Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 89 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến chương trình cao học luật kinh tế,
trường Kinh tế- Luật TPHCM, các Quý Thầy Cô đã giúp tôi trang bị tri thức, tạo
môi trường điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận
văn này.
Với lịng kính trọng và biết ơn, tơi xin được bày tỏ lời cảm ơn đến Tiến sĩ
Nguyễn Thị Hồng Nhung đã khuyến khích chỉ dẫn tận tình cho tơi trong suốt thời
gian thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân đã hợp tác và chia sẻ thông tin,
cung cấp cho tôi các nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến trường Đại học đồng Nai, gia đình và những
người bạn đã tạo điều kiện, động viên, hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học
tập, làm việc và hoàn thành thành luận văn.


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi là: Đỗ Thị Huyền Thanh
Học viên Lớp Cao học Luật, Khóa 10, Trường Đại học Kinh tế - Luật Thành
phố Hồ Chí Minh.
Mã số học viên: 50.10.048.
Qua thời gian nghiên cứu và dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sỹ Nguyễn
Thị Hồng Nhung, tơi đã hồn thành Luận văn Thạc sỹ Luật với đề tài “Pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử”.
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của bản thân. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Các kiến nghị được nêu ra là kết quả của quá trình nghiên cứu và tổng hợp kinh
nghiệm trên thực tế trong quá trình cơng tác.
Trân trọng,
Tác giả



Đỗ Thị Huyền Thanh


iii

DANH MỤC VIẾT TẮT
TMĐT

Thương mại điện tử

CNTT

Công nghệ thông tin

NTD

Người tiêu dùng

SXKD

Sản xuất, kinh doanh

GDĐT

Giao dịch điện tử

HHDV

Hàng hóa, dịch vụ


TTCN

Thông tin cá nhân

BVNTD

Bảo vệ người tiêu dùng

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

APEC

Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

CHXHCNVN

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nghị định 52/2013/NĐ-CP

Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm
2013 về Thương mại điện tử

Thông tư số 12/2013/TT-BCT Thông tư số 12/2013/TT-BCT ngày 20/6/2013 về quy
định thủ tục thông báo, đăng kí và cơng bố thơng tin
liên quan đến website TMĐT
Nghị định 185/2013/NĐ


Nghị định 185/2013/NĐ ngày 15/6/2013 về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thương mại, bảo vệ
NTD, hoạt động TMĐT

Nghị định 19/2012/NĐ-CP

Nghị định 19/2012/NĐ-CP ngày 16/3/2012 về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ NTD

Luật GDĐT 2005

Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005

Luật BVQLNTD 2010

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự 2005


iv

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1: Các chủ thể chính tham gia hoạt động TMĐT
Hình 2: Doanh thu TMĐT tồn thế giới (ĐVT: tỷ USD)
Hình 3: Doanh số bán lẻ TMĐT của Hoa Kỳ từ năm 2010-2014
Hình 4: Doanh thu bán hàng B2C tại Trung Quốc năm 2010-2014

Hình 5: Ước tính doanh số TMĐT B2C năm 2012
Hình 6: Ước tính doanh số TMĐT B2C năm 2015
Hình 7: Tình hình áp dụng các biện pháp bảo mật CNTT và TMĐT


v

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ ...............................................................................................................................4
Khái quát chung về người tiêu dùng và quyền lợi người tiêu dùng ..............4

1.1
1.1.1

Khái niệm người tiêu dùng .........................................................................4

1.1.2

Quyền lợi người tiêu dùng .........................................................................8

1.1.3

Cơ sở lý luận xác lập quyền được bảo vệ của người tiêu dùng ...............11

1.1.4

Các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ...................................12

Khái quát chung về giao dịch thương mại điện tử ......................................15

1.2
1.2.1

Khái niệm giao dịch thương mại điện tử ..................................................15

1.2.1.1 Giao dịch điện tử ...............................................................................15
1.2.1.2 Khái niệm thương mại điện tử ...........................................................18
1.2.2

Đặc điểm giao dịch thương mại điện tử ...................................................19

1.2.2.1 Chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử ................................19
1.2.2.2 Cách thức tiến hành giao dịch thương mại điện tử ...........................21
1.2.2.3 Thị trường không biên giới ...............................................................21
1.2.2.4 Môi trường hoạt động giao dịch trở thành thị trường .......................21
1.2.3

Các loại hình giao dịch thương mại điện tử .............................................22

1.2.4

Lợi ích, hạn chế của giao dịch thương mại điện tử ..................................23

1.2.4.1 Lợi ích của giao dịch thương mại điện tử .........................................23
1.2.4.2 Hạn chế của giao dịch thương mại điện tử ........................................24
1.3

Sự cần thiết bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia thương mại điện tử .......25


1.3.1

Xu thế phát triển giao dịch thương mại điện tử hiện nay.........................25

1.3.2

Các khả năng xâm phạm đối với NTD trong giao dịch TMĐT ...............30

1.4

Nhu cầu bảo vệ NTD trong giao dịch thương mại điện tử ..........................33

1.5

Sơ lược pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trong giao dịch TMĐT ..............33

1.5.1

Luật Bảo vệ QLNTD năm 2010 và các văn bản hướng dẫn: ...................34

1.5.2

Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 và văn bản hướng dẫn ........35


vi

Kết luận chương 1: ....................................................................................................38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU

DÙNG TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ .........................................................................................................................39
Thực trạng qui định pháp luật và thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD

2.1

trong giao dịch thương mại điện tử ...........................................................................39
2.1.1

Quyền và nghĩa vụ NTD trong giao dịch TMĐT.....................................39

2.1.1.1 Quyền người tiêu dùng ......................................................................39
2.1.1.2 Nghĩa vụ NTD trong giao dịch TMĐT .............................................45
2.1.2

Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong GDTMĐT .............45

2.1.2.1 Trách nhiệm cung cấp thông tin cho NTD ........................................46
2.1.2.2 Trách nhiệm bảo vệ thông tin cá nhân NTD .....................................48
2.1.2.3 Trách nhiệm đảm bảo an tịan thanh tốn trong GDTMĐT ..............51
2.1.2.4 Trách nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch cho NTD ....................54
2.1.2.5 Trách nhiệm đảm bảo chất lượng hàng hóa mua bán........................54
2.1.3

Trách nhiệm của các chủ thể khác ...........................................................56

2.1.4

Xử lý đối với hành vi vi phạm quyền lợi NTD trong GDTMĐT ............57


2.1.4.1 Chế tài dân sự ....................................................................................57
2.1.4.2 Chế tài hành chính .............................................................................60
2.1.4.3 Chế tài hình sự ...................................................................................62
2.1.5

