Tải bản đầy đủ (.pdf) (206 trang)

Triết học chính trị của john locke với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 206 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THANH HẢI

TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ CỦA JOHN LOCKE
VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THANH HẢI

TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ CỦA JOHN LOCKE
VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số: 62 22 80 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. ĐINH NGỌC THẠCH
Phản biện độc lập


1. PGS. TS. LƢƠNG MINH CỪ
2. PGS. TS. TRẦN MAI ƢỚC
Phản biện
1. PGS. TS. VŨ VĂN GẦU
2. PGS. TS. NGUYỄN THANH
3. PGS. TS. LƢƠNG MINH CỪ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành luận án này, tơi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ hết sức
quý báu của các tập thể và cá nhân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn PGS, TS. Đinh Ngọc Thạch đã tận
tâm hướng dẫn tôi nghiên cứu, thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể quý thầy cơ trong Khoa Triết học,
Phịng Sau đại học của Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học
quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Khoa học Cơ bản của Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tơi trong qúa trình
học tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.
Cuối cùng, tơi xin được tỏ lịng biết ơn sâu sắc gia đình, những người thân
đã ln là điểm tựa và là nguồn động viên to lớn về mọi mặt để tơi hồn thành
luận án này.

TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả luận án


NGUYỄN THANH HẢI

năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch. Kết quả nghiên cứu trong luận án
trung thực và chưa ai công bố. Các tài liệu sử dụng trong luận án có nguồn gốc,
xuất xứ rõ ràng.

TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thanh Hải


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ Q TRÌNH PHÁT
TRIỂN CỦATRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE ................................... 15
1.1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE ...... 15

1.1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội hình thành triết học chính trị John Locke ..... 15
1.1.2. Tiền đề lý luận hình thành triết học chính trị John Locke .............................. 30
1.2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE ............. 44

1.2.1. Khái lược cuộc đời, sự nghiệp của John Locke .............................................. 44

1.2.2. Các giai đoạn hình thành, phát triển và các chủ đề cơ bản của triết học chính
trị John Locke ............................................................................................................ 47
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 52
Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH
TRỊ JOHN LOCKE ................................................................................................ 54
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE ....................... 54

2.1.1. Tư tưởng của John Locke về các quyền cơ bản của con người ...................... 54
2.1.2. Tư tưởng của John Locke về chính quyền dân sự ........................................... 68
2.1.3. Tư tưởng của John Locke về vai trò của nhân dân trong chính quyền dân sự ..... 93
2.2. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE ..................... 103

2.2.1. Triết học chính trị của John Locke thể hiện sự thỏa hiệp giai cấp của các lực lượng
chính trị cơ bản trong xã hội nước Anh thời kỳ “cách mạng vinh quang 1688” ............ 103
2.2.2. Triết học chính trị của John Locke thể hiện quan điểm duy tâm về lịch sử,
đồng thời chứa đựng yếu tố tự nhiên thần luận ....................................................... 107
2.2.3. Triết học chính trị của John Locke thể hiện tính kế thừa và tính nhân văn..... 110
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................. 115
Chƣơng 3. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC
CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY ................................ 118
3.1. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE ................ 118


3.1.1. Giá trị của triết học chính trị John Locke...................................................... 118
3.1.2. Hạn chế của triết học chính trị John Locke .................................................. 142
3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE VỚI VIỆC XÂY
DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY ...... 149

3.2.1. Triết học chính trị của John Locke là bài học kinh nghiệm lịch sử quý báu đối

với việc tiếp tục hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Quốc hội trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ........................................................................... 152
3.2.2. Cách tiếp cận của John Locke về “chủ quyền nhân dân” là bài học kinh
nghiệm lịch sử thiết thực trong việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................ 167
Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................. 182
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................ 186
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 191
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN....................................................................................... 198
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 199


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
John Locke là một đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII
và là người mở đường cho phong trào Khai sáng của châu Âu cận đại. Tư tưởng của
ơng có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với triết học Tây Âu thời cận đại nói chung và
phong trào Khai sáng Pháp nói riêng. Đề cập đến tầm ảnh hưởng của J.Locke đối với
phong trào Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, Karl Marx đã khẳng định: “Chủ nghĩa duy
vật Pháp có hai phái: một phái bắt nguồn từ Đêcáctơ, một phái bắt nguồn từ Lốccơ.
Phái thứ hai thì chủ yếu là một yếu tố của văn hóa Pháp và trực tiếp dẫn tới chủ nghĩa
xã hội; còn phái kia là chủ nghĩa duy vật máy móc, nó hịa vào trong khoa học tự
nhiên Pháp” (C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 2, 2005, tr. 191). Chúng ta có thể tìm thấy
dấu ấn của J.Locke trong tư tưởng của những người mở đường, thế hệ thứ nhất của
phong trào Khai sáng Pháp như F.M.Voltaire (1694 - 1778), Ch.L.Montesquieu
(1689 - 1755) và ở nhà khai sáng tiêu biểu của thế hệ thứ hai, đồng thời là đại biểu
cấp tiến nhất của phong trào này là J.J.Rousseau (1712 - 1778).

