Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hoàn thiện pháp luật việt nam về thỏa thuận xác định giá trước trong hoạt động chống chuyển giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.32 KB, 77 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

MAI HỒNG ĐIỆP

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ THỎA THUẬN XÁC ĐỊNH GIÁ TRƯỚC
TRONG HOẠT ĐỘNG CHỐNG CHUYỂN GIÁ.

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2014.


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Lời nói đầu ............................................................................................................... 1
Chương 1. Lý luận chung về hành vi chuyển giá và phương pháp thỏa thuận xác định
giá trước ...................................................................................................................... 5
1.1 Khái quát về hành vi chuyển giá .................................................................... 5
1.1.1 Khái niệm chuyển giá ................................................................................. 5
1.1.2 Đặc trưng của hành vi chuyển giá ............................................................. 11
1.1.3 Các hình thức chuyển giá ở Việt Nam ....................................................... 13

1.1.4 Tác động của hành vi chuyển giá ..................................................... 15
1.2 Pháp luật chống chuyển giá của Việt Nam ............................................... 18
1.2.1 Quá trình hình thành pháp luật chống chuyển giá ........................... 18
1.2.2 Các phương pháp chống chuyển giá ................................................ 21


1.3 Phương pháp thỏa thuận xác định giá trước ..................................... 30
1.3.1 Khái niệm phương pháp thỏa thuận xác định giá trước ............................. 30
1.3.2 Đặc điểm của APA .................................................................................... 32

1.3.3 Phân loại phương pháp thỏa thuận xác định giá trước……………..33
1.3.4 Ưu điểm và nhược điểm của việc sử dụng phương pháp thỏa thuận
xác định giá trước………………………………………………………..34
Kết luận Chương 1……………………………………………………………37


Chương 2. Xác lập và áp dụng thỏa thuận xác định giá trước trong hoạt động

chống chuyển giá tại Việt Nam ...................................................................... 38
2.1 Xác lập thỏa thuận xác định giá trước và những khó khăn ...................... 38
2.1.1 Tham vấn và chuẩn bị trước khi tiến hành nộp hồ sơ...................... 38
2.1.2 Nộp hồ sơ chính thức ....................................................................... 42
2.1.3 Kiểm tra và đánh giá hồ sơ APA ..................................................... 49
2.1.4 Đàm phán nội dung APA................................................................. 52
2.2 Những khó khăn khi xác lập và áp dụng thỏa thuận xác định gí trước ở Việt
Nam .......................................................................................................................... 53
2.2.1 Những khó khăn chung trong việc xác lập thỏa thuận xác định giá
trước ................................................................................................................ 54
2.2.2 Khó khăn từ phía doanh nghiệp ....................................................... 58
2.2.3 Khó khăn từ phía cơ quan quản lý thuế ............................................59
2.3 Những kiến nghị từ thực tiễn nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
thỏa thuận xác định giá trước ................................................................................ 61
2.3.1 Sự cần thiết phải hoàn thành các quy định của pháp luật về thỏa thuận
xác định giá trước ......................................................................................61
2.3.2 Định hướng hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận xác định giá trước 62
2.3.3 Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thỏa

thuận xác định giá trước trong hoạt động chống chuyển giá tại Việt Nam .............. 65

Kết luận Chương 2 .......................................................................................... 70
KẾT LUẬN...................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................. 71


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

MAI HỒNG ĐIỆP

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ THỎA THUẬN XÁC ĐỊNH GIÁ TRƯỚC
TRONG HOẠT ĐỘNG CHỐNG CHUYỂN GIÁ.

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số chuyên ngành : 60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vinh

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2014.


LỜI CAM ĐOAN

Người viết Luận văn này xin cam đoan rằng toàn bộ Luận văn “Hoàn thiện pháp

luật Việt Nam về thỏa thuận xác định giá trước trong hoạt động chống chuyển
giá” là kết quả của một quá trình tổng hợp và nghiên cứu nghiêm túc của riêng bản
thân tác giả. Tất cả các ý kiến của tác giả khác được đưa vào Luận văn đều được
người viết giữ nguyên ý tưởng và trích dẫn cẩn thận.
Tác giả luận văn

Mai Hồng Điệp


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
APA

Advance Pricing Agreement

Thỏa thuận xác định giá trước

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư nước ngoài

MNEs Multinational enterprises

Các công ty đa quốc gia

NTA

National Tax Agency (of Japan)


Cơ quan thuế của Nhật Bản

NTS

National Tax Service (Of Korea)

Cơ quan thuế quốc gia của Hàn Quốc

OECD Organization

for

Economic Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

Cooperation and Development
SAT

quốc tế

State Administration of Taxation (of Cơ quan thuế quốc giá Trung Quốc
China)


1
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhiều năm qua, cùng với quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế quốc tế,
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng. Tuy nhiên,
nhiều doanh nghiệp nộp thuế không tương xứng với thực tế sản xuất kinh doanh;
thậm chí có tình trạng khai lỗ nhiều năm nhưng vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất kinh

doanh. Bằng nhiều hình thức khác nhau, các doanh nghiệp đã “phù phép” cho tổng
chi phí về thuế ở mức thấp nhất để tìm tới lợi nhuận cao nhất.
Theo Cục Thuế TP.HCM, khoảng 60% tổng số doanh nghiệp tại Tp.Hồ Chí
Minh có các dấu hiệu của việc chuyển giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế. Các
doanh nghiệp này tập trung ở nhiều lĩnh vực ngành nghề như: gia công xuất khẩu
may mặc, sản xuất phần mềm, dịch vụ, kinh doanh bán buôn, bán lẻ, kinh doanh sắt
thép, khách sạn nhà hàng, văn phịng, căn hộ cho th…Tính đến ngày 15-12-2011,
Bộ Tài chính đã thanh tra được 856 doanh nghiệp báo lỗ, doanh nghiệp có dấu hiệu
chuyển giá, xử lý giảm lỗ khoảng 4.400 tỷ đồng (tăng 2,5 lần so cùng kỳ), truy thu
thuế và phạt khoảng 1.650 tỷ đồng (tăng 4 lần so cùng kỳ) 1.
Hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp ở Việt Nam không phải là mới mẻ,
thế nhưng nó vẫn ln làm “đau đầu” các nhà quản lí. Xử lí triệt để vấn nạn này là
một trong những ưu tiên hàng đầu của cơ quan quản lí, nhằm “làm sạch” môi
trường sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo mơi trường kinh doanh bình
đẳng, đúng pháp luật.
Theo nhiều chuyên gia, khó khăn lớn nhất trong chống chuyển giá là, làm
sao xác định được giá thị trường, giá giao dịch độc lập. Ông Colin Clavey, chuyên
gia của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế quốc tế - Organization for Economic
Cooperation and Development (sau đây gọi tắt là OECD) cho biết, một trong những
nguyên tắc hàng đầu là phải xác định được giá độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế,
cũng giống như giá thị trường, giá độc lập đã được quy định tại Thông tư
66/2010/BTC ngày 22/4/2010 của Bộ Tài chính về hướng dẫn thực hiện việc xác
định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết,
song xác định được thế nào là giá độc lập là không đơn giản.
1