Giải quyết tranh chấp của NTD trong giao dịch TMĐT ..........................64

2.1.5.1 Hệ thống cơ quan bảo vệ NTD trong lĩnh vực TMĐT ......................64
2.1.5.2 Phương thức giải quyết tranh chấp ....................................................69
Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả bảo vệ NTD trong GDTMĐT ...........72

2.2
2.2.1

Về nâng cao ý thức NTD trong việc bảo vệ quyền lợi của mình .............72

2.2.2

Về một số qui định pháp luật bảo vệ QLNTD trong GDTMĐT..............73

2.2.2.1 Về quyền rút lui khỏi hợp đồng:........................................................73
2.2.2.2 Về qui định đánh giá tín nhiệm website TMĐT: ..............................73
2.2.2.3 Về qui định an ninh, an tồn thơng tin NTD .....................................74
2.2.2.4 Về qui định xử phạt vi phạm hành chính ..........................................75


vii

2.2.2.5 Về thủ tục rút gọn đối với tranh chấp đơn giản .................................75
2.2.2.6 Về cơ chế hỗ trợ Hội BVQLNTD .....................................................75

Kết luận chương 2 .....................................................................................................76
KẾT LUẬN ...............................................................................................................78
Danh mục tài liệu tham khảo: ...................................................................................79


1

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:
Trước đây, việc mua bán, trao đổi hàng hóa, các bên giao dịch phải trực tiếp gặp

nhau để bàn bạc, thống nhất thực hiện. Việc gặp mặt nhau trực tiếp dẫn đến hiệu quả
thực hiện các giao dịch truyền thống thường mất nhiều thời gian, chi phí cao do phụ
thuộc rất nhiều vào yếu tố địa lý, thời gian sắp xếp của các bên. Ngày nay, với sự phát
triển của khoa học công nghệ đặc biệt công nghệ thông tin, internet đã làm thay đổi
phương thức giao dịch truyền thống – mà hình thành hình thức giao dịch mới tiện lợi,
linh hoạt hơn đó là giao dịch điện tử. Chỉ cần màn hình có nối mạng tồn cầu, chúng ta
có thể tiến hành mua bán trao đổi hàng hóa ở bất kỳ nơi đâu mà không phải phải gặp
mặt nhau trực tiếp, không lo lắng về vấn đề thời gian, không gian địa lý. Các giao dịch
được thực hiện thông qua các phương tiên điện tử ngày càng phổ biến và phát triển
mạnh mẽ đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và hành chính.
Song song với những ưu điểm nhanh, hiệu quả, tiết kiệm chi phí thì giao dịch
thương mại điện tử cũng tồn tại những vấn đề đáng quan tâm: an toàn, an ninh mạng,
bảo vệ người tiêu dùng, xâm phạm sở hữu trí tuệ… Thực tế, khi tiến hành thực hiện
các giao dịch thương mại điện tử đã xảy ra rất nhiều vụ việc xâm hại đến quyền lợi của
NTD như sử dụng thơng tin cá nhân trái phép (tên, tình trạng hôn nhân, điện thoại, địa
chỉ mail….), ăn cắp thông tin thẻ tín dụng để chiếm đoạt tài sản, làm giả thẻ tín dụng,
gửi thư rác, mua hàng hóa khơng đúng chất lượng, bị lừa đảo, quảng cáo hàng hóa trên

các website không đúng. Tất cả các vụ viêc trên đã gây tâm lý e ngại của người tiêu
dùng khi tham gia giao dịch thương mại điện tử.
Mặc dù, năm 2005, 2012, 2013 Việt Nam đã ban hành một loạt văn bản pháp lý
điều chỉnh các quan hệ trong giao dịch thương mại điện tử, tuy nhiên còn những hạn
chế nhất định. Để các giao dịch điện tử được ứng dụng phổ biến, rộng rãi thì trước hết,
quyền lợi của người tiêu dùng cần phải được bảo vệ thiết thực bằng pháp luật. Phải có
hệ thống pháp luật đủ mạnh làm cơ sở đảm bảo cho người tiêu dùng khi có tranh chấp
xảy ra. Như vậy, mới tạo được lòng tin của người tiêu dùng khi tham gia giao dịch
thương điện tử, góp phần thúc đầy phát triển giao dịch điện tử. Hiện nay, phát triển


2
giao dịch điện tử trong lĩnh vực thương mại và hành chính đang là chiến lược của các
quốc gia trên thế giới. Vì lý do trên tơi chọn đề tài để nghiên cứu “Pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử” với mục đích tìm ra
những bất cập, mâu thuẫn để kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng khi tham gia giao dịch thương mại điện tử.

2.

Tình hình nghiên cứu:
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của vấn đề bảo vệ NTD khi

tham gia giao dịch điện tử, đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề
bảo vệ người tiêu dùng như Luận văn thạc sỹ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về cơ
chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trường đại học Luật TPHCM” của Nguyễn Thị
Thư (2008); “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử của
Nguyễn Thanh Thảo” năm 2010, và một số nghiên cứu khác về thương mại điện tử, cụ
thể là: “Thương mại điện tử. Thực tế và giải pháp”, Nguyễn Duy Quang-Nguyễn Văn
Khoa, Đại học Giao thông vận tải năm 2006; đề tài NCKH năm 2008 “Pháp luật về

thương mại điện tử ở Việt Nam” nhóm tác giả Đại học Kinh tế TPHCM. Bên cạnh đó
là Giáo trình thương mại điện tử cơ bản, Trần Văn Hòe, Đại học Kinh tế quốc dân Hà
Nội năm 2007; một số bài viết đăng trên các Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí
Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Các cơng trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về bảo vệ NTD trong giao
dịch điện tử ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số cơng trình
cũng đã đề cập đến vấn đề thực trạng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ NTD.

3.

Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:

 Cơ sở lý luận về người tiêu dùng, quyền lợi người tiêu dùng, giao dịch thương mại
điện tử
 Thực trạng qui định pháp luật về bảo vệ NTD trong giao dịch thương mại điện tử
 Thực tiễn hoạt động bảo vệ quyên lợi người tiêu dùng trong giao dịch TMĐT


3

4.

Mục đích cụ thể của đề tài:
Tác giả tập trung nghiên cứu qui định luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ người

tiêu dùng khi tham gia giao dịch thương mại điện tử. Đồng thời xem xét tình hình thực
tiễn áp dụng các qui định pháp luật trên tại Việt nam để phát hiện bất cập của pháp luật
hiện hành. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng khi tham gia giao dịch thương mại điện tử.


5.

Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng đồng thời các phương pháp nghiên

cứu sau:
 Sưu tầm, thu thập tài liệu từ sách, báo, Internet
 Thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu

6.

Nội dung đề tài:
Đề tài gồm 2 chương với nội dung chủ yếu sau:

Chương 1: Khái quát chung về NTD và bảo vệ quyền lợi NTD trong giao
dịch TMĐT
Chương 1, chúng tôi tập chung nghiên cứu lý luận về NTD (khái niệm, cơ sở xác
lập, nguyên tắc bảo vệ NTD); lý luận về giao dịch TMĐT (khái niệm, đặc điểm, hình
thức, lợi ích và hạn chế của giao dịch TMĐT). Đồng thời, nêu lên xu hướng phát triển
hình thức giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay, các hành vi có khả năng
xâm phạm quyền người tiêu dùng khi tham gia giao dịch TMĐT và tác giả cũng trình
bày sơ lược khung pháp lý điều chỉnh vấn đề bảo vệ NTD trong hình thức giao dịch
thương mại điện tử.

Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trong giao dịch
TMĐT và một số kiến nghị
Chương 2, tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật bảo vệ NTD trong
giao dịch TMĐT thông qua các qui định quyền và trách nhiệm của các chủ thể tham
gia giao dịch TMĐT, chế tài xử phạt vi phạm, hình thức giải quyết tranh chấp, các cơ

quan bảo vệ NTD. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ
NTD trong giao dịch TMĐT hiện nay.


4

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG GIAO DỊCH
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1 Khái quát chung về người tiêu dùng và quyền lợi người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường người tiêu dùng (NTD) giữ vai trò trung tâm, việc
xác định đối tượng nào là người tiêu dùng giúp doanh nghiệp xác định ai là người
mình phục vụ và quan trọng hơn chính là nhà nước có những cơ chế thích hợp để bảo
vệ họ trong thực tiễn quan hệ mua sắm, tiêu dùng hàng hóa dịch vụ vì trong quan hệ
này NTD luôn là bên yếu thế hơn và pháp luật phải là công cụ hữu hiệu để bảo vệ họ.

1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng
Theo sự tra cứu của tác giả về thuật ngữ “tiêu dùng” ghi nhận trong từ điển tiếng
Việt: “tiêu” có nghĩa là dùng tiền vào việc mua sắm, “dùng” là việc con người sử dụng
hàng hóa, dịch vụ đó để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình. Như vậy, “tiêu dùng
là việc sử dụng của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu của sản xuất và đời sống”1. Từ
định nghĩa này, chúng ta có thể hiểu mọi hành vi con người trong việc sử dụng tài sản
của mình để đổi lấy thứ mình cần nhằm đáp ứng nhu cầu của bản thân trong cuộc sống
được hiểu là hành vi tiêu dùng. Không ai trong xã hội tồn tại mà khơng có nhu cầu
thiết yếu cho bản thân, nên hầu như tất cả mọi người trong xã hội đều là NTD. Tuy
nhiên, khi bàn về khái niệm NTD thì Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới có
nhiều quan điểm khác nhau. Chúng tơi tìm hiểu khái niệm người tiêu dùng theo pháp
luật một số quốc gia trên thế giới ghi nhận như sau:
Hoa Kỳ khơng có một đạo luật chung thống nhất về bảo vệ người tiêu dùng để

qui định rõ ràng khái niệm người tiêu dùng. Nhưng, theo các chuyên gia pháp luật của
Hoa Kỳ cho rằng“người tiêu dùng là cá nhân tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu
vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh hoạt hộ gia đình”2.

1

Hồng Phê (2006,) Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Viện ngôn ngữ học.

2

Michael L. Rustad, Everyday Law for Consumers (Paradigm Publishers, 2007) at 2.


5
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1993 của Trung Quốc tuy khơng có
điều khoản riêng giải thích khái niệm người tiêu dùng nhưng tại Điều 2 của Luật này
có quy định “Trường hợp người tiêu dùng, vì nhu cầu cuộc sống, mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo vệ theo quy định
của Luật này và trường hợp Luật này khơng quy định thì sẽ được bảo vệ theo các quy
3

định khác có liên quan của pháp luật” . Điều luật này đã ngụ ý, người tiêu dùng theo
quan niệm của pháp luật Trung Quốc chỉ là cá nhân (mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ
vì nhu cầu sinh hoạt của mình chứ khơng phải vì mục đích kinh doanh hoặc hoạt động
nghề nghiệp).
Điều 3 của Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 của Malaysia giải
thích:“người tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục
đích sinh hoạt cá nhân hoặc sinh hoạt gia đình… và khơng gồm việc mua hoặc sử
dụng hàng hóa vì mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào q trình sản xuất hàng
hóa, dịch vụ khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn thêm vào hàng hóa khác.”4

Vậy, NTD có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 giải thích: “người tiêu
dùng là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc được chào mua hàng hóa hoặc dịch
vụ từ một người kinh doanh, bao gồm người thực sự sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch
vụ có nguồn gốc từ người kinh doanh mặc dù người này không trực tiếp trả tiền cho
việc sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ đó.”5 Trong khi đó, cũng tại điều khoản
này,“người kinh doanh” được giải thích là người bán hàng, nhà sản xuất, nhà nhập
khẩu để bán hàng, người mua hàng để bán lại, người cung cấp dịch vụ, người tiến hành
việc quảng cáo.”6

3

/>
republic-of-china-on-protection-of-the-rights-and-interests-of-the-consumers-1994.html
4

/>
5

/>
6

/>

6
Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ năm 1986 có một số quy định như sau
7

(Điều 2(1d) và 2(1m)): Điều 2(1d):“Người tiêu dùng là bất cứ người nào mua …
hàng hóa… mà khơng có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương mại khác.”

Điều 2(1m) giải thích chữ “người”(nhân) ở đây được hiểu bao gồm: hãng (doanh
nghiệp), cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội.
Từ các khái niệm NTD của một số nước trên thế giới, chúng ta thấy rằng khái
niệm NTD được cấu thành bởi ba yếu tố: i) chủ thể; ii) hành vi sử dụng hàng hóa, dịch
vụ; iii) mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ.