Mặc dù chủ đề chính trong hệ thống triết học của J.Locke là nhận thức luận
nhưng triết học chính trị mới là yếu tố thực sự làm nên dấu ấn của J.Locke trong
lịch sử tư tưởng nhân loại. Xét đến cùng, nhận thức luận duy nghiệm của J.Locke
cũng chỉ để hướng đến cách tiếp cận và luận giải về một nhà nước hợp lý tính, hợp
nhân tính, mang tính khả dụng cho con người, với mục tiêu cao cả là đưa con người
cá nhân (và ở góc độ nào đó, là tồn bộ xã hội loài người) đạt đến trạng thái tự do
hoàn bị nhất.
Triết học chính trị của J.Locke là hệ thống các quan điểm về vai trị và bản
chất của chính quyền nhà nước; về quan hệ giữa nhà nước với nhân dân; về cách thức
tổ chức quyền lực nhà nước cùng các giá trị, lý tưởng chính trị như: tự do, dân chủ,
nhân quyền. Đây cũng là các chủ đề trọng yếu của triết học chính trị hiện đại và cũng
là các vấn đề nổi bật trong sự vận động của hiện thực chính trị - xã hội ở hầu hết các
nhà nước pháp quyền trên thế giới hiện nay. Không chỉ tạo ra những ảnh hưởng sâu
sắc đối với môi trường học thuật và hiện thực chính trị - xã hội ở các nước châu Âu


2

đương thời, những tư tưởng triết học chính trị do J.Locke khởi xướng tiếp tục để lại
những dấu ấn đậm nét trong việc định hình và phát triển các thể chế chính trị, dân chủ
ở châu Âu hiện đại nói riêng và thế giới nói chung. Hiện nay, nhiều tư tưởng triết học
chính trị của J.Locke vẫn đang được ghi nhận một cách trang trọng trong các bản
tuyên ngôn, hiến pháp và trở thành những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy
nhà nước của nhiều nước pháp quyền trên thế giới ở các mức độ khác nhau. Đồng
thời rất nhiều nước đã xem việc áp dụng và thực hiện trong thực tiễn những tư tưởng
triết học chính trị do các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng khởi xướng, trong đó có
J.Locke, là điều kiện và tiêu chuẩn của nền dân chủ hiện đại.
Ở Việt Nam, mặc dù khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới
được nêu lên lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII vào tháng 6 năm
1997 (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1997, tr.40), nhưng những tư tưởng về nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã sớm được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam đề cập đến ngay từ giai đoạn bắt đầu xây dựng nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (thể hiện ngay trong bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945). Chủ
trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định nhất quán trong các cương lĩnh, nghị quyết qua các kỳ đại
hội Đảng (từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XII) cũng như trong
các bản Hiến pháp đã cơng bố.
Trong q trình cách mạng ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx - Lenin và tiếp thu có
chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại về nhà nước pháp quyền nhằm xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Qua hơn 30 năm đổi mới,
quan điểm và thể chế nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng Cộng
sản Việt Nam bổ sung, hoàn thiện từng bước và cơ bản. Chúng ta đã xây dựng được
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính phổ biến và tính
đặc thù đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước, phát huy khối đại đoàn kết
dân tộc, đảm bảo và mở rộng dân chủ cho nhân dân.
Tuy nhiên, vì “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề
mới đối với nước ta”, lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa hoàn


3

thiện nên trong trong thời gian qua, “Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các
thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa … còn những
điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả … làm ảnh hưởng tới sự thống nhất
quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2016, tr.173). Những hạn chế này là một trong những nguyên nhân khiến cho
sự phát triển đất nước chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực
được huy động (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr.67-68).
Do đó, để có thể hồn thành mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị vững

mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội, phát triển kinh tế nhanh,
bền vững, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn phát triển hiện nay
của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ đổi mới tồn diện trên tất
cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Trong đổi mới hệ thống chính
trị, nhiệm vụ trọng tâm là “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 175). Khi
đưa ra nhiệm vụ này, Đảng ta thể hiện rõ quan điểm gắn kết giữa xây dựng đi đơi
với hồn thiện trong q trình đổi mới hệ thống chính trị. Q trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành song song với quá trình hồn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì mới có thể làm cho mơ hình, chức
năng, nhiệm vụ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng hoàn
chỉnh hơn, bảo đảm cho hệ thống chính trị hoạt động đáp ứng được những yêu cầu
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Để hiện thực hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về yêu cầu xây dựng,
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc tìm hiểu mối liên hệ về lý
thuyết, mơ hình nhà nước pháp quyền giữa hiện đại và quá khứ, từ đó kế thừa và
phát huy các giá trị trong lịch sử là điều hết sức cần thiết. Vì vậy, nghiên cứu, đánh
giá và kế thừa, phát triển các “hạt nhân hợp lý” trong tư tưởng triết học chính trị của
J.Locke có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn đối với việc xây dựng,
củng cố, hoàn thiện các cơ chế chính trị, pháp lý nhằm nâng cao và phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân cũng như phát huy tối đa vai trò, chức năng của các cơ quan
quyền lực trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc


4

nghiên cứu này càng có ý nghĩa khi nhu cầu dân chủ và thành lập, củng cố nhà nước
dân chủ đang là xu hướng chủ đạo trong q trình tồn cầu hóa hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, nghiên cứu sinh chọn “Triết học chính trị của John
Locke với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm đề

tài luận án của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Triết học chính trị của J.Locke là một chủ đề thu hút sự quan tâm, nghiên
cứu của đông đảo giới học giả trên thế giới. Hầu hết những cơng trình nghiên cứu
về J.Locke mà nghiên cứu sinh tiếp cận được đều đánh giá cao những tư tưởng triết
học chính trị cơ bản của ông. Đặc biệt là những tư tưởng về quyền con người, về
học thuyết khế ước xã hội, về cơ cấu và vai trị của chính quyền, về vai trị của nhân
dân đối với chính quyền. Sự đánh giá của các nhà nghiên cứu về các tư tưởng triết
học chính trị của J.Locke đơi khi khơng thể hiện ở những đánh giá, nhận xét cụ thể
mà ở việc lựa chọn trích dịch hoặc trích dẫn những tư tưởng chủ đạo của J.Locke để
giới thiệu với đông đảo công chúng.
Các cơng trình nghiên cứu về triết học chính trị J.Locke ở trong nước và ở
nước ngoài thường tập trung vào hai hướng: một là, các cơng trình giới thiệu,
nghiên cứu một số nội dung cơ bản của triết học chính trị J.Locke, đánh giá những
mặt tích cực và hạn chế của triết học chính trị J.Locke; hai là, các cơng trình nghiên
cứu có sự liên hệ, gắn kết một số tư tưởng cơ bản trong triết học chính trị J.Locke
với q trình xây dựng, hồn thiện nhà nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam nói riêng.
Về hướng thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về triết học chính trị
J.Locke đã công bố trong nước (do học giả trong nước viết và của học giả nước
ngoài đã được dịch sang tiếng Việt) bao gồm:
Tác phẩm Đại cương Triết học Tây phương (Nguyễn Ước, 2009). Trong tác
phẩm này, Nguyễn Ước đã phân tích khái quát tư tưởng chính quyền đại biểu cũng
như vai trị quyết định của nhân dân đối với chính quyền của J.Locke. Tác giả
khẳng định lập luận của J.Locke về khế ước xã hội đã cổ vũ cho thể chế dân chủ đại
biểu (kẻ cai trị phải chịu trách nhiệm trước những người đã đưa họ lên nắm chính


5


quyền). Chính quyền phải do dân chúng thiết lập và điều hành vì phúc lợi của nhân
dân. Các quyết định của chính quyền phải phản ánh nguyện vọng của đa số dân
chúng, khi kẻ cai trị không tạo được phúc lợi cho những người dân tham gia kế ước
xã hội thì nên để dân chúng có quyền thay thế các kẻ cai trị ấy bằng kẻ cai trị khác.
Tác giả cho rằng: “đối với J.Locke, sự biện minh đạo đức cho hành động của một
quốc gia là lý thuyết đạo đức và mang tính duy thực lợi chủ nghĩa (utilitarianism).
Thuyết này chủ trương rằng một lý thuyết đúng nếu nó tạo phúc lợi hoặc hữu ích
đối với hầu hết dân chúng, nghĩa là “mưu tìm cái thiện cao cả nhất là cái phục vụ
cho số lượng lớn nhất” (Nguyễn Ước, 2009).
Tác phẩm Lịch sử Triết học Phương Tây, tập 1 (Đinh Ngọc Thạch - Dỗn
Chính, 2018). Đây là một cơng trình nghiên cứu đồ sộ về lịch sử triết học phương
Tây từ triết học cổ đại đến triết học cổ điển Đức. Trong cơng trình này, khi đề cập
đến triết học Anh thế kỷ XVII, các tác giả đã khảo cứu khá sâu sắc các quan điểm
triết học xã hội của J.locke thể hiện tập trung trong tác phẩm Hai khảo luận về
chính quyền. Đồng thời, có sự so sánh, đối chiếu giữa J.Locke với T.Hobbes trong
các quan điểm về trạng thái tự nhiên và tính tất yếu ra đời của nhà nước thông qua
khế ước xã hội, các quyền tự nhiên của con người (đặc biệt là quyền tự do), tư
tưởng phân quyền, về quyền lực của nhân dân. Các tác giả nhận định về triết học
chính trị của J.Locke như sau: “cách đặt vấn đề về nguyên tắc phân quyền, về quyền
con người, về quyền lực của nhân dân, là sự gợi mở tích cực cho tư tưởng Khai sáng
Pháp thế kỷ XVIII, và từ phong trào đó, đến với tư tưởng xã hội chủ nghĩa, như
nhận định của C.Mác trong tác phẩm Gia đình thần thánh” (Đinh Ngọc Thạch và
Dỗn Chính, 2018, tr.681).
Trong tác phẩm Đại cương lịch sử Triết học Phương Tây (Đỗ Minh Hợp,
Nguyễn Thanh và Nguyễn Anh Tuấn, 2006), các tác giả đã đề cập khái quát đến
học thuyết về quyền tự nhiên của J.Locke. Đồng thời, sau khi trình bày khái quát
quan điểm phân quyền của J.Locke và tinh thần khoan dung chính trị của ông, các
tác giả khẳng định: “Lốc cơ đã phác họa ra những đặc điểm chung của nhà nước
pháp quyền, đã luận chứng cho nguyên tắc phân quyền. Qua đó, ơng đã đặt nền
móng cho chế độ nhà nước dân chủ tự do đứng đối lập với chế độ quân phiệt, chế