Tài liệu Hội nghị chuyên đề về chống thất thu thuế và nợ đọng thuế, Tổng cục Thuế tổ chức, Tháng 2/2012


2

Việt Nam đã xem xét để tiến hành bổ sung cơ chế thỏa thuận xác định giá
trước - Advance pricing agreement (sau đây gọi tắt là APA) theo nguyên tắc giá thị
trường giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp được nhiều người kỳ vọng sẽ hỗ trợ rất
đắc lực cho cơng tác chống chuyển giá. Do đó, việc xây dựng chính sách và hồn
thiện những quy định của pháp luật về phương pháp thỏa thuận xác định giá trước
có tầm quan trọng đặc biệt. Đó chính là lý do để tác giả chọn đề tài: “HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỎA THUẬN XÁC ĐỊNH GIÁ
TRƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG CHỐNG CHUYỂN GIÁ” làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thỏa thuận xác định giá trước và việc áp dụng nó trong hoạt động chống
chuyển giá hiện vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam và được bàn đến chưa
nhiều trong khoa học pháp lý của nước ta. Trong thời gian qua, có một số cơng
trình, bài nghiên cứu xoay quanh đề tài này như sau :
-

Phan Thị Thành Dương (2010), Pháp luật về kiểm soát chuyển giá ở Việt

Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
-

Lê Văn Hải (2011), Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và giải pháp

chống chuyển giá ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Khoa
học Thái Nguyên.
Ở một mức độ nhất định, các tài liệu này là nguồn tài liệu quan trọng trong
việc tiếp cận vấn đề chống chuyển giá nói chung. Các tác giả trên trong q trình
thực hiện các cơng trình nghiên cứu của mình, đã đi sâu phân tích những điểm chưa
hợp lý, nguyên nhân tồn tại, bất cập của pháp luật về chống chuyển giá. Tuy nhiên,
nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu này phần lớn mới được thực hiện nên những

hạn chế, tồn tại cơ bản vẫn chưa được pháp luật hiện hành khắc phục. Thêm nữa,
hiện nay, phương pháp thỏa thuận xác định giá trước trong hoạt động chống chuyển
giá mang tính cấp thiết nhưng chưa có một cơng trình nghiên cứu riêng về vấn đề
này để qua đó, có một cái nhìn tổng thể về quy định của pháp luật, thực trạng và tác
động của nó; trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm xử lý hiệu quả hơn trên


3
thực tế. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật về những quy định áp dụng phương pháp
thỏa thuận xác định giá trước trong hoạt động chống chuyển giá là thật sự cần thiết,
đặc biệt là trong điều kiện hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Về mục đích nghiên cứu: thông qua đề tài, tác giả muốn làm sáng tỏ hệ thống
các quy định của pháp luật có liên quan đến phương pháp thỏa thuận xác định giá
trước trong hoạt động chống chuyển giá. Tiến hành khảo sát thực tiễn áp dụng các
quy định này, để có những kết luận về tính hiệu quả của nó, thơng qua đó, nhận diện
được những điểm cịn hạn chế của pháp luật, tìm ra những nguyên nhân làm cản trở
việc thực thi pháp luật về việc thỏa thuận xác định giá trước trong hoạt động chống
chuyển giá. Trên cơ sở đó, tác giả có những kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện
khung pháp lý trong việc điều chỉnh những quy định về thỏa thuận xác định giá
trước.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác–Lênin để luận giải vấn đề, kết hợp với các
phương pháp quan sát, thống kê số liệu một cách khoa học, phân tích khách quan về
tình hình thực tế, chứng minh, suy luận logíc, so sánh, đối chiếu giữa lý luận và
thực tiễn. Ngoài ra, Luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích, so sánh kinh
nghiệm mà các nước đã áp dụng thành công trong công tác chống chuyển giá những
năm qua để làm sáng tỏ các nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu.
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài

Pháp luật về thoả thuận xác định giá trước trong hoạt động chống chuyển giá
có nội hàm khá rộng và không thể được nghiên cứu trong phạm vi của một Luận
văn thạc sĩ. Chính vì vậy, trong khuôn khổ Luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên
cứu phân tích: i) những vấn đề liên quan đến chuyển giá; ii) nghiên cứu một cách
khái quát các phương pháp chống chuyển giá; iii) nghiên cứu khái niệm, việc xác
lập thỏa thuận xác định giá trước và những khó khăn trong thực tiễn khi sử dụng
cơng cụ chống chuyển giá này.


4
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm các quy định về thỏa thuận xác
định giá trước trong phạm vi Luật số 21/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012 về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29
tháng 11 năm 2006 và các văn bản khác có liên quan tại Việt Nam. Từ đó, liên hệ
với khả năng áp dụng thỏa thuận xác định giá trước trong thực tiễn chống chuyển
giá tại Việt Nam và những bất cập còn tồn tại. Qua đó, tác giả đề xuất một số giải
pháp nhằm góp phần hồn thiện hơn những lỗ hổng pháp lý, làm đòn bẩy cho sự
phát triển của pháp luật về chống chuyển giá.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn “HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ THỎA THUẬN XÁC ĐỊNH GIÁ TRƯỚC TRONG
HOẠT ĐỘNG CHỐNG CHUYỂN GIÁ” được trình bày thành hai chương như
sau:
Chương 1: Lý luận chung về hành vi chuyển giá và phương pháp thỏa thuận
xác định giá trước.
Chương 2: Xác lập thỏa thuận xác định giá trước và khả năng áp dụng trong
hoạt động chống chuyển giá tại Việt Nam.