8

Luật Bảo vệ người tiêu dùng ở một số nước không thừa nhận khái niệm NTD gắn
với mục đích sản xuất, kinh doanh mà khái niệm NTD gắn liền với mục đích tiêu dùng
cá nhân và gia đình, tổ chức (do các quan hệ sản xuất kinh doanh đã có hệ thống pháp
luật điều chỉnh riêng). Mặt khác, luật mẫu Bảo vệ người tiêu dùng của Hiệp hội Người
tiêu dùng thế giới ghi nhận “NTD có nghĩa là người yêu cầu hay sử dụng hàng hóa
hay dịch vụ cho những mục đích cá nhân, trong gia đình hay nội trợ”. Cách giải thích
của hiệp hội NTD thế giới khẳng định phạm vi khái niệm NTD chỉ bao gồm những
NTD cho mục đích sinh hoạt khơng bao gồm mục đích thương mại.
Đối với yếu tố chủ thể, hiện nay thế giới có hai cách qui định: Cách quy định thứ
nhất chỉ quy định NTD là thể nhân (hoặc cá nhân). Cách quy định này thể hiện rõ luật
bảo vệ người tiêu dùng chỉ bảo vệ đối với cá nhân, cịn pháp nhân do họ có những vị
thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong quan hệ với nhà cung cấp nên luật bảo vệ
người tiêu dùng không cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ.9 Cách
thứ hai là quy định rõ NTD là cả thể nhân và pháp nhân. Quy định này tuy có vẻ hơi
rộng và có thể có quan điểm cho rằng nó sẽ làm lỗng đi hiệu lực của Luật bảo vệ
người tiêu dùng. Tuy nhiên, cách quy định này đã khắc phục được hạn chế của cách
quy định thứ nhất vì khơng phải lúc nào pháp nhân cũng là người đủ khả năng để đối
mặt được với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu Luật bảo

7

/>

8

Xem Nguyễn Thị Thanh Thảo (2011),“ Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng

điện tử”, Luận văn thạc sỹ Luật học trường đại học Luật TPHCM
9

“Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Đặc san tuyên truyền pháp luật tháng 6/2010


7
vệ người tiêu dùng không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền
lợi của một nhóm đối tượng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho
toàn xã hội.
Theo điều 3, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam năm 2010 định nghĩa:
“Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng,
sinh hoạt của các nhân, gia đình, tổ chức”. Đối chiếu với khái niệm NTD trong điều 1,
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD ngày 27/4/1999 khơng có gì khác biệt. Như vậy,
khái niệm NTD theo pháp luật Việt Nam gồm ba yếu tố cấu thành nên khái niệm
NTD: (i) Chủ thể: Cá nhân, gia đình, tổ chức; (ii) Hành vi: mua hoặc sử dụng hàng
hóa, dịch vụ; (iii) Mục đích của hành vi: tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân không nhằm mục
đích sản xuất kinh doanh.10Trong đó chủ thể có thể là:
 Người mua đồng thời là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản
thân mình
 Người mua hàng hóa, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc cho tổ chức sử
dụng
Trong quá trình xây dựng Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 ở Việt Nam
cũng có nhiều ý kiến tranh cải có nên đưa tổ chức là NTD khơng? Nhóm ý kiến thứ
nhất cho rằng khơng nên đưa tổ chức là NTD vì trong mối quan hệ mua bán hàng hóa,
dịch vụ thì tổ chức ở vị trí yếu thế ít hơn so với cá nhân, gia đình vì tổ chức thường có

cơ cấu tổ chức chặt chẽ, thường có tiềm lực tài chính, và khi tiến hành mua bán hàng
hóa, dịch vụ thì ln có bộ phận trong tổ chức tư vấn tìm hiểu kĩ càng trước khi kí kết
hợp đồng, phía nhà cung cấp họ cũng dành cho tổ chức một sự ưu đãi hơn khi kí kết
hợp đồng như kéo dài thời gian thương lượng hợp đồng, cử chuyên gia tư vấn, gửi
thơng tin chi tiết về về hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, sự yếu thế của một bên trong mối
quan hệ khơng cịn, nên vấn đề bảo vệ tổ chức khơng cịn ý nghĩa.11 Nhóm thứ 2 thì
cho rằng, bên mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ, bất kì ai dù là tổ chức họ luôn bị yếu

10

Xem Nguyễn Thị Thư (2008),“ Hoàn thiện pháp luật về cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Luận văn

thạc sỹ Luật học trường đại học Luật TPHCM
11

Xem Lê Hồng Hạnh. Trần Thị Hồng Quang( 2010),” Luật bảo vệ NTD có nên qui định tổ chức là NTD”, tạp

chí Nghiên cứu lập pháp


8
thế hơn so với nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ. Bởi vì họ khơng phải là nhà chun
mơn đối với hàng hóa, dịch vụ đó, họ khơng thể hiểu hết các đặc điểm, tính năng cũng
như các khuyết tật bên trong hàng hóa. Do đó, tổ chức cũng cần phải được bảo vệ như
cá nhân, gia đình.
Chúng tơi đồng ý với quan điểm thứ hai, tổ chức cũng là NTD nếu tổ chức có
hành vi mua bán, sử dụng hàng hóa với mục đích tiêu dùng. Vì khi tham gia quan hệ
mua bán hàng hóa hoặc nhận cung ứng dịch vụ, tổ chức cũng ở vị trí yếu thế hơn so
với người bán (ít thơng tin về hàng hóa, dịch vụ mình sẽ được cung cấp) nên họ cũng
là đối tượng cần được pháp luật bảo vệ. Pháp luật hiệu quả phải là pháp luật bảo vệ

được người yếu thế trong các giao dịch. Đồng thời, qui định này cũng phù hợp với qui
định của nhiều quốc gia trên thế giới. Như vậy, khái niệm NTD theo luật Việt Nam
hiện tại qui định khá đầy đủ, hợp lí và phù hợp với thông lệ pháp luật quốc tế.
Trên thực tế, chúng ta thường hay sử dụng khái niệm khách hàng thay cho khái
niệm NTD. Và dường như thuật ngữ này sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, về góc độ
pháp lý có sự phân biệt rõ ràng hai khái niệm trên. Khách hàng là cá nhân, tổ chức có
hành vi mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ mà khơng cần xét đến mục đích sử dụng
hàng hóa, dịch vụ là tiêu dùng hay sản xuất hay thương mại. Cịn khái niệm NTD cần
quan tâm đến mục đích sử dụng hàng hóa dịch vụ là tiêu dùng sinh hoạt hằng ngày. Do
đó, khái niệm khách hàng rộng hơn khái niệm NTD hay nói cách khác nó bao hàm
khái niệm NTD. NTD không tin tưởng sản phẩm, họ sẽ hạn chế hành vi tiêu thụ hàng
hóa và như vậy ảnh hưởng chính các doanh nghiệp sản xuất về mặt lợi nhuận đồng
thời ảnh hưởng chung đến nền sản xuất nói chung.12

1.1.2 Quyền lợi người tiêu dùng
Hành vi tiêu dùng của khách hàng chính là yếu tố tạo nên lợi nhuận của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có càng nhiều khách hàng thì khả năng tồn tại và phát triển
càng cao cịn ngược lại thì doanh nghiệp dễ lâm vào tình trạng phá sản. Vì thế, hơn ai
hết các doanh nghiệp nhận thức rõ “khách hàng là mục tiêu sống còn của doanh
nghiệp”, nên thế giới có câu solgan rất hay và nổi tiếng “khách hàng là thượng đế”.
12

Nguyễn Thị Phong Lan, (2012), “Khái niệm người tiêu dùng”, Tạp chí Sinh viên và Khoa học Pháp lý số 1.