6

độ chuyên chế và nền bạo chính” (Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh và Nguyễn Anh
Tuấn, 2006, tr.402).
Trong tác phẩm Lịch sử các tư tưởng chính trị (Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh và Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, 2001), các tác giả giới thiệu,
trích tuyển một số luận điểm liên quan đến tư tưởng chính trị của J.Locke trong tác
phẩm Hai khảo luận về chính quyền. Thơng qua việc phân tích khái lược các tư
tưởng về quyền con người, về nhà nước, pháp luật của J.Locke, các tác giả cũng đưa
ra một số nhận định về vị trí, vai trị của tư tưởng chính trị J.Locke trong lịch sử tư
tưởng chính trị thế giới thời kỳ cận đại và cả hiện đại.
Trong cơng trình nghiên cứu Lịch sử Triết học và các luận đề (Stumpf,
2007), Samuel Enoch Stumpf tập trung trích dẫn và giới thiệu khái quát một số tư
tưởng triết học chính trị của J.Locke. Đó là tư tưởng về việc xây dựng nhà nước vừa
hợp lý tính, đồng thời hợp nhân tính cho con người; quan niệm về các quyền tự
nhiên của con người, đặc biệt là quyền tư hữu; tư tưởng xây dựng xã hội dân sự trên
cơ sở đồng thuận của người dân, tức là trên cơ sở khế ước xã hội; về vai trò, chức
năng, phạm vi hoạt động của cơ quan lập pháp …
Bernard Morichere và nhóm giáo sư triết học các trường đại học Pháp trong
tác phẩm Triết học Tây phương từ khởi thủy đến đương đại (Bernard Morichere &
nhóm giáo sư triết học các trường đại học Pháp, 2010) khơng phân tích những tư
tưởng triết học chính trị của J.Locke mà chỉ tập trung trích dẫn chương II và chương
III trong tác phẩm Khảo luận thứ hai. Đây là các chương đề cập đến trạng thái tự
nhiên, về quyền tư hữu, về sự khởi đầu của các xã hội chính trị, về các mục đích của
xã hội chính trị và chính quyền.
Trong tác phẩm Hành trình khám phá thế giới Triết học Phương Tây
(Lawhead, 2012), William F.Lawhead đã phân tích khái quát tư tưởng của J.Locke
về các vấn đề như: tầm quan trọng và tính tất yếu cần thiết của học thuyết khế ước

xã hội cũng như vai trò chủ thể quyền lực của nhân dân đối với khế ước xã hội; về
giới hạn chức năng và phạm vi hoạt động của chính quyền (chính phủ là khơng
được vượt q lợi ích chung); vai trị tối thượng của nhân dân đối với chính quyền
bởi chính quyền ra đời từ khế ước xã hội và do đó, chính quyền phải hoạt động theo


7

nguyên tắc đa số. Từ sự phân tích khái quát những tư tưởng trên, William
F.Lawheads nhận xét: J.Locke đã dùng phương pháp đan kết triết học chính trị
giống như T.Hobbes đã làm nhưng quan niệm về trạng thái tự nhiên của J.Locke
không quá bi quan như T.Hobbes. Tác giả khẳng định, J.Locke là nhà lý thuyết về
luật tự nhiên và lý thuyết này có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với sự ra đời của hiến
pháp cũng như bản Tuyên bố nhân quyền của nước Mỹ.
Trong tác phẩm Câu chuyện Triết học (Magee, 2003), Bryan Magee chủ yếu
giới thiệu khái quát quan niệm của J.Locke về trạng thái tự nhiên của xã hội loài
người trong sự so sánh với quan niệm về trạng thái tự nhiên của T.Hobbes. Từ đó,
tác giả tiếp tục đề cập đến tư tưởng của J.Locke về nguồn gốc, mục đích ra đời và
tính cần thiết của chính quyền dân sự (để bảo tồn các quyền cơ bản của con
người); về tư tưởng khoan dung tôn giáo và khoan dung chính trị của J.Locke. Khi
đề cập đến đến ảnh hưởng của J.Locke đối với Montesquieu và với các cuộc cách
mạng dân chủ tư sản trên thế giới, Bryan Magee khẳng định: “ông là một ảnh hưởng
chủ yếu trong các cuộc cách mạng Mỹ và Pháp” (Magee, 2003, tr.133).
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx - Lenin cũng có những tác phẩm đề
cập đến tư tưởng triết học nói chung của J.Locke, chẳng hạn tác phẩm Gia đình
thần thánh (C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 2, 2005), Luận cương về Feuerbach (C.Mác
và Ph.Ăngghen, tập 3, 2005), Chống Duhring (C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 20,
2005), Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (C.Mác và
Ph.Ăngghen, tập 21, 2005). Trong các tác phẩm này, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Marx - Lenin chủ yếu đề cập sơ bộ tính chế định lịch sử đối với tư tưởng

