng hoạt động thu thập và yêu cầu thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ khi đương
sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết. Việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của
Tịa án chỉ mang tính hỗ trợ đương sự. Mục đích chủ yếu của hoạt động này là làm rõ
vụ án, làm cơ sở cho việc đưa ra phán quyết của Tòa án.


20

1.1.4. Vai trò của nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm
Song song với sự phát triển của đất nước về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội,
khoa học kĩ thuật là sự phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp của các quan hệ xã
hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực dân sự, các mối quan hệ được thiết lập trên cơ sở tự
nguyện và sự thỏa thuận nên khi có phát sinh tranh chấp thì thường rất phức tạp. Để
có thể giải quyết các tranh chấp này, buộc phải vận dụng rất nhiều các quy định trong
nhiều lĩnh vực có liên quan. Khi phát sinh tranh chấp, các bên có thể lựa chọn cách

cách thức giải quyết bằng con đường thương lượng hịa giải, hoặc thơng qua tổ chức
trọng tài, hoặc thơng qua việc khởi kiện đến Tịa án.
Thực tế cho thấy, các đương sự khi có tranh chấp họ thường lựa chọn cho
mình con đường giải quyết tranh chấp thơng qua Tịa án. Việc giải quyết tranh chấp
dân sự sẽ được tiến hành dựa trên cở sở pháp lý là Bộ luật Dân sự (luật nội dung) và
Bộ luật Tố tụng dân sự (luật hình thức). Ngồi ra, tùy theo tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực nào thì Tịa án sẽ áp dụng thêm một số luật có liên quan để làm cơ sở cho
việc giải quyết tranh chấp.
Kết quả giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố như các quy định của pháp luật, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án,
khả năng của các chủ thể tiến hành tố tụng và các chủ thể tham gia tố tụng. Có một
thực tế đang diễn ra hiện nay trong giải quyết án dân sự là tình trạng Tịa án còn đang
làm thay đương sự quá nhiều việc. Vẫn cịn khơng ít đương sự tham gia vào việc giải
quyết vụ án còn cho rằng, mọi việc là phải do Tịa án thực hiện, mình chỉ thực hiện
quyền khởi kiện và cung cấp một số chứng cứ, tài liệu liên quan là được. Nhưng thực
chất, để giải quyết vụ án có chất lượng, hiệu quả, nhanh chóng, kịp thời thì việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong q trình giải quyết vụ án đóng vai trị
hết sức quan trọng, có thể đánh giá là vai trị chủ yếu. Giá trị của việc giải quyết các
tranh chấp không phải nằm ở nhiều thủ tục tố tụng, mà ở chỗ phát huy được vai trị
chủ động, tích cực của đương sự trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Việc đương sự tự thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ để chứng minh cho
quyền và lợi ích hợp pháp mình là phù hợp với nguyên tắc tự thỏa thuận, tự giao kết


21

trong dân sự. Mặt khác, việc đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình
là góp phần nâng cao vai trị, tính chủ động của đương sự trong việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ. Khi đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh một cách chính xác đầy
đủ thì Tịa án sẽ có cơ sở vững chắc hơn để đưa ra phán quyết. Mặt khác, khi các

đương sự không cung cấp đầy đủ các chứng cứ mà mình có, chỉ đến khi vụ án được
giải quyết lại ở cấp phúc thẩm hay xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm thì mới
cung cấp, vơ tình đương sự đã hạn chế quyền và nghĩa vụ chứng minh của chính
mình. Điều này khiến cho việc giải quyết án dân sự ở cấp sơ thẩm gặp khó khăn, vụ
án bị giải quyết kéo dài gây ra nhiều hệ lụy phức tạp, tốn kém cho cả Nhà nước và
chính các đương sự.
Từ đó có thể thấy, chứng minh và việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong
giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm là hết sức quan trọng, giữ vai trò chủ yếu
quyết định đến việc đưa ra phán quyết đúng đắn của Tòa án.
Chứng minh là hoạt động tố tụng dân sự cơ bản của các chủ thể tố tụng. Kết
quả giải quyết các vụ việc dân sự phụ thuộc một phần rất lớn vào kết quả của hoạt
động chứng minh. Chứng minh trước hết có ý nghĩa xác định, làm rõ các sự kiện,
tình tiết của vụ việc dân sự, bảo đảm việc giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự. Xét
cả dưới gốc độ lý luận và thực tiễn thì chứng minh vẫn là biện pháp duy nhất để xác
định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Đối với các đương sự, chứng minh là
vấn đề rất quan trọng để các đương sự làm rõ được cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tịa án rằng các u cầu của mình là có thật là hợp
lý và các chứng cứ mình đưa ra để chứng minh cho các yêu cầu này là chính xác, hợp
pháp. Trước Tịa án, nếu đương sự khơng chứng minh được sự tồn tại quyền và lợi
ích hợp pháp của mình thì họ có thể sẽ khơng được Tịa án bảo vệ.4 Vì vậy, nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự là rất quan trọng, nó là cơ sở pháp lý cho việc thực
hiện hoạt động chứng minh. Thông qua quy định về nghĩa vụ chứng minh, sẽ xác
định được chủ thể tham gia tố tụng nào phải thực hiện việc chứng minh, quy trình
thực hiện việc chứng minh là như thế nào, trường hợp nào là nguyên đơn phải chứng
Nguyễn Cơng Bình (2005), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB TP Hà Nội, trang 135.