9
NTD bỏ một lợi ích vật chất (tiền) để mua hàng hóa, dịch vụ thì theo lẽ thơng
thường họ sẽ được hưởng các lợi ích vật chất, tinh thần tương đương ngược lại như
được nhận hàng hóa, dịch vụ đảm bảo chất lượng, đảm bảo sức khỏe....Việc làm rõ nội
hàm khái niệm quyền, quyền lợi NTD đóng vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ

quyền lợi NTD làm cơ sở để phát sinh các quyền cụ thể của NTD. Tuy nhiên, trong
các văn bản qui phạm pháp luật của chúng ta chưa hề qui định khái niệm quyền, quyền
lợi NTD mà chỉ liệt kê ra các quyền cơ bản của NTD tại điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi
NTD năm 2010. Theo tìm hiểu của tác giả, trong từ điển Tiếng Việt của Hồng Phê có
giải thích “Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho hưởng, được làm,
được đòi hỏi”13, còn “Quyền lợi là quyền được hưởng lợi ích nào đó về vật chất, tinh
thần, chính trị, xã hội” 14. Điều này, có nghĩa quyền NTD là những đặc quyền mà pháp
luật ghi nhận cho mỗi cá nhân khi thực hiện các hành vi tiêu dùng hành hóa, dịch vụ
và khơng ai được quyền xâm phạm đến các quyền đó. Quyền lợi NTD chính là các
quyền hưởng lợi ích nào đó về vật chất, tinh thần, chính trị, xã hội được đảm bảo việc
thực thi các quyền NTD trên thực tế. Như vậy, khái niệm quyền lợi NTD rộng hơn
khái niệm quyền NTD hay nói cách khác nó bao hàm khái niệm quyền NTD.
Cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã căn cứ vào 8 quyền cơ bản của
người tiêu dùng nêu trong Bản hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng của Liên hợp quốc15
để thể chế hoá thành văn bản pháp luật quốc gia phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội,
phong tục tập quán cũng như đặc điểm riêng của quốc gia mình để đảm bảo quyền lợi
của người tiêu dùng được bảo. Tại Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010 quy định người tiêu dùng Việt Nam cũng có tám quyền cơ bản sau:
Một là, quyền được an toàn: Được bảo đảm an tồn tính mạng, sức khỏe, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
Hai là, quyền được cung cấp thơng tin: Được cung cấp thơng tin chính xác, đầy
đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa,

13

Hồng Phê( 2006), Từ điền Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Viện Ngôn ngữ học, Trang 843

14


Hoàng Phê( 2006), Từ điền Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Viện Ngôn ngữ học, Trang 843

15

Nghị quyết số 39/248 ngày 08/4/1985 của Đại hội đồng Liên hợp quốc


10
dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên
quan đến giao dịch và thơng tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu
dùng đã mua, sử dụng người tiêu dùng được quyền có các số liệu và dữ liệu cần thiết
để trên cơ sở đó lựa chọn, chống gian dối, lừa đảo, quảng cáo, ghi nhãn không rõ ràng,
không chân thực;
Ba là, quyền được lựa chọn: Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia
hoặc khơng tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Bốn là, quyền được đại diện: người tiêu dùng được đưa ra các ý kiến với đại diện
của người tiêu dùng trong việc hoạch định các chính sách của Chính phủ trong phát
triển hàng hóa và dịch vụ;
Năm là, quyền được khiếu nại và bồi thường thiệt hại: người tiêu dùng được
khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi
của mình theo quy định của pháp luật quyền khiếu nại với nhà sản xuất kinh doanh khi
mua phải hàng hóa kém chất lượng, khơng phù hợp và được giải quyết thỏa đáng
những khiếu nại.
Sáu là, quyền được giáo dục về tiêu dùng: người tiêu dùng được quyền có những
kiến thức và kỹ năng cần thiết để yêu cầu được cung cấp thơng tin, được hướng dẫn sử
dụng; có kiến thức để lựa chọn hàng hóa, dịch vụ; có kiến thức về các quyền cũng như
trách nhiệm của người tiêu dùng và cách thức thực thi các quyền và trách nhiệm đó;
Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.

Bảy là, quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản: là quyền được cung cấp
những sản phẩm và dịch vụ cơ bản, thiết yếu như các nhu cầu về lương thực, thực
phẩm, quần áo, nhà ở, đi lại, giáo dục, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ
cơng cộng…;
Tám là, quyền được sống trong một môi trường trong sạch và lành mạnh: người
tiêu dùng có quyền sống và làm việc trong một môi trường không bị ô nhiễm cả trong
hiện tại và tương lai.


11
Quyền thỏa mãn nhu cầu cơ bản, quyền có mơi trường trong lành bền vững tuy
không được quy định trọng luật bảo vệ NTD năm 2010 nhưng hai quyền này đã được
ghi nhận trong Hiến pháp và nhiều văn bản luật khác nên không cần thiết nhắc lại
trong luật BVNTD năm 2010. Đây là luật đặc thù chỉ qui định riêng cho NTD. Như
vậy nội dung quyền NTD luật nước ta khơng có mâu thuẫn gì với luật quốc tế.

