Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Chế tài trong hợp đồng thương mại và thực tiễn áp dụng tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.38 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỤC LỤC </b>



<b>LỜI CAM ĐOAN </b>
<b>LỜI CẢM ƠN </b>
<b>MỤC LỤC </b>


<b>DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT </b>


<b>TÓM TẮT LUẬN VĂN ...2 </b>
<b>LỜI NÓI ĐẦU ... Error! Bookmark not defined. </b>
<b>CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ TÀI TRONG HỢP ĐỒNG </b>
<b>THƢƠNG MẠI ... Error! Bookmark not defined. </b>


<b>1.1. Khái niệm, đặc điểm của chế tài trong hợp đồng thƣơng mạiError! Bookmark </b>


not defined.


<b>1.1.1. Khái niệm về chế tài trong hợp đồng thương mạiError! </b> <b>Bookmark </b> <b>not </b>


<b>defined. </b>


<b>1.1.2. Đặc điểm của chế tài trong hợp đồng thương mạiError! </b> <b>Bookmark </b> <b>not </b>


<b>defined. </b>


<b>1.2. Vai trò của chế tài trong hợp đồng thƣơng mạiError! Bookmark not defined. </b>
<b>1.3. Lịch sử chế tài trong hợp đồng thƣơng mại .. Error! Bookmark not defined. </b>


1.3.1. Chế tài theo quy định tại Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 và Luật
<b>Thương mại năm 1997... Error! Bookmark not defined.</b>



1.3. <b>ại theo Luật Thương mại 2005Error! </b> <b>Bookmark </b> <b>not </b>


<b>defined. </b>


<b>KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ... Error! Bookmark not defined. </b>
<b>CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƢƠNG MẠI VÀ </b>
<b>THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH </b>
<b>THÁI BÌNH ... Error! Bookmark not defined. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>2.1.1. Quy định pháp luật về hình thức chế tài .. Error! Bookmark not defined.</b>
<b>2.1.2. Quy định pháp luật về nội dung chế tài ... Error! Bookmark not defined.</b>


<b>2.1.3. Quy định pháp luật về điều kiện áp dụng chế tàiError! </b> <b>Bookmark </b> <b>not </b>


<b>defined. </b>


<b>2.1.4. Quy định về thủ tục áp dụng chế tài... Error! Bookmark not defined.</b>


<b>2.2. Thực trạng áp dụng chế tài trong hợp đồng thƣơng mại tại các doanh nghiệp </b>
<b>trên địa bàn tỉnh Thái Bình. ... Error! Bookmark not defined. </b>


2.2.1. Khái quát về hoạt động thực hiện hợp đồ ệ


<b>. ... Error! Bookmark not defined.</b>


2.2.2. Thực tế áp dụng chế tài trong hợp đồng thương mạ ệ


<b> ... Error! Bookmark not defined.</b>


<b>KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ... Error! Bookmark not defined. </b>


<b>CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI TRONG </b>
<b>HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ... Error! Bookmark not defined. </b>


<b>3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài trong hợp đồng thương mạiError! </b>


Bookmark not defined.


<b>3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài trong hợp đồng thương mạiError! </b>


Bookmark not defined.


3.2.1. Các quy định của pháp luật về chế tài trong hợp đồng thương mại cần hoàn
<b>thiện ... Error! Bookmark not defined.</b>
<b>3.2.2. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài thương mại ... Error! </b>


<b>Bookmark not defined. </b>


<b>3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài do vi phạm tại các doanh </b>
<b>nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình. ... Error! Bookmark not defined. </b>
<b>KẾT LUẬN ... Error! Bookmark not defined. </b>
<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... Error! Bookmark not defined. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3></div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chế tài trong thương mại theo quy định tại Điều 292 Luật Thương mại 2005 bao
gồm các loại sau:


<i>“1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng. </i>
<i>2. Phạt vi phạm. </i>


<i>3. Buộc bồi thường thiệt hại. </i>
<i>4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng. </i>


<i>5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng. </i>
<i>6. Huỷ bỏ hợp đồng. </i>


<i>7. Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản </i>
<i>của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là </i>
<i>thành viên và tập quán thương mại quốc tế.” </i>


<i>- Buộc thực hiện đúng hợp đồng </i>


“Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực
hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi
phạm phải chịu chi phí phát sinh”.


<i>- Phạt vi phạm </i>


“Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt
do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật Thương mại 2005”.