5

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH VI CHUYỂN GIÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP
THỎA THUẬN XÁC ĐỊNH GIÁ TRƯỚC
1.1 Khái quát về hành vi chuyển giá
1.1.1 Khái niệm chuyển giá
Mối quan tâm của doanh nghiệp là lợi nhuận và đó cũng chính là mục tiêu
cuối cùng của họ. Vì vậy, doanh nghiệp ln tìm mọi cách để tối đa hóa lợi nhuận.
Để có lợi nhuận tối đa, doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp khác nhau và bên
cạnh những biện pháp chính đáng có cả những biện pháp khơng chính đáng. Một
trong những biện pháp khơng chính đáng đó là hành vi trốn thuế thu nhập và một
trong những cách thức trốn thuế tinh vi là hành vi chuyển giá.
Trước đây, khi các doanh nghiệp còn hoạt động một cách đơn lẻ, chưa có sự
liên kết thì hiện tượng chuyển giá chưa được biết đến bởi lẽ ai cũng chỉ quan tâm
đến lợi ích riêng của chính mình. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại,
cùng với nhu cầu gia tăng lợi nhuận, doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng thị trường,
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, quy mơ hoạt động thương mại, giữa các cơng
ty dần hình thành các liên kết. Cùng với đó, hoạt động chuyển giá được hình thành
với tư cách là biện pháp để gia tăng lợi nhuận.
Ban đầu, hành vi chuyển giá mới chỉ được một số ít người như các chuyên
gia về quản lý thuế của những tập đoàn đa quốc gia, những nhà tư vấn thuế dày dạn
kinh nghiệm quan tâm thì hiện nay, vấn đề này giành được sự quan tâm của nhiều
người thuộc các lĩnh vực khác nhau bởi lẽ tất cả đều nhận thấy tầm quan trọng của
việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của các doanh nghiệp và đặc biệt là doanh nghiệp
liên kết khi giữa họ xuất hiện giao dịch. Không chỉ riêng các quốc gia giàu có mà
hầu hết tất cả các quốc gia ngày càng ý thức sâu sắc về tác động tiêu cực của
chuyển giá cũng như tầm quan trọng của hoạt động chống chuyển giá với mục đích
nhằm đảm bảo việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của quốc gia mình và cịn có thể cung
cấp cho các nhà đầu tư nước ngồi một môi trường kinh doanh theo những chuẩn



6
mực quốc tế, giảm thiểu đến mức tối đa nguy cơ đánh thuế trùng. Điều này càng có
tầm quan trọng đặc biệt đối với các quốc gia kém, chậm và đang phát triển bởi: i) họ
là những quốc gia tiếp nhận đầu tư và; ii) ở đó trình độ quản trị quốc gia cịn có
nhiều khiếm khuyết.
Chuyển giá là vấn đề trung tâm của hệ thống pháp luật thuế quốc tế bởi vì hệ
thống này dựa trên sự phân biệt của nguyên tắc cư trú. Cách dễ hiểu để tránh nộp
thuế nơi cư trú là chuyển thu nhập của chủ thể từ nơi cư trú sang nơi không cư trú
và cách dễ nhất để thực hiện việc này là chuyển giá 2. Vậy chuyển giá được hiểu
như thế nào.
Chuyển giá được hiểu là hành vi được thực hiện bởi các chủ thể kinh doanh
nhằm thay đổi giá của hàng hóa, dịch vụ so với giá thị trường trong giao dịch với
các bên liên kết 3. Giá thị trường là giá của hàng hóa, dịch vụ được thỏa thuận một
cách khách quan trên thị trường giữa các chủ thể khơng có sự liên kết trên cơ sở quy
luật cung cầu.
Ngoài ra, chuyển giá cũng được hiểu là một hành vi nhằm làm giảm đi số
thuế phải nộp thông qua việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ,
quỹ và các quyền tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đồn qua
biên giới mà khơng theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty
đa quốc gia-Multinational enterprises (sau đây gọi tắt là MNEs) trên tồn cầu.
Chuyển giá chỉ có thể xảy ra trong các giao dịch giữa các chủ thể liên kết nhằm tối
thiểu hóa nghĩa vụ tài chính trong tồn cục và tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu 4.
Có thể nói, khi thực hiện hành vi chuyển giá các chủ thể trong liên kết kinh
tế sẽ định giá trao đổi đối với hàng hóa, dịch vụ (khơng phải là thỏa thuận) trong nội
bộ nhằm mục đích gắn kết lợi nhuận và nhằm tối đa hóa tổng lợi nhuận của tất cả
các thành viên trong liên kết. Giá giao dịch nội bộ do các chủ thể trong liên kết ấn
2

Reuven S. Avi-Yonah, International Tax as International Law, 2007, tr.102.


3

Mayanh K. Agrawal, Transfer pricing: A beginner’s perspective, Indian Institution of management Calcuta,

2005, tr.54.
4

Phan Thị Thành Dương, Pháp luật về kiểm soát chuyển giá ở Việt Nam, Luận văn Tiến sĩ Luật học, Trường

Đại học Luật TP. HCM, 2010, tr.22.


7
định có thể cao hơn và cũng có thể thấp hơn giá thị trường. Điều này hoàn toàn phụ
thuộc vào từng hoàn cảnh khác nhau và phụ thuộc vào từng giao dịch, từng chính
sách thuế của từng quốc gia khác nhau. Ví dụ, để giảm số thuế nhập khẩu phải nộp,
các chủ thể thường định giá giao dịch nội bộ thấp, hoặc ở Việt Nam, các liên doanh
sẽ định giá giao dịch nội bộ cao đối với các linh kiện nhập khẩu để giảm số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp (vì thuế suất đối với linh kiện nhập khẩu thấp hơn
nhiều so với thuế suất nhập khẩu hàng hóa).
Giá giao dịch nội bộ cũng được gọi là giá chuyển giao. Giá chuyển giao là
giá của các loại hàng hóa hữu hình, vơ hình, cung cấp dịch vụ hoặc tài chính, của
một cơng ty chuyển giao cho một cơng ty liên kết.5
Hai khái niệm định giá chuyển giao (định giá giao dịch nội bộ) và chuyển giá
có thể được hiểu là đồng nhất, tuy nhiên trong một số trường hợp chúng khơng
đồng nhất với nhau, dù xét về một khía cạnh nào đó chúng tương đồng về nội dung.
Hai khái niệm này có đồng nhất hay khơng phụ thuộc vào động cơ của các chủ thể
khi thực hiện việc định giá chuyển giao. “Định giá chuyển giao” là một khái niệm
dùng để chỉ việc thực hiện một hành vi với các khía cạnh tích cực và tiêu cực của
một chính sách mà các MNEs sử dụng đối với nước tiếp nhận đầu tư và quốc gia

của công ty mẹ. “Chuyển giá” chính là mặt biểu hiện tiêu cực của định giá chuyển
giao. Nếu giá chuyển giao không được quyết định phù hợp với giá thị trường, nghĩa
vụ thuế của các bên liên kết và số thu thuế của các quốc gia liên quan sẽ bị bóp
méo-đây được coi là hành vi chuyển giá. Ngoài động cơ giảm số thuế phải nộp, các
chủ thể cũng có thể có những động cơ khác khi định giá chuyển giao như để tránh
những mâu thuẫn của pháp luật liên quan đến định giá hải quan, chống bán phá giá,
kiểm sốt trao đổi hàng hóa và định giá của nhà nước hoặc do nguyên nhân từ
những yêu cầu về lưu chuyển tiền tệ (ngân lưu) trong nội bộ MNEs, thậm chí là
những áp lực lên các công ty mẹ phải tạo ra lợi nhuận cao của các cổ đơng tại chính
quốc.
5

Theo Hướng dẫn của OECD (OECD (1995), tr.3 thì “giá chuyển giao là giá mà các doanh nghiệp chuyển

nhượng tài sản hữu hình, vơ hình, cung cấp dịch vụ hoặc tài chính cho các bên liên kết”.
Theo từ điển Black’s law dictionary thì “giá chuyển giao là giá trao đổi của các loại hàng hóa hoặc dịch vụ
giữa các công ty liên kết”.