1.1.3 Cơ sở lý luận xác lập quyền được bảo vệ của người tiêu dùng


Cơ sở kinh tế
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, hàng hóa được sản xuất như thế nào, phân

phối ra sao đều do Nhà nước lên kế hoạch và giao chỉ tiêu. Do đó, nền sản xuất hàng
hóa thời kì này hồn tồn bị động, NTD chưa được quyền tự do lựa chọn hàng hóa.
Nhưng, quyền lợi NTD ít bị xâm phạm vì mục đích lợi nhuận của doanh nghiệp khơng
là yếu tố sống cịn của doanh nghiệp.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động nền kinh tế phải tuân theo các
qui luật thi trường như qui luật giá cả, cung cầu…Nhiều hình thức tổ chức kinh doanh
ra đời với hàng hóa phong phú, đa dạng, NTD được tiếp cận hơn với nhiều loại hàng
hóa, được so sánh đối chiếu, lựa chọn hàng hóa, dịch vụ phù hợp với khả năng tài

chính của mình. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng dẫn đến vấn đề các doanh nghiệp
tự chủ thu chi, để tồn tại phải có lợi nhuận trong khi đó yếu tố cạnh tranh mạnh mẽ do
đó nhiều doanh nghiệp đã bất chấp đạo đức sản xuất, kinh doanh hàng hóa khơng đảm
bảo chất lượng, hoặc lừa đối người tiêu dùng dẫn đến NTD bị xâm phạm một cách
nghiêm trọng.
Việc trở thành viên WTO đã đặt Việt Nam đứng trước rất nhiều cơ hội và thách
thức. Việt Nam có nhiều cơ hội xây dựng và phát triển nền kinh tế, tiếp cận hàng hóa,
dịch vụ của các nước trên thế giới một cách bình đẳng, thu hút ngày càng nhiều đầu tư
nước ngồi vào Việt Nam cùng với khoa học kĩ thuật tiến tiến, cơng nghệ máy móc
hiện đại, NTD tự do lựa chọn những sản phẩm tốt phù hợp với khả năng của mình, tuy
nhiên tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Trước sự phát triển như vũ bảo của khoa học và công nghệ đặc biệt trong bối
cảnh tồn cầu hóa đã tạo điều kiện hình thành và phát triển nhiều phương thức kinh
doanh hiện đại. Xu hướng này đã đặt NTD và một khung cảnh mới-đó là sự tiện ích và


12
phạm vi lựa chọn rộng rãi những phương thức kinh doanh gian dối, thiếu trung thực và
ngụy trang dưới nhiều hình thức tinh vi hơn. Khơng hiếm các trường hợp các doanh
nghiệp đã sử dụng thị trường Việt Nam làm nơi giải quyết hàng kém chất lượng, hàng
tồn kho, hàng có chỉ dẫn nhầm lẫn. Vì yếu tố cạnh tranh giành thị phần, khách hàng
nên khơng ít các doanh nghiệp vì lợi nhuận đã mất đạo đức kinh doanh tiến hành các
hành vi quảng cáo không trung thực đưa ra những thơng tin sai lệch về gía cả, chất
lượng, giá trị sử dụng…Chính vì vậy khơng ít NTD phải sử dụng hàng hóa kém chất
lượng, khơng có xuất xứ rõ ràng, giá cả bất hợp lý ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích
vật chất và sức khỏe của NTD.
Trong khi đó, NTD có vai trị rất quan trọng trong nền kinh tế, là khâu cuối cùng
của quá trình tái sản xuất. Bảo vệ NTD cũng chính là bảo vệ cho doanh nghiệp nói
riêng và cho tồn bộ nền kinh tế nói chung



Cơ sở pháp lý
Mối quan hệ giữa NTD và các nhà sản xuất, kinh doanh, nhà cung cấp dịch vụ là

một quan hệ dân sự được điều chỉnh bằng các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa
rộng. Một điều rõ ràng mà chúng ta có thể nhận thấy trong quan hệ pháp luật dân sự
này là tình trạng bất cân xứng về thơng tin, hiểu biết, trình độ khoa học kĩ thuật, khả
năng đàm phán, ký kết hơp đồng, khả năng chịu rủi ro, và sự am tường pháp luật cũng
như tiềm lực tài chính, cho nên NTD ln ở vị trí yếu thế hơn.Và các nhà SXKD, nhà
cung cấp dịch vụ luôn lợi dụng thế mạnh này của mình để chèn ép, lợi dụng, đẩy thiệt
hại và rủi ro về NTD. Mà một trong nhiệm vụ của luật tiến bộ là phải ưu tiên bảo vệ kẻ
yếu thế hơn vì vậy pháp luật cần can thiệp để cân bằng lợi ích của các chủ thể trong
quan hệ xã hội. Thông qua việc bảo vệ NTD bằng pháp luật, Nhà nước thực hiện chức
năng quan lý và điều tiết các quan hệ xã hội theo trật tự chung.

1.1.4 Các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Bảo vệ quyền lợi NTD là hoạt động phức tạp đòi hỏi phải có sự tham gia của
nhiều thành phần trong xã hội, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
khác nhau. Vì vậy, để cơng tác bảo vệ NTD đạt hiệu quả cần phải có sự phối hợp đồng
bộ giữa các cấp, các ngành để hoạt động bảo vệ NTD vận hành theo phương thức
thống nhất, tạo tiếng nói chung, đồng thuận giữa các cơ quan chức năng cũng như các
tổ chức xã hội và chính bản thân NTD. Phải có những nguyên tắc thống nhất tạo nền


13
tảng để mọi thành viên theo đó làm chuẩn mực mà thực hiện quyền và trách nhiệm của
mình. Theo Điều 4, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 qui định 4 nguyên tắc sau:


Bảo vệ quyền lợi NTD là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã hội

Hợp đồng là một sự tự do thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu để các bên tự do vơ hạn thì

hợp đồng sẽ trở thành phương tiện để bên mạnh hơn lấn át bên yếu thế hơn và gây
thiệt hại to lớn tới lợi ích chung của xã hội. Người tiêu dùng luôn là bên thiếu thông
tin, đặc biệt là các thông tin và kiến thức liên quan đến đặc tính kỹ thuật của sản phẩm.
Bên cạnh đó, người tiêu dùng thơng thường ít có cơ hội đàm phán, thương lượng trong
quan hệ với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Do đó, pháp luật cần có các quy định đặc thù
để đảm bảo sự cân bằng trong các quan hệ này, qua đó góp phần ổn định trật tự xã hội,
bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Một xã hội cơng bằng, văn minh thì mọi người phải được bình đẳng, đặc biệt
những người ở vị trí yếu thế như NTD phải được bảo vệ, bảo vệ ở đây không phải qui
định cho NTD những đặc quyền hơn những người khác mà phải làm thế nào để các
quyền NTD ghi nhận trong luật được thi hành trên thực tế. Để làm được điều này,
khơng chỉ mình một cá nhân hay một tổ chức thực hiện, mà cần có sự phối hợp nhiều
cấp, nhiều nghành khác nhau hay nói cách khác của cần sự phối hợp của tòan xã hội.
Đây là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại điều 4, luật Bảo bệ quyền lợi NTD năm
2010 và nhằm khẳng định bảo vệ NTD là trách nhiệm không của riêng ai. Với thực
trạng xâm phạm NTD ngày càng tinh vi hiện nay, nguyên tắc này càng có ý nghĩa thức
tỉnh mọi thành phần xã hội phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với hoạt động
bảo vệ NTD.