J.Locke và vai trò của J.Locke với tư cách là nhà triết học duy vật, “cha đẻ của chủ
nghĩa tự do”, người khởi xướng nhận thức luận duy nghiệm đối với triết học Khai
sáng Pháp thế kỷ XVIII và một số triết gia, nhà tư tưởng sau này. Riêng những tư
tưởng triết học chính trị của J.Locke khơng được các nhà kinh điển đề cập đến một
cách cụ thể. Vì vậy, khó có thể tìm thấy những nhận xét, đánh giá của các nhà kinh
điển về những tư tưởng triết học chính trị của J.Locke.
Trong một số cơng trình luận án Tiến sĩ đã cơng bố như: Triết học chính trị
Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam


8

(Lê Tuấn Huy, 2005); Triết học chính trị của John Stuart Mill - giá trị và bài học
lịch sử (Ngô Thị Như, 2013); Triết học chính trị Jean Jacquest Rousseau và ý nghĩa
lịch sử của nó (Dương Thị Ngọc Dung, 2009); Tư tưởng về quyền con người trong
triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII với vấn đề bảo vệ và phát huy quyền con
người ở Việt Nam hiện nay (Nguyễn Quỳnh Anh, 2018) … các tác giả đã đề cập
khái lược tư tưởng về quyền tự nhiên, tư tưởng phân quyền, tư tưởng về chủ quyền
của nhân dân đối với nhà nước và xã hội của J.Locke … để dẫn luận cho vai trò tiền
đề cũng như mối liên hệ giữa tư tưởng triết học chính trị của J.Locke với tư tưởng
triết học chính trị của John Stuart Mill, Montesquieu, Jean Jacquest Rousseau và các
nhà khai sáng Pháp khác. Đồng thời các tác giả cũng đã có sự so sánh một số điểm
khác nhau cơ bản trong quan niệm về quyền con người trong xã hội dân sự giữa
J.Locke và T.Hobbes … Từ đó, các tác giả đã đưa ra một số đánh giá khái quát về
vai trò của triết học chính trị J.Locke đối với sự ra đời và phát triển lý luận về nhà
nước dân chủ, nhà nước pháp quyền.
Trên các tạp chí Triết học, Luật học, Nhà nước và Pháp luật, Lý luận chính
trị, Nghiên cứu Con người … cũng có một số bài viết đề cập đến J.Locke như Tìm
hiểu tư tưởng về nhà nước và phân chia quyền lực nhà nước của John Locke
(Nguyễn Thị Hồi, 1996); Locke và Triết lý về con người (Lê Công Sự, 2009) …

Hầu hết các bài viết này chỉ tập trung giới thiệu khái quát thân thế, sự nghiệp hoặc
luận giải sơ lược một vài tư tưởng triết học chính trị của J.Locke. Trong số các bài
báo khoa học đã công bố, nổi bật nhất là bài viết Một số tư tưởng triết học chính trị
của Gi.Lốccơ: Thực chất và ý nghĩa lịch sử của PGS, TS. Đinh Ngọc Thạch cơng
bố trên tạp chí Triết học (Đinh Ngọc Thạch, 2007). Đây là một bài viết “hiếm hoi”
luận giải sâu sắc về một số tư tưởng triết học chính trị cơ bản của J.Locke dưới lăng
kính triết học chính trị. Trong bài viết này, PGS, TS. Đinh Ngọc Thạch không
những xác định, luận giả thực chất và ý nghĩa lịch sử các quan điểm về khế ước xã
hội, về quyền con người, về vai trò của nhà nước cũng như thuyết phân quyền của
J.Locke mà còn so sánh những tư tưởng triết học chính trị của J.Locke với tư tưởng
của các nhà triết học trước và sau ông như T.Hobbes, Voltare, Montesquieu,
Rousseau … Bài viết thực sự là những gợi mở vô cùng quý báu đối với nghiên cứu