8
Chuyển giá không những chỉ được thực hiện bởi các MNEs, mà cịn cũng có
thể được thực hiện bởi các cơng ty liên kết nội địa. Tuy nhiên, vì chuyển giá là một
vấn đề gây ra nhiều tranh cãi bởi các MNEs đã đặt ra nhiều vấn đề khó khăn cho
các cơ quan thuế, điều thường không xảy ra, rất ít xảy ra hoặc không gây ra ảnh
hưởng lớn đối với các công ty nội địa nên chủ yếu pháp luật các quốc gia chỉ điều
chỉnh chuyển giá giữa các MNEs. Những vấn đề này phát sinh từ nguyên nhân
MNEs là những nhóm kinh doanh thống nhất, thường bao gồm nhiều công ty tại
những quốc gia khác nhau nhưng cùng dưới sự quản lý chung, với một nguồn lực
hỗ trợ dồi dào và những mục đích chung của tập đồn. Chính vì lẽ đó nên pháp luật
của các quốc gia thường giành sự chú ý đến việc giám sát chuyển giá của các

MNEs.
Hành vi chuyển giá sẽ bị xem là vi phạm pháp luật chuyển giá nếu các chủ
thể được xem là có quan hệ liên kết thực hiện hành vi chuyển giá trong phạm vi
điều chỉnh của pháp luật quốc gia; điều đó có nghĩa khơng phải hành vi chuyển giá
nào cũng bị xem là trái pháp luật về chuyển giá. Nếu hành vi được thực hiện không
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật chuyển giá quốc gia về chủ thể và hành vi
thực hiện thì hành vi đó có thể vi phạm theo các quy định khác của pháp luật, ví dụ
gian lận thuế.
Từ những phân tích, nhận định trên, có thể nói rằng, chuyển giá là một hành
vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch
vụ, và các tài sản khác trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi này được thực
hiện nhằm tác động đến giá cả (của hàng hóa hữu hình, vơ hình và các dịch vụ).
Các chủ thể trong giao dịch liên kết có thể thực hiện hành vi định giá chuyển
giao vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do kinh doanh. Các doanh nghiệp liên kết về
mặt pháp lý là các chủ thể độc lập, vì vậy họ hồn tồn có quyền quyết định giá cả
hàng hóa trong từng giao dịch cụ thể. Do đó họ hồn tồn có quyền mua hay bán
hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Chính vì vậy, để xác định có hay khơng
hành vi chuyển giá cần phải xác định được giá thị trường của loại hàng hóa, dịch vụ
đó trong điều kiện tương tự để so sánh với giá chuyển giao.


9
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa các doanh
nghiệp liên kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể
kinh doanh có cùng lợi ích khơng làm thay đổi lợi ích tồn cục. Lợi ích của một số
doanh nghiệp thành viên có thể bị giảm nhưng tổng lợi ích của tất cả lại tăng đáng
kể. Các MNEs mở rộng khi nó tốn ít chi phí để thực hiện các giao dịch nội bộ hơn
việc thực hiện các giao dịch ngoài thị trường tự do, sự phát triển của MNEs như một
kết quả của việc nội bộ hóa quốc tế, đặt lợi ích tổng thể của tập đồn lên trên lợi ích

của từng thành viên riêng lẻ.
Thứ ba, việc xác định giá giao dịch giữa các thành viên liên kết có thể khơng
thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ.
Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi
bị điều tiết thấp hơn và ngược lại (tất nhiên khi tổng nghĩa vụ thuế thay đổi theo
hướng thấp hơn thì tổng lợi ích của liên kết sẽ tăng lên). Tồn tại sự khác nhau về
chính sách thuế của các quốc gia là điều khơng tránh khỏi do chính sách kinh tế-xã
hội không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế. Chênh
lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hồn tồn có thể xảy ra.
Thứ tư, việc định giá giao dịch cao cho phép các nhà đầu tư nước ngồi tăng
mức vốn góp so với giá trị phần vốn góp thực. Điều này đã và đang xảy đã ở Việt
Nam trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư khai tăng giá
trị của tài sản góp vốn, hành vi này sẽ làm tăng mức khấu hao tài sản cố định của dự
án đầu tư và ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của nhà nước.
Vì vậy, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa
các bên có mối quan hệ liên kết. Để làm điều này, họ phải thiết lập một chính sách
về giá mà ở đó giá chuyển giao có thể được định ở mức cao hay thấp tùy vào lợi ích
đạt được từ những giao dịch cụ thể trong hoạt động kinh doanh. Cần phân biệt điều
này với trường hợp khai giá giao dịch thấp (hay cao) đối với cơ quan quản lý để
trốn thuế nhưng sau đó vẫn thực hiện thanh toán đầy đủ theo giá thỏa thuận, trong
khi với chuyển giá, sẽ khơng phải thực hiện việc thanh tốn trên. Đồng thời cũng
cần nhìn nhận rõ sự khác biệt giữa giá chuyển giao nội địa và giá chuyển giao quốc