Quyền lợi NTD được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Đây là nguyên tắc được ghi nhận tại điều 4, luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm

2010. Theo đó, quyền là những gì pháp luật qui định cho NTD được hưởng và thực
hiện, không ai được tước đoạt hay xâm phạm những quyền và lợi ích hợp pháp đó, bất
cứ hành vi xâm phạm gây thiệt hại cho NTD đều phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật, nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Nội dung nguyên tắc không chỉ hướng tới bảo
vệ chính mình mà cịn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bởi đó là

quyền Hiến định và phù hợp quy luật. Với sự phát triển xã hội hiện nay, cùng với thực
trạng xâm phạm NTD, nguyên tắc này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước


14
đến NTD. Mặc dù, nguyên tắc trên ai cũng phải thực hiện nhưng trên thực tế NTD vẫn
thật sự chưa được tôn trọng và bảo vệ khi xã hội ngày càng có nhiều vụ vi phạm
nghiêm trọng khơng chỉ vì lợi ích vật chất mà cịn xâm hại nghiệm trọng đến tính
mạng sức khỏe NTD. Chúng tơi khơng phủ nhận nguyên tắc trên đã hình thành nên qui
tắc chung để mọi người phải có ý thức tơn trọng đến tính mạng sức khỏe NTD, nhưng
với thực trạng hiện nay cho thấy nguyên tắc trên chưa đi vào cuộc sống, NTD vẫn lo
ngại về sự an tồn của mình khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Vấn đề chúng ta cần phải
làm gì để nguyên tắc trên đi vào cuộc sống và quyền lợi NTD thật sự được bảo vệ.


Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phải được thực hiện kịp thời, công

bằng, minh bạch, đúng pháp luật.
Mọi quyền và lợi ích hợp pháp của con người đều được pháp luật bảo vệ, nếu ai
có bất kỳ hành vi vi phạm thì tùy tính theo mức độ nặng nhẹ áp dụng các biện pháp
chế tài tương ứng để trừng phạt. Nguyên tắc trên đã được cụ thể hóa tại điều 11, luật
Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 “Cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi
phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.”
Khi có hành vi xâm phạm quyền lợi NTD, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải
có cơ chế thích hợp để bảo vệ NTD một cách hữu hiệu nhằm chấm dứt hành vi xâm
phạm, hạn chế tối đa thiệt hại cho NTD. Cùng vụ việc NTD phải được đảm bảo như
nhau về các quyền và nghĩa vụ không phụ thuộc vào các yếu tố giới tính, địa vị, học
vấn. Khi tiến hành hoạt động bảo vệ NTD, cơ quan chức năng phải tuân theo qui định

của pháp luật: về trình tự thủ tục, xác định hành vi vi phạm, biện pháp chế tài đối với
hành vi vi phạm nhằm tránh hiện tượng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện gây bất lợi
cho NTD, doanh nghiệp, nhà sản xuất.
Nguyên tắc một lần nữa khẳng định quyền NTD được pháp luật tơn trọng và bảo
vệ. Chủ thể có thẩm quyền trong việc bảo vệ NTD khi thực hiện nhiệm vụ phải nhanh
chóng, hiệu quả, đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để nguyên tắc trên được
thực thi trên thực tế một cách có hiệu quả, thiết nghĩ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền bảo vệ NTD là rất quan trọng. Vì chỉ có các chủ thể có thẩm quyền mới
được quyền yêu cầu nhà sản xuất, kinh doanh chấm dứt hành vi để giải quyết vụ việc.


15


Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không được xâm phạm đến lợi

ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân khác
Mọi cá nhân, tổ chức khi thực hiện bất cứ hành vi nào phải tuân theo nguyên tắc
chung “không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức khác”. Hoạt động bảo vệ NTD là hoạt động được pháp luật ghi nhận
và khuyến khích mọi thành phần xã hội tham gia. Tuy nhiên, khi các chủ thể khi tiến
hành hoạt động bảo vệ NTD cũng phải tuân theo nguyên tắc chung trên. Nguyên tắc
này nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng nhưng vẫn
đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể này. Luật không thể hiện xu
hướng quá thiên về bảo vệ người tiêu dùng mà hạn chế đi quyền lợi hợp pháp của các
doanh nghiệp, tránh tạo ra những kẽ hở để một số cá nhân lợi dụng quyền lợi của
người tiêu dùng gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Luật tránh việc tạo ra cơ chế khiếu nại
tràn lan khơng có cơ sở, không quy định quyền được đổi trả lại hàng hóa sau một thời
gian sử dụng như quy định của pháp luật một số nước.


1.2

Khái quát chung về giao dịch thương mại điện tử

1.2.1 Khái niệm giao dịch thương mại điện tử
Giao dịch thương mại điện tử là một dạng của giao dịch điện tử. Do đó, để tìm
hiểu khái niệm trên, chúng tơi sẽ đi tìm hiểu từng yếu tố cấu thành sau: “giao dịch điện
tử”, “thương mại điện tử”.
1.2.1.1 Giao dịch điện tử
Pháp luật Việt Nam đã đưa ra khái niệm chính thức như sau “giao dịch điện tử là
giao dịch được thực hiện bởi các phương tiện điện tử ”16.Tuy nhiên, để hiểu rõ khái
niệm này chúng ta phải tìm hiểu các khái niệm liên quan gồm:“giao dịch”, “phương
tiện điện tử”.
Thứ nhất: khái niệm“giao dịch”. Luật Giao dịch điện tử một số nước qui định khá
rõ ràng khái niệm “ giao dịch”. Luật Giao dịch điện tử Thái Lan năm 1999 quy định
“giao dịch là bất kỳ hành vi nào liên quan đến dân sự, thương mại hoặc thực hiện công