9

sinh nói riêng và giới nghiên cứu lý luận nói chung trong việc tiếp cận với những tư
tưởng triết học chính trị độc đáo của J.Locke.
Các cơng trình tiêu biểu về triết học J.Locke đã cơng bố ở nước ngồi (tiếng
Anh) mà nghiên cứu sinh tiếp cận được, có thể kể đến các cơng trình như:
Trong tác phẩm John Locke (Uzgalis, 2001), William Uzgalis đã trình bày
chi tiết tiểu sử cùng quá trình hình thành và phát triển những tư tưởng triết học chủ
đạo của John Locke. Cùng với việc phân tích những tư tưởng cơ bản trong nhận
thức luận, William Uzgalis quan tâm đặc biệt đến triết học chính trị và giáo dục của
J. J.Locke. Các tác phẩm chủ đạo của triết học chính trị J.Locke được William
Uzgalis xem xét từ góc độ giá trị, qua đó làm nổi bật vị trí của J.Locke trong triết
học chính trị, sự tương đồng và khác biệt giữa J.Locke và T.Hobbes trong quan
điểm khế ước xã hội, bản chất của con người, chủ quyền nhân dân, nền dân chủ và
vấn đề tôn giáo. Cũng như K.Marx, tác giả cuốn sách xem xét J.Locke như người
sáng lập chủ nghĩa tự do hiện đại.

Tác giả Karen I.Vaughn trong cuốn John

oc e:

conomist and Social

Scientist John oc e: Nhà inh tế và nhà hoa học xã hội) (Vaughn, 1984) đã giới
thiệu khái quát một số giá trị cơ bản trong hệ thống lý luận của J.Locke. Trong cơng
trình này, tác giả đã tập trung giới thiệu lý thuyết về giá trị với hạt nhân là khái
niệm tiền tệ và lý thuyết định lượng tiền tệ, qua đó tác giả đã nhấn mạnh những tư
tưởng của J.Locke về vai trò, tầm quan trọng của lao động, sở hữu ... đối với sự ra
đời và phát triển của các quốc gia. Karen I.Vaughn cũng giới thiệu khái quát về
những tư tưởng triết học chính trị nổi bật trong tác phẩm triết học chính trị “Hai
khảo luận về chính quyền”. Bên cạnh đó, tác giả cũng trình bày khái quát cả những
tư tưởng cơ bản của J.Locke về giáo dục, tơn giáo, từ đó khẳng định sự ảnh hưởng,
vị thế của J.Locke trong lịch sử tư tưởng chính trị – xã hội châu

u cận đại nói

riêng và khoa học xã hội nói chung.
Tác giả Alexander Moseley trong cuốn John Locke: Continuum Library of
Educational Thought (John Loc e: Tư tưởng Giáo dục) (Moseley, 2007) đã tập
trung giới thiệu và phân tích tư tưởng giáo dục tồn diện bao gồm trí dục, đức dục,
thể dục, trong đó đặc biệt đề cao vai trị đức dục của J.Locke. Thơng qua việc lược


10

khảo các tư tưởng trên, Alexander Moseley đã trình bày mối liên hệ giữa tư tưởng
giáo dục và tư tưởng chính trị cũng như khát vọng xây dựng một chế độ xã hội với

những con người – công dân hội tụ cả nhân tính và lý tính của J.Locke. Đồng thời,
tác giả cũng đã phân tích sự ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục và chính trị của
J.Locke đến các nhà tư tưởng cùng hiện thực nước Anh và châu

u đương thời

cũng như hiện thực phát triển giáo dục, chính trị trong thời đại ngày nay.
Trong tác phẩm The Cambridge Companion to Locke (Hành trình cùng Locke)
do Vere Chappell chủ biên (Chappell, 1994), tác giả đã khảo lược về tiểu sử, đặc
biệt là các mốc thời gian quan trọng gắn với các sự kiện chính trị, xã hội nổi bật của
nước Anh và châu Âu dẫn đến những bước ngoặt chuyển biến tư tưởng triết học của
J.Locke. Đồng thời, tác giả cũng tập trung lược khảo các tư tưởng cơ bản của
J.Locke về nhận thức luận cùng với một số tư tưởng về đạo đức, giáo dục, tơn giáo,
chính trị. Qua đó, Vere Chappell đã nhấn mạnh đến sự ảnh hưởng của triết học nhận
thức luận duy nghiệm và những tư tưởng độc đáo, sâu sắc về đạo đức, giáo dục, tơn
giáo, chính trị của J.Locke đối với lịch sử triết học châu

u cũng như tiến trình vận

động, phát triển của các nhà nước đương đại.
Về hướng thứ hai, các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu có sự liên hệ, gắn kết
triết học chính trị J.Locke với q trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã được cơng bố chủ yếu là các cơng trình của các học giả trong
nước, bao gồm:
Trong tác phẩm Sự hạn chế quyền lực nhà nước (Nguyễn Đăng Dung, 2006),
Chế ước quyền lực nhà nước (Nguyễn Đăng Dung, 2008), Ý tưởng về một nhà nước
chịu trách nhiệm (Nguyễn Đăng Dung, 2007), Nguyễn Đăng Dung đã đề cập đến lý
thuyết chế ước quyền lực nhà nước của J.Locke và khẳng định J.Locke chính là
người đầu tiên khởi xướng lý thuyết chế ước quyền lực nhà nước mà sau này
Montesquieu và Rousseau tiếp tục khai triển, hoàn thiện. Lý thuyết chế ước quyền lực

nhà nước của J.Locke dựa trên hai nền tảng là quyền tự nhiên của con người và khế
ước xã hội. Nguyễn Đăng Dung cho rằng: học thuyết của J.Locke về sự chế ước
quyền lực đối với chính quyền có ảnh hưởng rất lớn đến hiến pháp Mỹ cũng như hiến
pháp của các nhà nước dân chủ hiện đại. Trong các cơng trình trên, tác giả Nguyễn