10
tế: (i) giá chuyển giao quốc tế là giá mà một MNEs sử dụng cho các hàng hóa và
dịch vụ chuyển giao giữa các công ty ở các quốc gia khác nhau, (ii) giá chuyển giao
nội địa là giá được sử dụng cho các hàng hóa và dịch vụ chuyển giao giữa các công
ty liên kết được thành lập theo pháp luật của cùng một quốc gia (hoặc theo pháp
luật nước đó được xem là mang “quốc tịch” của nước đó, hoặc tùy theo pháp luật

quốc gia có thể bao gồm cả các cơ sở thường trú). Các đối tượng này tìm hiểu, nắm
bắt và tính tốn, lợi dụng sự khác biệt trong quy định về thuế giữa các quốc gia, các
ưu đãi miễn, giảm thuế để hưởng lợi bất chính, tạo nên sự bất bình đẳng về lợi ích
do xác định khơng chính xác nghĩa vụ thuế, tạo ra sự cách biệt trong ưu thế cạnh
tranh. Chuyển giá chỉ có thể được thực hiện thơng qua giao dịch của các chủ thể có
quan hệ liên kết, trong đó, biểu hiện cụ thể là giao kết về giá. Nhưng giao kết về giá
chưa đủ để kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá, bởi lẽ nếu giao
kết đó nằm trong phạm vi loại trừ của luật thì nó vẫn được xem là hợp pháp.
Giá chuyển giao là cơ sở để xem xét hành vi chuyển giá. Chúng ta cũng chỉ
có thể đánh giá một giao dịch có chuyển giá hay khơng khi so sánh giá chuyển giao
với giá thị trường 6. Vì mục đích thuế, sự hiện hữu của những quan hệ kinh tế quan
trọng giữa các bên liên kết trong cùng một giao dịch rõ ràng là khơng thích đáng,
những ngoại lực tác động của thị trường có thể khơng quyết định trực tiếp những
mối quan hệ tài chính và thương mại như thường xảy ra giữa các giao dịch độc lập
và ngoài ra giao dịch liên kết có thể được thiết kế để giảm, tránh thuế bằng cách
chuyển hay bóp méo thu nhập, những khoản khấu trừ, tín dụng hoặc những khoản
khấu hao. Mục đích của những quy định về chuyển giá là để phản ánh kết quả giá
thị trường mà đối tượng nộp thuế trong quan hệ liên kết phải chịu, đặt trong mối
quan hệ về thuế tương tự như các đối tượng nộp thuế trong quan hệ độc lập, để duy
trì một sự công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế.
6

Sự tồn tại của các giao dịch nội bộ trong một công ty đa quốc gia không phải lúc nào cũng gắn liền với hành

vi chuyển giá, và trên thực tế các MNEs thực hiện chính sách chuyển giá khơng chỉ nhằm mục đích về thuế.
Bởi lẽ, trong nhiều MNEs, đặc biệt là những MNEs có độ thống nhất thấp, các cơng ty liên kết đàm phán với
nhau như các bên trong giao dịch độc lập vì giữa chúng có tồn tại những lợi ích riêng. Giá chuyển giao trong
những trường hợp như vậy là có thể chấp nhận được từ quan điểm kinh tế thương mại.



11
1.1.2 Đặc trưng của hành vi chuyển giá
Có thể nói rằng, chuyển giá được coi là một khái niệm pháp lý. Vì là khái
niệm pháp lý nên nó có những đặc trưng riêng để phân biệt với các khái niệm khác.
Có tác giả cho rằng, có 6 đặc trưng của chuyển giá.7 Về nguyên tắc, tác giả chia sẻ
với cách nhìn này, tuy nhiên nếu xem xét kỹ từng nguyên tắc thì thấy nội dung của
một số nguyên tắc giống nhau. Theo quan điểm của tác giả, hành vi chuyển giá có
các đặc trưng cơ bản sau đây:
Một, hành vi chuyển giá chỉ có thể được thực hiện thơng qua các giao dịch.
Khơng có giao dịch thì khơng thể có hành vi chuyển giá. Đây có thể được coi là
điều kiện cần để xác định có hành vi chuyển giá hay khơng. Rõ ràng, khi khơng tồn
tại giao dịch thì không thể xác định được giá giao dịch nội bộ. Và nếu như vậy sẽ
khơng có cơ sở để có thể so sánh với giá thị trường.
Giao dịch này có thể được thể hiện dưới các hình thức khác nhau như: mua
bán, trao đổi, thuê, thuê mua, góp vốn… Đối tượng của giao dịch loại này có thể là
tài sản hữu hình, tài sản vơ hình như các giao dịch thơng thường khác.
Giao dịch, qua đó hành vi chuyển giá được thực hiện, về mặt hình thức cũng
giống với các giao dịch thơng thường khác. Có nghĩa là được xác lập giữa các chủ
thể có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự. Giao dịch được xác lập trên cơ
sở tự do, tự nguyện thỏa thuận, không bị ép buộc, lừa dối hay đe dọa. Tuy nhiên, về
bản chất, giao dịch này khác với các giao dịch thông thường khác. Khi một giao
dịch thông thường được xác lập giữa 2 chủ thể độc lập thì mỗi chủ thể có động cơ
riêng và theo đuổi mục đích riêng của mình. Cịn trong các giao dịch mà qua đó,
hành vi chuyển giá được thực hiện thì các chủ thể có cùng động cơ và cùng mục
đích: giảm thiểu nghĩa vụ thuế và tối đa hóa lợi ích tồn cục.
Giao dịch, thơng qua đó hành vi chuyển giá được thực hiện không phải là
giao dịch giả tạo theo quy định của pháp luật dân sự, bởi lẽ giao dịch này được thực
hiện khơng phải để che dấu giao dịch khác. Tính khơng chính đáng của giao dịch

7


Phan Thị Thành Dương, tlđd, tr.30.


12
này được thể hiện qua mục đích khơng chính đáng của các chủ thể thực hiện giao
kết-giảm đáng kể nghĩa vụ thuế phải nộp.
Hai, giao dịch phải được thực hiện giữa các cơng ty liên kết. Như đã phân
tích ở trên, mục đích của chuyển giá là nhằm tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu.
Chính vì vậy cũng giống như trong các giao dịch thông thường khác, chủ thể của
giao dịch mà qua đó, hành vi chuyển giá được thực hiện, là các doanh nghiệp. Bởi
ngoài doanh nghiệp, giao dịch được xác lập bởi các chủ thể khác khơng nhằm mục
đích sinh lợi.
Như chúng ta đã biết, bản chất của chuyển giá là nhằm làm giảm nghĩa vụ
thuế của một trong các chủ thể của giao dịch và nếu như vậy, nghĩa vụ thuế của chủ
thể còn lại sẽ cao hơn nghĩa vụ thuế thực tế của họ trong trường hợp không chuyển
giá. Tuy nhiên, tổng nghĩa vụ thuế của các chủ thể là thấp hơn tổng nghĩa vụ thuế
khi khơng có hành vi chuyển giá. Nếu chủ thể của giao dịch là các chủ thể độc lập,
không có mối liên kết thì khơng có ai chấp nhận sự bất lợi về phía mình, tức là chấp
nhận phải chịu nghĩa vụ thuế cao hơn mức bình thường.
Trong các giao dịch giữa các chủ thể độc lập thông thường khác, các bên khi
tham gia giao dịch có các động cơ và theo đuổi các mục đích khác nhau và mỗi chủ
thể đều hành động vì lợi ích kinh tế riêng của mình. Ngược lại, chủ thể của các giao
dịch liên kết có cùng động cơ và chung mục đích-giảm nghĩa vụ thuế và tăng lợi
nhuận toàn cục, bởi lẽ họ có chung một chủ sở hữu.
Có quan điểm cho rằng, ngồi hai đặc trưng nói trên, chuyển giá cịn có các
đặc trưng khác.
Chuyển giá khơng làm tổng giá trị hình thành trong xã hội thay đổi mà chỉ là
sự chuyển dịch lợi ích từ chủ thể này sang chủ thể khác trong phạm vi nội bộ. Như
vậy nếu xét về quyền sở hữu lợi ích thì tổng lợi ích được hình thành vẫn thuộc sở

hữu của cơng ty mẹ/ chủ sở hữu, nhưng với từng cá thể riêng lẻ hợp thành thì phần
lợi ích do họ được quản lý và nắm giữ có thể thay đổi. 8