<i>- Buộc bồi thường thiệt hại </i>


“Buộc bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”.


<i>- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều
294 của Luật Thương mại 2005”.


<i>- Đình chỉ thực hiện hợp đồng </i>



“Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: (1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã
thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; (2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp
đồng, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật Thương mại
2005”.


<i>- Hủy bỏ hợp đồng: “là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện hợp </i>
đồng và làm cho hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết.


Hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: (a) Xảy ra hành vi
vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; (b) Một bên vi phạm
cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.


Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp
đồng.


Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa
vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.


Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng,
các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực”.


<i>- “Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản </i>
<i>của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam </i>
<i>là thành viên và tập quán thương mại quốc tế”. </i>


Xét về tính chất, chế tài trong hợp đồng thương mại gồm hai nhóm: chế tài áp
dụng đối với vi phạm cơ bản và chế tài áp dụng đối với vi phạm không cơ bản.



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Các vi phạm khác không gây ra những thiệt hại đến mức làm cho bên bị vi phạm
khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng đựơc gọi là vi phạm không cơ bản.


Chế tài áp dụng đối với vi phạm cơ bản gồm: tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình
chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng.


Chế tài áp dụng đối với vi phạm không cơ bản gồm: Buộc thực hiện đúng hợp
đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại.


Từ thực tiễn thực hiện hợp đồng thương mại, việc áp dụng các quy định về chế tài
thương mại đã nảy sinh những vướng mắc chủ yếu sau:


<i>Một là, theo quy định tại Điều 297 LTM: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc </i>
<i>bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp </i>
<i>khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Như vậy, </i>
một bộ phận trong định nghĩa về hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng thể hiện tính
<i>khơng khả thi, cụ thể là cụm từ “thực hiện đúng hợp đồng” là khó có thể thực hiện, đặc biệt </i>
trong trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn. Để phù hợp với thực tiễn và bảo đảm
hơn tính khả thi đối với quy định về buộc thực hiện đúng hợp đồng, khái niệm buộc thực
hiện đúng hợp đồng, được sửa đổi, bổ sung.


<i>Ngoài ra, khoản 2 Điều 299 LTM quy định: “Trường hợp bên vi phạm không thực </i>
<i>hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên </i>
<i>bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”. Quy </i>
định như vậy làm cho chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trở thành vơ giá trị, vì ngay cả
trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì cũng
khơng phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào mà chỉ có thể phải chịu các chế tài như phạt vi
phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại hoặc tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng. Nội dung
của pháp luật cần được khắc phục, vì có thể bị bên vi phạm lợi dụng nhằm trì hoãn thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy, thiết nghĩ rất cần quy định bổ sung hình thức chế tài để


áp dụng khi bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294
của Luật này”. Như vậy, phạt vi phạm chỉ có thể xảy ra trong trường hợp các bên đã có
thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Về bản chất, thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng được coi
là một biện pháp ngăn ngừa hành vi vi phạm, nhằm răn đe và hướng các bên cùng tự giác
tuân thủ đúng, đủ các nghĩa vụ đã cam kết. Tuy nhiên, việc áp dụng chế tài phạt vi phạm
hợp đồng chỉ xảy ra khi có sự thỏa thuận trong hợp đồng là chưa thật hợp lý, bởi vì hợp
đồng là sự thỏa thuận của các bên, nếu như các bên chưa quy định về phạt vi phạm hợp
đồng trong hợp đồng thì các bên vẫn có quyền quy định một điều khoản ngoài hợp đồng,
độc lập với hợp đồng và có thể giao kết sau khi hợp đồng được ký kết thì vẫn có hiệu lực
thi hành bình thường như trường hợp đã được quy định vấn đề phạt vi phạm hợp đồng
trong bản hợp đồng.