16

Khoản 6, điều 4, Luật Giao dịch điện tử 2005


16
17

việc của nhà nước” , hoặc, Luật Giao dịch điện tử Mỹ qui định “giao dịch là một hành
vi hoặc nhiều hành vi xảy ra giữa hai hay nhiều người liên quan đến những việc kinh
18


doanh, thương mại, hay những cơng việc của nhà nước” . Trong khi đó, Luật Giao
dịch điện tử Việt Nam năm 2005 không qui định, mà phải dẫn chiếu khái niệm từ điều
130, Bộ luật Dân sự Việt Nam “giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc
hợp đồng của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”19. Vậy, giao dịch là một sự kiện pháp lý làm phát
sinh hậu quả pháp lý, tùy từng tình huống mà có thể làm phát sinh, thay đổi hay chấm
dứt quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự là hành vi của chủ thể nhằm đạt được mục đích
nhất định hay nói cách khác là hành vi mang tính ý chí của chủ thể với những mục
đích và động cơ nhất định. 20
Như vậy, định nghĩa giao dịch các nước đã có những điểm chung: i) giao dịch là
một hoặc nhiều hành vi pháp lý thể hiện ý chí của các chủ thể; ii) phạm vi giao dịch
giới hạn trong lĩnh vực thương mại, dân sự, hành chính; iii) chủ thể giao dịch có thể là
cá nhân hoặc tổ chức đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật qui định.21 Tùy pháp luật
của mỗi nước mà số lượng chủ thể tham gia giao dịch khác nhau, ví dụ Luật Việt Nam
không giới hạn số lượng chủ thể giao dịch, nhưng Luật Mỹ qui định giao dịch phải ít
nhất là sự tương tác ít nhất từ hai chủ thể trở lên, chính qui định này đã loại trừ một số
giao dịch liên quan đến ý chí đơn phương như thừa kế trong Luật GDĐT thống nhất
Mỹ năm 1999.
Thứ hai: khái niệm “phương tiện điện tử”. Pháp luật thế giới đều đưa ra khái
niệm cụ thể về “điện tử”. Mặc dù cách diễn đạt khác nhau nhưng luật các nước đều
cho rằng “điện tử gồm điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn khơng dây và các
cơng nghệ tương tự

22

”. Khái niệm điện tử là bộ phận quan trọng trong khái niệm

17

Điều 4, Luật giao dịch điện tử Thái Lan


18

Điều 2, Luật giao dịch điện tử thống nhất Mỹ 1999

19

Điều 130, Bộ luật dân sự năm 2005

20

Giáo trình luật Dân sự năm 2007, đại học Luật Hà Nội

21

Châu Việt Bắc (2006),“Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005-Cơ sở pháp lý cho hình thức giao dịch

mới”, Khóa luận tốt nghiệp trường Luật TPHCM
22

Điểm 10, khoản 4, Luật giao dịch điện tử năm 2006


17
“phương tiện điện tử”. “Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công
nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn khơng dây, quang học, điện từ hoặc
23

công nghệ tương tự”. Các phương tiện điện tử để thực hiện GDĐT gồm: điện thoại,
máy fax, hệ thống thanh tốn điện tử, mạng extranet, mạng tồn cầu Internet. Do

tính chất đặc thù của cơng nghệ là ln phát triển không ngừng, nên các hầu hết pháp
luật các nước đều đưa ra khái niệm điện tử có tính mở rộng nhằm mục đích khơng loại
trừ nhưng trường hợp khơng thừa nhận những giao dịch có sử dụng phương tiện điện
tử mới phát sinh trong tương lai.
Từ những khái niệm trên, chúng ta thấy rằng, giao dịch điện tử vốn dĩ là các giao
dịch đã tồn tại trong cuộc sống từ lâu. Do sự phát triển khoa học công nghệ, việc sử
dụng các công cụ điện tử (điện thoại, máy fax, máy tính nối mạng…) vào trong q
trình giao dịch làm q trình giao dịch diễn ra nhanh chóng, tiện lợi cho các bên tham
gia, rất phù hợp với cuộc sống hiện đại “xử lý nhanh, tiết kiệm các nguồn lực”. Vậy,
bản chất giao dịch điện tử giống bản chất giao dịch truyền thống nhưng chỉ khác cách
thức tiến hành giao dịch. Đây là điểm quan trọng để phân biệt giữa giao dịch điện tử
và giao dịch truyền thống.
Chúng ta biết rằng, qui định càng rõ ràng, cụ thể thì khả năng áp dụng luật càng
cao. Tuy nhiên, dựa vào định nghĩa như Luật giao dịch điện tử Việt Nam, theo quan
điểm của tác giả định nghĩa chưa làm rõ vấn đề sau:
Giao dịch được thực hiện bởi một hoặc nhiều hành vi của các chủ thể. Tùy vào ý
chí của chủ thể mà một phần hoặc tồn bộ giao dịch có thể được tiến hành bằng các
phương tiện điện tử. Theo luật Việt Nam, định nghĩa GDĐT chưa rõ ràng, cụ thể, khó
khăn trong q trình áp dụng luật. Ví dụ trong trường hợp giao kết hợp đồng qua fax,
việc soạn thảo hợp đồng được tiến hành theo phương thức truyền thống sử dụng giấy,
mực, viết để thể hiện các thỏa thuận, và chữ kí của các chủ thể nhưng trong q trình
giao kết có sử dụng máy fax để gửi và nhận thông tin, những giao dịch như vậy có
được xem là GDĐT theo luật Việt Nam hay không? Trong khi vấn đề này được qui

23

Khoản 10, điều 4, luật giao dịch điện tử năm 2006


18

định rõ ràng trong luật Thái Lan “Giao dịch điện tử là giao dịch có sử dụng phương
tiện điện tử một phần hoặc tồn bộ q trình giao dịch”

24

1.2.1.2 Khái niệm thương mại điện tử
Chúng tơi tìm hiểu một số khái niệm thương mại điện tử của các tổ chức uy
tín thế giới và có hai luồng quan điểm như sau:
Theo nghĩa hẹp thương mại điện tử chỉ đơn thuần là mua bán hàng hóa và dịch
vụ thơng qua các phương tiện điện tử, nhất là qua Internet và các mạng liên thơng khác
khơng tính đến các phương tiện điện tử như điện thoại, fax, telex. Điển hình từ khái
niệm của WTO, APEC
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao gồm việc
sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán
trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao
nhận cũng như những thơng tin số hố thơng qua mạng Internet" 25.
Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) định nghĩa: "Thương mại điện tử liên quan đến các giao dịch
thương mại trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nhóm (cá nhân) mang tính điện tử
chủ yếu thơng qua các hệ thống có nền tảng dựa trên Internet" 26.
Theo nghĩa rộng thương mại điện tử hiểu là các giao dịch tài chính và thương
mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các
hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng. Theo quan điểm này, có hai định

nghĩa khái quát được đầy đủ nhất phạm vi hoạt động của thương mại điện tử:
Luật mẫu về Thương mại điện tử của Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại
quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: “Thuật ngữ thương mại [commerce] cần được diễn
giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất
thương mại dù có hay khơng có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại
[commercial] bao gồm giao dịch về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ;


24

Điều 4, Luật Giao dịch điện tử Thái Lan

25 “Electronic commerce”.WTO.
26 “Definition: E-Commerce”.APEC.


×