8

Phan Thị Thành Dương, tlđd, tr.29-32.


13
Tác giả cho rằng, quan điểm trên chưa làm rõ “tổng lợi ích hình thành trong
xã hội” được hiểu như thế nào? Là tổng lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của Nhà
nước hay chỉ đơn thuần là tổng lợi ích của các doanh nghiệp tham gia giao dịch
chuyển giá? Nếu theo cách hiểu thứ nhất thì tác giả hồn tồn đồng ý, cịn nếu theo
cách hiểu thứ hai thì tác giả cho rằng khơng chính xác. Bởi vì chuyển giá sẽ làm
tăng lợi ích của các doanh nghiệp liên kết và đương nhiên làm giảm tương ứng lợi
ích của Nhà nước. Chính vì lý do trên, tác giả kết luận đây khó có thể là đặc trưng
của chuyển giá, bởi vì mọi hành vi trốn thuế thơng thường đều gây hậu quả tương
tự.
1.1.3 Các hình thức chuyển giá ở Việt Nam
Đối với các MNEs, hoạt động định giá chuyển giao nội bộ là một công cụ
hữu dụng trong quá trình duy trì và phát triển mạng lưới kinh doanh toàn cầu.
Trong những năm gần đây, hoạt động chuyển giá ở Việt Nam đã diễn ra hết
sức phức tạp với nhiều hình thức khác nhau rất khó phát hiện bởi chúng được thực
hiện một cách tinh vi. Xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp, khơng chỉ các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà cả trong các doanh nghiệp trong nước, thậm
chí cả doanh nghiệp nhà nước cũng tham gia vào hoạt động chuyển giá. Thông
thường, hành vi chuyển giá được thực hiện qua các hình thức sau:
Đầu tiên, định giá các yếu tố đầu vào cao hơn giá thị trường. Điều này
thường xảy ra với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (sau đây gọi tắt là
doanh nghiệp FDI) mà trong đó, tài sản góp vốn (đối với doanh nghiệp liên doanh)

hoặc tài sản kê khai (đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) cao hơn giá thị
trường. Hình thức này được sử dụng vì pháp luật Việt Nam hiện hành quy định thuế
suất nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu với tư cách là linh kiện, thiết bị thì thấp;
hoặc thậm chí, cịn miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu là tài sản góp
vốn.
Với vốn góp mà chủ yếu là máy móc, thiết bị, cơng nghệ kỹ thuật, các dạng
tài sản trí tuệ và bí mật thương mại được sở hữu bởi cơng ty mẹ thì việc thực hiện
hành vi chuyển giá cịn dễ dàng hơn. Mục đích là nâng cao giá trị thực sự của khoản


14
vốn góp hoặc vốn đầu tư hoặc linh kiện nhập khẩu. Chuyển giá theo hình thức này
đặc biệt phổ biến ở Việt Nam hiện nay bởi lẽ chúng ta chưa xây dựng một hệ thống
pháp luật và cơ quan giám định để kiểm tra tính chính xác của những khoản vốn
góp. Hơn nữa, trong q trình hoạt động, bằng những cách thức chuyển giá chuyên
nghiệp, những nhà quản lý các cơng ty này có thể thực hiện việc hạch tốn các chi
phí ngun vật liệu đầu vào từ các cơng ty liên kết vượt quá các tiêu chuẩn khách
quan, hoặc làm gia tăng các chi phí ban đầu để chiếm lĩnh thị trường như quảng cáo,
tiếp thị, khuyến mãi, đầu tư kênh phân phối, làm gia tăng khoản lỗ mà công ty phải
chịu.
Kê khai giá linh kiện nhập khẩu để lắp ráp thành phẩm cao hơn giá thị
trường cũng là một loại hình kê khai giá trị đầu vào. Hành vi chuyển giá này thường
được các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi thực hiện thơng qua các giao dịch
với các cơng ty mẹ ở nước ngồi như việc mua thiết bị, máy móc, vật tư với giá cao
hơn bình thường hoặc việc đẩy giá các tài sản sở hữu trí tuệ dưới dạng nhãn hiệu
thương mại, nhượng quyền giấy phép sản xuất, phí bản quyền, chi trả lãi vay vốn
trong quá trình sản xuất kinh doanh lên cao hơn so với chi phí thực tế…. Hậu quả
của các hình thức này là tránh được thuế thu nhập doanh nghiệp bởi mức khấu hao
tài sản quá lớn hoặc phải chuyển tiền mua sản phẩm ra nước ngoài cho các cơng ty
mẹ. Ngồi ra, trong nhiều trường hợp, việc nâng khống giá trị tài sản làm tăng vốn

góp khơng chỉ đem lại cho nhà đầu tư nước ngoài quyền kiểm soát và điều hành
doanh nghiệp, biến doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước
ngồi mà cịn thu lợi ích thông qua khấu hao tài sản, phân chia lợi nhuận.
Thứ hai, định giá các yếu tố đầu ra thấp hơn giá thị trường. Đây là hiện
tượng một số công ty khi xuất khẩu hoặc chuyển giao hàng hoá cho một bên liên kết
với mức giá thấp hơn so với thị trường. Điều này được thực hiện tại các quốc gia có
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp nhằm làm giảm đi thuế phải nộp trên
phạm vi toàn tập đoàn.