<i>Theo Điều 301 Luật Thương mại năm 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa </i>
<i>vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong </i>
<i>hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Theo điều </i>
này có thể hiểu, các thương nhân được quyền tự do thỏa thuận trong hợp đồng về chế
tài phạt vi phạm và mức phạt đối với các hành vi vi phạm, tuy nhiên, thỏa thuận về mức
phạt vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm sẽ không hợp pháp. Một
vấn đề đặt ra, nếu trong hợp đồng hai bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% giá trị hợp
đồng thì sẽ xử lý như thế nào: hoặc thỏa thuận này là vơ hiệu, vì vậy khi giải quyết
tranh chấp về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, không chấp nhận yêu cầu này bởi vì xem
như hai bên khơng có thỏa thuận. hoặc việc thỏa thuận vượt quá 8% chỉ vô hiệu một
phần đối với mức phạt vượt quá 8% còn điều khoản phạt vi phạm hợp đồng hồn tồn
có hiệu lực, trong trường hợp này có thể áp dụng mức tối đa 8% yêu cầu của bên bị vi
phạm, phần vượt quá không được chấp nhận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Khi chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng, hậu quả pháp lý đối với
hợp đồng này là hợp đồng vẫn còn hiệu lực và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi


thường thiệt hại, nếu hành vi vi phạm đó gây thiệt hại cho bên bị vi phạm. Có thể hiểu về
bản chất, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp
đồng và hợp đồng đó sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai khi điều kiện áp dụng chế
tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng khơng cịn tồn tại. Vấn đề đặt ra là sau khi áp dụng
biện pháp này, thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt việc tạm ngừng thực hiện hợp
đồng? Căn cứ nào để một bên yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị tạm ngừng thực
hiện? Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện do bên tạm ngừng tự động
thực hiện hay theo yêu cầu của bên có hành vi vi phạm hợp đồng?


Tất cả những câu hỏi này hiện nay vẫn chưa được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hướng dẫn, từ đó, gây khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Để giải quyết sự bất cập này, cần bổ sung quy định cụ thể về căn cứ, thời điểm chấm dứt
áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng và nghĩa vụ của các bên khi căn cứ tạm
ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Như vậy mới đảm bảo quyền lợi của các bên trong
quá trình thực hiện hợp đồng, tránh trường hợp lợi dụng việc áp dụng chế tài này để trì
hỗn việc thực hiện các hợp đồng trên thực tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp
khơng thể hồn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng
tiền” và “Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật
này”.


Quy định này mâu thuẫn với khoản 1 Điều 314 khi quy định hợp đồng bị hủy thì
khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, cụ thể: Việc cho phép các bên có quyền địi lại
lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đã đi ngược lại với
bản chất của hủy hợp đồng, bởi lẽ khi hợp đồng bị hủy “khơng có hiệu lực từ thời điểm
giao kết” thì tất cả những phần hợp đồng đã thực hiện sẽ phải hoàn trả lại cho bên kia.
Với quy định như vậy, pháp luật đã thừa nhận hiệu lực của hợp đồng bị hủy hơn là hủy
những nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng.



<i>Năm là, Mối quan hệ giữa các loại chế tài trong thương mại </i>


- Về quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài buộc bồi thường thiệt hại: Theo
quy định tại Điều 307 LTM: “Trường hợp các bên khơng có thỏa thuận phạt vi phạm thì
bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy
định khác; trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp
dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác”


Nghiên cứu nội dung quy định này thì việc chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng
đồng thời với chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Nội dung này đã được ghi nhận trong
<i>Điều 316 LTM: “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn </i>
<i>thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Vậy quy định nội </i>
dung này tại 02 điều luật trùng nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

thiệt hại. Quy định như vậy là khơng hợp lý vì những nội dung này đã được ghi nhận
trong Điều 316.


<b>Luận văn đề xuất những định hƣớng hoàn thiện quy định của pháp luật về </b>
<b>chế tài trong hợp đồng thƣơng mại nhƣ sau: </b>


<i>Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; chủ </i>
trương, đường lối của Đảng luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với nội dung, phương hướng xây
dựng pháp luật.


<i>Thứ hai, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất trong hệ thống pháp luật. </i>
<i>Thứ ba, thống nhất giữa luật chung và luật chuyên ngành. Các quy định có tính </i>
chất chung chỉ nên quy định trong luật chung là Bộ luật Dân sự, các quy định chuyên biệt
nên để cho các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định. Nếu có quy định trong BLDS
và trong luật chun ngành thì các quy định nên có sự thống nhất.



<i><b>Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về các hình thức chế tài trong hợp đồng thương mại </b></i>
theo hướng loại bỏ sự chồng chéo, bao hàm hết các mối quan hệ giữa các chế tài, không
quy định rải rác trong các điều luật khác nhau. Nội dung các chế tài quy định cụ thể,
thống nhất, rõ ràng, dễ áp dụng. Thủ tục áp dụng chế tài cụ thể, thống nhất; tương thích
với pháp luật thương mại quốc tế.