11

Đăng Dung cũng phân tích kỹ về vai trị độc lập và nhiệm vụ của ngành tư pháp trong
nhà nước pháp quyền. Đề cập đến tính tất yếu cải cách phương thức hoạt động của cả
ba cơ quan quyền lực ở Việt Nam hiện nay để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
dân chủ trong thời đại mới, Nguyễn Đăng Dung đặc biệt nhấn mạnh đến công tác cải
cách hoạt động của ngành tư pháp, ơng khẳng định Tịa án là “sự chịu chế ước cuối
cùng và nghiêm khắc nhất của nhà nước” (Nguyễn Đăng Dung, 2008, tr. 407).
Trong tác phẩm Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ
máy nhà nước ở một số nước (Nguyễn Thị Hồi, 2005), tư tưởng phân quyền, cách
thức tổ chức quyền lực nhà nước, vai trò và chức năng hoạt động của ba loại quyền
lực lập pháp, hành pháp và liên bang cũng như tính tất yếu của việc chế ước quyền
lực nhà nước của J.Locke đã được Nguyễn Thị Hồi phân tích, kiến giải khái qt
dưới góc độ khoa học pháp lý khá sâu sắc. Theo tác giả, so với những nhà tư tưởng
ở các thời kỳ trước thì tư tưởng phân quyền của J.Locke rõ ràng, cụ thể hơn và thể
hiện một trình độ phát triển cao hơn. Lý thuyết phân quyền của J.Locke cùng với lý
thuyết phân quyền của một số nhà tư tưởng tiêu biểu khác là nền tảng cho học
thuyết phân quyền hiện đại.
Trong tác phẩm Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam (Lê Tuấn Huy, 2006), Lê Tuấn Huy đã đề cập đến một số tư
tưởng triết học chính trị đặc sắc của J.Locke như tư tưởng phân quyền, tinh thần
khoan dung chính trị … Theo Lê Tuấn Huy, những tư tưởng triết học chính trị của
J.Locke chính là tiền đề, sự gợi mở cho việc hình thành những tư tưởng triết học
chính trị của Montesquieu. Từ tư tưởng phân quyền của J.Locke, Montesquieu đã

kế thừa và phát triển thành học thuyết tam quyền phân lập hiện đại.
Trong tác phẩm Góp phần nghiên cứu hiến pháp và nhà nước pháp quyền
(Bùi Ngọc Sơn, 2005), Bùi Ngọc Sơn đã trích dẫn một số nội dung trong tác phẩm
Hai khảo luận về chính quyền như quan niệm về bản tính con người, trạng thái tự
nhiên, khế ước xã hội và thuyết phân quyền. Tác giả cho rằng: “Học thuyết chính trị
của J.Locke là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa lập hiến. Những tư tưởng
về khế ước xã hội, về quyền tự nhiên, về phân quyền của J.Locke có ý nghĩa rất lớn
đối với sự phát triển của Hiến pháp tư sản” (Bùi Ngọc Sơn, 2005, tr. 173). Tác giả


12

Bùi Ngọc Sơn cũng phân tích khái qt vai trị của sự độc lập của Tòa án trong việc
đảm bảo thực hiện các yêu cầu của nhà nước pháp quyền và yêu cầu về sự độc lập
của Tòa án Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền.
Trong tác phẩm Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới
(Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, 2013), ban biên tập dự thảo sửa đổi
Hiến pháp 1992 đã giới thiệu và phân tích khái quát nội dung cơ bản của hiến pháp
và kỹ thuật lập hiến của các nước trên thế giới. Qua đó làm nổi bật nội dung gắn kết
quyền con người (xét ở góc độ quyền tự nhiên) với quyền công dân trong hiến pháp
của các nhà nước hiện đại. Đây cũng một một tài liệu khoa học tham khảo hết sức
hữu ích cho nghiên cứu sinh.
Ngồi các cơng trình trên, nghiên cứu sinh còn tiếp cận các tài liệu đã được
công bố tại các website về Triết học và các website của Chính phủ Việt Nam, Bộ
Tư pháp Việt Nam …về các vấn đề liên quan đến triết học J.Locke và các vấn đề
liên quan đến quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là làm rõ những nội dung, đặc điểm cơ bản cùng những
giá trị, hạn chế của triết học chính trị J.Locke, từ đó rút ra ý nghĩa lý luận và thực

tiễn đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây:
Thứ nhất: luận giải những điều kiện, tiền đề hình thành và q trình phát
triển của triết học chính trị J.Locke.
Thứ hai: phân tích những nội dung, đặc điểm cơ bản của triết học chính
trị J.Locke.
Thứ ba: đánh giá những giá trị và hạn chế của triết học chính trị J.Locke, từ
đó rút ra ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là triết học chính trị J.Locke.