15
Trong thời gian vừa qua, ở hoạt động này thường được các doanh nghiệp
FDI của Việt Nam thực hiện trên quy mô rộng thông qua các hợp đồng xuất khẩu
cho công ty mẹ hoặc các đối tác liên kết của cơng ty mẹ ở nước ngồi. Các doanh
nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp khu vực FDI đã sử dụng chiêu thức: định giá
cao khi mua hàng hóa của các cơng ty ở Việt Nam và sau đó định giá xuất nhập
khẩu thấp. Như vậy, có thể nói, việc định giá đầu ra thấp cộng với định giá đầu vào
cao được thực hiện làm giảm đáng kể thuế thu nhập của các doanh nghiệp.
Thứ ba, chuyển giá thông qua cơ chế giá cung cấp dịch vụ: Hành vi này
thường được các tập đồn áp dụng thơng qua hoạt động cung cấp dịch vụ nội bộ của
các đơn vị trong một tập đoàn. Do dịch vụ thường đa dạng và mang tính đặc thù nên
rất khó định giá như dịch vụ kế tốn, tài chính, tư vấn… nên các tập đồn thường
tính giá ở mức rất cao để chuyển lợi nhuận từ doanh nghiệp thành viên tại Việt Nam
sang bên liên kết nước ngoài nhằm giảm nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp của
doanh nghiệp thành viên tại Việt Nam, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
1.1.4 Tác động của hành vi chuyển giá
Như đã phân tích ở trên, chuyển giá là hành vi khơng chính đáng của các
cơng ty liên kết. Hành vi một khi được coi là không chính đáng thì chỉ có thể gây ra
những tác động tiêu cực cho xã hội, cho Nhà nước, cho người thứ ba. Việc các công
ty liên kết định giá chuyển giao để thực hiện hành vi chuyển giá không chỉ ảnh

hưởng đến quyền lợi quốc gia mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều chủ thể khác
như: doanh nghiệp khác, người lao động; mơi trường kinh doanh... Chính vì vậy,
cần phải có sự nhận thức đầy đủ những tác động của hoạt động chuyển giá trong
kinh doanh quốc tế để có biện pháp phịng và chống phù hợp. Điều này vừa tạo
động lực khuyến khích đầu tư nước ngồi, vừa giảm thiểu thất thoát thuế do giá
chuyển giao gây ra. Đây là một yêu cầu rất quan trọng để có những quy định phù
hợp về hoạt động chống chuyển giá ở mỗi quốc gia.
Qua tìm hiểu có thể nhận thấy rằng, hành vi chuyển giá có thể có những tác
động và có thể gây ra những hậu quả sau đây:


16
Đầu tiên là làm giảm số thu về thuế, phúc lợi kinh tế và xâm phạm quyền lực
của nhà nước bởi lẽ: i) Sự gia tăng của giao dịch nội bộ MNEs khơng chỉ làm gia
tăng ngoại thương mà cịn làm thay đổi hình thái ngoại thương và việc phân phối
thu nhập; ii) Vốn nước ngồi có thể chuyển ra khỏi đất nước khơng nhỏ, cơng ty mẹ
sẽ có lợi trong khi các công ty con bị phương hại trong quá trình giao dịch nội bộ;
iii) Tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đến việc phân phối thu nhập, lợi nhuận được chuyển
từ các nước nghèo, đang phát triển sang các trụ sở chính tại các quốc gia đã phát
triển.
Tiếp theo, nó tác động tới lương của người lao động như đã đề cập ở phần
nguyên nhân của chuyển giá. Thu nhập của người lao động ngồi lương cịn có các
khoản thu nhập bổ sung khác và loại thu nhập này tùy thuộc vào lợi nhuận của
doanh nghiệp. Và rõ ràng, hành vi chuyển giá tất yếu sẽ làm giảm khoản lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Thêm nữa, lợi ích của các đối tác Việt Nam bị xâm hại. Điều này được lý
giải bởi: i) Đối tác nước ngồi góp vốn ban đầu bằng các hình thức: máy móc, dây
chuyền sản xuất, trợ giúp kỹ thuật, chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp, tăng khấu hao tài sản cố định (mà một số ưu đãi
còn cho phép tính khấu hao nhanh)… có thể gia tăng giá trị phần vốn góp liên

doanh bằng cách định giá cao các hình thức này; ii) MNEs tăng giá nguyên vật liệu,
nguyên liệu đầu vào khác trong khi giá bán của các liên doanh là thấp; iii) Lương và
chi phí trả cho quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi, để chinh phục thị trường rất cao,
trong khi doanh thu còn hạn chế; iv) Khi lợi nhuận của liên doanh bị chuyển đi do
hành vi chuyển giá, phía đối tác trong nước thường phải gánh chịu phần mất đi này
và bị lỗ. Thực trạng này đã xảy ra đối với phía Việt Nam trong thời gian dài vừa
qua. Và khi phía đối tác trong nước không thể chịu đựng được khoản lỗ này thì điều
hiển nhiên là bên nước ngồi sẽ mua lại phần vốn góp hoặc cổ phần của bên trong
nước. Tỷ lệ mua lại các đối tác trong nước được xem như một cách thức để thâm
nhập thị trường nội địa của bên nước ngoài. Sau khi thành lập liên doanh để tận
dụng sự hiểu biết pháp luật, thị trường nội địa, thiết lập quan hệ với chính quyền


17
cũng như thừa hưởng thị phần sẵn có của bên liên doanh trong nước. Trải qua giai
đoạn kinh doanh ban đầu để tìm hiểu thị trường, các doanh nghiệp nước ngồi khi
thấy rằng đã tích lũy đủ kinh nghiệm, có thể tự mình kinh doanh thì áp dụng chiến
lược “vắt chanh bỏ vỏ”, loại bỏ sự tồn tại của bên trong nước, chuyển sang hình
thức 100% vốn nước ngồi.
Ngồi ra, hành vi chuyển giá không những gây thiệt hại cho doanh nghiệp
đối tác phía Việt Nam mà cịn xâm phạm quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp
khác trong nước. Rõ ràng, các doanh nghiệp của Việt Nam buộc phải chịu tình trạng
cạnh tranh khơng lành mạnh về giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Các doanh nghiệp có mối quan hệ thương mại với các doanh nghiệp trong cùng
MNEs cũng sẽ phải chịu tổn thất đáng kể. Điều này được thể hiện qua việc, vì các
MNEs sở hữu các sản phẩm riêng biệt nên chúng sẽ kiểm sốt trực tiếp giao dịch
nội bộ giữa các cơng ty con và kiểm soát đáng kể những giao dịch ngoại thương của
các công ty trong nước đối với phần thị trường mà MNEs nắm giữ.
Cuối cùng, chuyển giá không những trực tiếp gây thiệt hại cho nhiều chủ thể
khác nhau trong ngắn hạn mà hành vi này cũng có thể gây thiệt hại cả trong dài hạn.