Luận văn đề xuất các quy định của pháp luật về chế tài trong hợp đồng thương mại
cần hoàn thiện như sau:


<i>Một là, Khái niệm chế tài “Buộc thực hiện đúng hợp đồng” </i>
<i>Hai là, Chế tài phạt vi phạm hợp đồng </i>


<i>Ba là, Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng </i>


<i>Bốn là, Hậu quả pháp lý của hình thức huỷ bỏ hợp đồng </i>
<i>Năm là, Mối quan hệ giữa các loại chế tài trong thương mại </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Một là, cần nghiên cứu xây dựng lại khái niệm chế tài “Buộc thực hiện đúng hợp </i>
đồng” theo hướng: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực
hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Khi xây dựng lại khái niệm theo hướng
như trên, sẽ giải quyết được tình trạng quy định của Luật đặt ra những điều “không sát
thực tế” và gây ra những lúng túng, khó khăn cho các thương nhân khi áp dụng.


<i>Hai là, nghiên cứu việc quy định về mức chế tài phạt vi phạm hợp đồng như </i>
sau: Nếu nhà làm luật vẫn muốn giữ mức trần phạt vi phạm hợp đồng, thì phải quy định
theo hướng: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8%


phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt q sẽ khơng có giá trị pháp lý”. Với
cách quy định như trên, thì sẽ giải quyết được tình trạng tùy tiện trong việc áp dụng chế
tài phạt vi phạm, đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đối với các thỏa thuận phạt và đảm
bảo và tôn trọng sự tự do thỏa thuận, tự định đoạt của các bên khi giao kết hợp đồng
trong giới hạn mức trần phạt cho phép theo quy định của nhà nước.


<i>Ba là, nghiên cứu bổ sung quy định cụ thể về căn cứ, thời điểm chấm dứt áp dụng </i>
hình thức tạm ngừng thực hiện hợp đồng và nghĩa vụ của các bên khi căn cứ tạm ngừng
thực hiện hợp đồng chấm dứt. Quy định như vậy mới đảm bảo quyền lợi của các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng, tránh trường hợp lợi dụng việc áp dụng chế tài này để
“chấm dứt” việc thực hiện các hợp đồng trên thực tế.


<i>Bốn là, nghiên cứu sửa đổi hậu quả pháp lý của hình thức hủy bỏ hợp đồng (đối </i>
với hợp đồng bị hủy một phần)


Đối với phần hợp đồng bị hủy, các bên phải hoàn trả lại những gì đã nhận cho
nhau, đối với phần không bị hủy sẽ phải tiếp tục thực hiện theo những thỏa thuận trong
hợp đồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

của hợp đồng bị hủy. Quy định này chỉ phù hợp khi lợi ích các bên nhận được là lợi ích
vật chất dưới dạng hiện vật, nếu lợi ích mà các bên nhận được là lợi ích về mặt tinh thần
hoặc đối tượng của hợp đồng là dịch vụ, thì việc bên được cung ứng dịch vụ hoặc nhận
được lợi ích tinh thần phải trả lại tiền cho bên cung ứng dịch vụ chẳng khác gì việc trả
tiền cho lợi ích mình nhận được từ một hợp đồng bị hủy (khơng còn giá trị đối với các
bên). Mặt khác, số tiền phải trả là bao nhiêu, nguyên tắc định giá thế nào? Theo giá thị
trường vào thời điểm “hoàn trả” hay theo giá đã thỏa thuận trong hợp đồng cho những lợi
ích đã nhận được cũng khơng được tính đến, điều này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể
cũng như các cơ quan giải quyết tranh chấp trong quá trình giải quyết tranh chấp.


Chính vì vậy, cần phải làm rõ khái niệm “lợi ích” ở đây là gì, theo tác giả “lợi ích”


cần phải được hiểu ở khía cạnh là các lợi ích vật chất nhận được dưới hình thức hiện vật,
nhằm tránh trường hợp “tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị hủy” do bên thụ hưởng lợi ích
tinh thần hoặc dịch vụ buộc phải trả lại bằng tiền. Chính vì vậy, cần sửa quy định này
theo hướng “nếu các bên khơng thể hồn trả bằng chính hiện vật đã nhận thì bên có nghĩa
vụ phải hồn trả bằng tiền theo giá trị hiện vật tại thời điểm hoàn trả”.


</div>

<!--links-->

×