4


22


minh, trường hợp nào là bị đơn phải chứng minh và chủ thể nào đóng vai trị
trung tâm trong hoạt động chứng minh, Tịa án, Viện kiểm sát có vai trị gì trong việc
thực hiện nghĩa vụ chứng minh để giải quyết vụ án. Việc thực hiện tốt nghĩa vụ
chứng minh góp phần nêu cao quyền con người, quyền cơng dân, giúp cho các chủ
thể tham gia tố tụng dân sự hoạt động tích cực trong việc giải quyết vụ án. Thực hiện
nghĩa vụ chứng minh hiệu quả là yếu tố quyết định trong việc giải quyết vụ án dân
sự.
1.2. Quan hệ pháp luật phát sinh từ nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết
vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
1.2.1. Chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm.
Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là một yếu tố cấu thành cơ bản
của quan hệ pháp luật dân sự. Các quan hệ pháp luật dân sự luôn luôn rất đa dạng và
phong phú dẫn đến tính đa dạng của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
Để đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng, đúng đắn các vụ án dân sự, quyền và lợi
ích của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến vụ việc dân sự thì việc xác
định đúng các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có ý nghĩa rất quan trọng.
Chủ thể của các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các cá nhân, tổ chức tham
gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
thì Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, cơ
quan thi hành án, đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và
người liên quan.
Tùy theo mục đích, vai trị tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể này mà
pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Trong hoạt động chứng
minh của tố tụng dân sự cũng vậy, các chủ thể sẽ được pháp luật quy định những
quyền và nghĩa vụ cụ thể để thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình.



23

Chứng minh làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự là vấn đề rất
cần thiết cho việc giải quyết một vụ án dân sự. Trong việc giải quyết bất kỳ vụ án dân
sự nào cũng cần phải tiến hành hoạt động chứng minh. Hoạt động chứng minh trong
quá trình giải quyết vụ án dân sự được tiến hành chủ yếu bằng việc chỉ ra các căn cứ
pháp lý, xuất trình, nghiên cứu, và đánh giá các chứng cứ trong phiên tòa dân sự sơ
thẩm. Vấn đề quan trọng đặt ra là phải xác định được ai có quyền, nghĩa vụ trong
việc chỉ ra các căn cứ pháp lý, xuất trình các chứng cứ, nghiên cứu, và đánh giá
chúng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Hay nói cách khác, là phải xác định
được ai là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.
Chủ thể có nghĩa vụ chứng minh là những người được quy định trong bộ luật
tố tụng dân sự, thực hiện việc thu thập, giao nộp, xuất trình các chứng cứ, đồng thời
sử dụng các cơ sở pháp lý, lý luận thực tiễn nhằm phân tích, đánh giá các chứng cứ
để thuyết phục Tòa án rằng các yêu cầu mà mình đưa ra là có thật, hợp lý, hợp pháp,
là quyền và lợi ích mà mình đáng được hưởng theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, trong tố tụng dân sự, khơng phải chủ thể nào cũng có nghĩa vụ chứng minh,
mà chỉ một số chủ thể nhất định được quy định trong luật tố tụng dân sự mới có
nghĩa vụ chứng minh.
Các chủ thể này bao gồm: Các đương sự, người đại diện cho đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ
quyền và lợi ích của người khác, lợi ích công cộng, Viện kiểm sát và Tịa án.
Trong tố tụng dân sự, thì nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về đương sự.
Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (khoản 1 Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự
2015). Thông thường, trong mối quan hệ tương quan giữa các đương sự thì kể từ khi
nộp đơn khởi kiện và được Tòa án thụ lý, nguyên đơn phải chứng minh trước trừ một
số trường hợp đảo nghĩa vụ chứng minh theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân

sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. (khoản 2 Điều
68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).


24

Khi bị đơn phản đối lại yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn phải có nghĩa
vụ chứng minh. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện, hoặc bị
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị
người đó xâm phạm (khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không
khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và
được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan. Trường hợp khi giải quyết một vụ án dân sự, nếu người nào đó có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng khơng có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng
thì Tịa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan. (khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại: người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia
tố tụng độc lập, nghĩa là trong vụ án dân sự, lợi ích pháp lý của họ độc lập với lợi ích
pháp lý của nguyên đơn và bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống lại cả yêu cầu của
nguyên đơn và bị đơn; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng khơng
độc lập là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng phụ thuộc vào
nguyên đơn hoặc bị đơn, lợi ích pháp lý của họ gắn liên với lợi ích pháp lý của
nguyên đơn, bị đơn.5
Pháp luật quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh vì họ là người trong
cuộc, thường liên quan trực tiếp đến các yêu cầu cần chứng minh nên họ thường biết
rõ về vụ án dân sự đó, họ sẽ có điều kiện cung cấp các tin tức về vụ việc dân sự và
nguồn gốc của các chứng cứ, từ đó Tịa án có thể xác định được những tình tiết, sự

kiện của vụ án dân sự. Mặt khác đương sự có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án dân
sự đưa ra yêu cầu, phản đối yêu cầu của đương sự khác nên họ sẽ quan tâm và tìm
mọi biện pháp để khẳng định yêu cầu hay sự phản đối u cầu của mình. Đây là sự

Nguyễn Cơng Bình (2005), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB TP Hà Nội, trang 106.

5


25

khác biện lớn nhất về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự với các chủ
thể khác trong tố tụng dân sự.
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: Đương sự có u cầu
Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp
cho Tịa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp, trừ các trường hợp sau đây:
- Người tiêu dùng khởi kiện khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình khơng có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của
Luật bảo vệ người tiêu dùng.
- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động không cung cấp, giao nộp
được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử
dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp,
giao nộp tài liệu chứng cứ đó cho Tịa án.
- Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối
với người lao động theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về
người sử dụng lao động.

Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh như:
- Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng
văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để
chứng minh cho sự phản đối đó.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước hoặc yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
việc khởi kiện, u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.


×