Thật vậy, chuyển giá sẽ làm biến dạng hình thái đầu tư trong nền kinh tế của nước
ta, làm thay đổi hình thái và cấu trúc ngoại thương và ảnh hưởng đến phân phối lợi
nhuận và lợi ích thương mại tại các quốc gia. Hành vi chuyển giá sẽ làm cho khả
năng sinh lợi của các doanh nghiệp thấp và tất nhiên sẽ không khuyến khích đầu tư
trong nước ở những ngành cơng nghiệp bị khống chế bởi các MNEs và ngăn cản
những nhà đầu tư tiềm năng trong và ngoài nước tiếp cận thị trường. Thực tế, trên
thị trường, dù có nhiều cơng ty bị lỗ trong một số ngành công nghiệp nhất định
nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục đầu tư vào các ngành này. Điều đó
cho thấy các MNEs có thể đã thực hiện chuyển giá. Hơn nữa, sẽ là bất hợp lý nếu
các MNEs có những lợi thế mà các công ty trong nước và các công ty nhỏ khác
khơng có về quy mơ, chi phí cho nghiên cứu và phát triển từ công ty mẹ cao, hiệu
quả trong hoạt động marketing, nguồn tài chính dồi dào, khả năng quản lý hiện
đại… mà tỷ suất lợi nhuận thấp là mâu thuẫn với sức mạnh của nó trên thị trường.


18
Như vậy, hành vi chuyển giá sẽ làm giảm tính cạnh tranh trong nước, tăng giá sản
phẩm, tạo nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các hoạt động của MNEs. Hoạt
động thương mại quốc tế sẽ không phản ánh đúng chính sách tự do thương mại trên
thị trường thế giới khi các MNEs tồn quyền kiểm sốt thương mại ở nhiều quốc
gia.
1.2 Pháp luật chống chuyển giá của Việt Nam
Như đã được đề cập và phân tích ở trên, ai cũng có thể nhận thấy rằng
chuyển giá là hành vi khơng chính đáng và cần thiết phải có cơ chế kiểm soát, loại
bỏ chúng. Thực tiễn cho thấy rằng, cách thức chống chuyển giá hiệu quả nhất chính
là pháp luật.
1.2.1 Quá trình hình thành pháp luật chống chuyển giá
Để kiểm sốt và đối phó với các hành vi chuyển giá, gần như tất cả các quốc
gia trên thế giới đã xây dựng và ban hành pháp luật quy định các quy tắc, cách thức,
phương pháp cho phép xác định hành vi chuyển giá là gì. Thật vậy, vấn đề này đã

được Mỹ quan tâm thực hiện từ năm 1968, Nhật Bản thực hiện từ năm 1986, Trung
Quốc từ năm 1998. Hiện nay, nhiều nước bao gồm Canada, Mexico, Anh, Pháp,
Tây Ban Nha, Đức, Australia, Mỹ, Nhật Bản…9 đã thông qua pháp luật về chống
chuyển giá mới, hoặc sửa đổi, bổ sung và quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn những văn
bản pháp luật về chống chuyển giá hiện hành. Cơ quan thuế của các nước đều nhận
thấy rằng, có những trở ngại trong việc khảo sát tường tận giá cả nội bộ các cơng ty
vì những mục đích che đậy hành động chuyển giá; do vậy, các quy định về chuyển
giá phải thực sự rõ ràng, hiệu quả mới có thể ngăn chặn, phát hiện và xử lý những vi
phạm về chuyển giá.
Ở Việt Nam, vấn đề chuyển giá đã được các nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh
vực tài chính, pháp luật… xác định là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức bởi
lẽ ngày càng xuất hiện nhiều hành vi có dấu hiệu chuyển giá trong các giao dịch
giữa các công ty liên kết. Văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam được ban hành
9

Theo khảo sát của Ernst&Young, có khoảng 38 quốc gia có quy định hiệu quả về chuyển giá.


19
có riêng một phần đề cập đến chuyển giá là Thông tư 74 TC/TCT ngày 20 tháng 10
năm 1997 hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, có thể nhận
thấy rằng, vấn đề chuyển giá thực tế cũng đã được đề cập tại Công văn 1664 ngày
11/10/1994 hướng dẫn thực hiện Hiệp định tránh đánh thuế trùng cũng đã đề cập
đến khái niệm “Những xí nghiệp liên kết” trong đó quy định Việt Nam và Nước ký
kết Hiệp định tránh đánh thuế trùng có quyền áp dụng những quy định của mình về
việc chống chuyển giá giữa các xí nghiệp liên kết, giữa các xí nghiệp có quan hệ
kinh tế với nhau mà khác với quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp độc lập 10. Sau đó
là Thơng tư 89/1999/TT-BTC ngày 16 tháng 7 năm 1999 (thay thế Thông tư
74/TC/TCT ngày 20 tháng 10 năm 1997), Thông tư 13/2001/TT-BTC ngày 08
tháng 3 năm 2001 (thay thế Thông tư 89/1999/TT-BTC ngày 16 tháng 7 năm 1999)

đề cập một cách ngắn gọn những quy định cơ bản về chuyển giá. Có thể nhận thấy,
cả ba Thơng tư nói trên đều khá giống nhau và cịn ở mức độ sơ sài, thiếu cụ thể
trong nội dung của quy định về các biện pháp chống chuyển giá. Được quy định sơ
sài như vậy nhưng lại thiếu các hướng dẫn chi tiết nên đã gây ra nhiều thắc mắc
xung quanh nội dung của các văn bản này. Chính bởi những quy định còn sơ sài,
chưa sát với thực tế càng làm cho vấn đề chuyển giá và xác định hành vi chuyển giá
trở nên rối rắm, khó khăn và dẫn đến việc áp dụng không đúng, không thể thực hiện
một cách hiệu quả trong thực tiễn, gây khó khăn cho cơ quan áp dụng và khơng
kiểm sốt được vấn đề chuyển giá.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát hoạt động chuyển giá, để
khắc phục những thiếu sót và tính khơng cụ thể của các Thơng tư nói trên, ngày 22
tháng 12 năm 2003, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 128/2003/TT-BTC thay thế
Thông tư 13/2001/TT-BTC ngày 08 tháng 3 năm 2001. Nếu như Thông tư
13/2001/TT-BTC chỉ quy định đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại
Việt Nam, thì Thơng tư 128/2003/TT-BTC áp dụng đối với cả tất cả các doanh
nghiệp được thành lập tại Việt Nam. Tuy nhiên, những quy định cụ thể về chuyển
giá tại Thơng tư 13/2001/TT-BTC đã khơng cịn được ghi nhận tại Thông tư
128/2003/TT-BTC và đây được coi là nhược điểm đáng kể của Thông tư
128/2003/TT-BTC.
10

Công văn 1664, Phần A, Mục II.8.


×