13

Phạm vi nghiên cứu của luận án: căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ đặt ra,
luận án chỉ khảo cứu triết học chính trị J.Locke trên hai phương diện: thứ nhất,
những tư tưởng cơ bản của J.Locke về quyền con người, về chính quyền dân sự và
vai trị của nhân dân trong chính quyền dân sự; thứ hai, ý nghĩa của triết học chính
trị J.Locke đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.
Về mặt cơ sở tư liệu của luận án, trước hết là các tài liệu giới thiệu, trích dẫn
và dịch thuật liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến triết học chính trị của J.Locke.
Tiếp theo là các tài liệu đề cập đến quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam có sự liên hệ, gắn kết với một số tư tưởng triết học chính trị
của J.Locke. Về mặt chuyên ngành, đề tài của luận án được tiếp cận dưới góc độ
lịch sử triết học.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận của luận án: luận án được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới

quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu của luận án: nghiên cứu sinh sử dụng phối hợp một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và phương pháp
tổng hợp, phương pháp lơgic và lịch sử, phương pháp diễn dịch và quy nạp, phương
pháp hệ thống – cấu trúc. Các phương pháp được nghiên cứu sinh sử dụng linh hoạt
ở từng nội dung cụ thể trong luận án để phù hợp với mục đích, u cầu cụ thể của
từng chương. Trong đó, phương pháp hệ thống được sử dụng xuyên suốt luận án
nhằm đảm bảo sự liên hệ, gắn kết các vấn đề, nội dung trong luận án theo một trình
tự, bố cục nhất quán để đạt được mục đích, yêu cầu đã xác định cho luận án.
6. Cái mới của luận án
Đề tài nghiên cứu triết học chính trị của John Locke đạt được những đóng
góp mới như sau:
Thứ nhất: luận án đã hệ thống hóa và làm rõ thêm nội dung triết học chính trị
J.Locke trên ba phương diện cơ bản: quan niệm về các quyền cơ bản của con người;
quan niệm về chính quyền dân sự, quan niệm về vai trị của nhân dân trong chính


14

quyền dân sự. Đồng thời, luận giải, làm rõ những đặc điểm cơ bản của triết học
chính trị J.Locke.
Thứ hai: luận án đã phân tích, đánh giá những giá trị và hạn chế cơ bản trong
triết học chính trị của J.Locke. Trên cơ sở đó, rút ra ý nghĩa lý luận và thực tiễn từ
triết học chính trị J.Locke đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Ý nghĩa hoa học: luận án góp phần luận giải, làm sâu sắc thêm quá trình
hình thành và nội dung, đặc điểm cơ bản của triết học chính trị J.Locke. Đồng thời
làm rõ những giá trị, hạn chế của triết học chính trị J.Locke đối với sự phát triển của

lịch sử tư tưởng nhân loại và ý nghĩa của nó đối với cơng cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo đối với quá trình xây dựng, củng cố hệ thống chính trị và hồn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Luận án cũng có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho cơng tác nghiên cứu, giảng dạy về triết học chính
trị phương Tây thời kỳ cận, hiện đại.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án có
kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.


15

Chƣơng 1
ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦATRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE
1.1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ JOHN LOCKE

1.1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội hình thành triết học chính trị
John Locke
Nội dung và đặc điểm của triết học chính trị J.Locke được hình thành dưới tác
động của các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội nước Anh và Tây u thế kỷ XVII.
Trong sự phát triển Tây u cận đại, giai đoạn Anh có ý nghĩa đặc biệt, góp phần to
lớn vào sự biến đổi không chỉ diện mạo châu

u mà cả diện mạo của thế giới.

J.Locke nắm bắt được những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị - xã hội của
nước Anh cũng như của Tây u thời ấy, từ đó xây dựng một triết lý chính trị phản

ánh trung thực những biến đổi của thực tiễn, đồng thời gợi mở những ý tưởng tích
cực cho q trình phát triển xã hội.
Điều kiện kinh tế của nước Anh vào thế kỷ XVII
Những chuyển biến tích cực trong đời sống kinh tế của nước Anh được bắt
đầu từ rất sớm, ngay cuối thời trung cổ, khi công xưởng thủ cơng hình thành, thay
thế phường hội, và tiếp đó là q trình tích lũy ngun thủy tư bản chủ nghĩa. Đến
thế kỷ XVII, sự phát triển của ngành công – thương nghiệp ở nước Anh cùng sự
xâm nhập của chủ nghĩa tư bản vào nông nghiệp đã tạo nên những thay đổi rõ rệt
trong đời sống xã hội nói chung và kinh tế nói riêng.
Ngay từ thế kỷ XVI, nhiều ngành sản xuất ở nước Anh đã sử dụng hình thức
công trường thủ công phân tán. Đến thế kỷ XVII, nhiều ngành sản xuất đã tiến lên
giai đoạn công trường thủ công tập trung quy mô lớn với hàng ngàn người lao động
làm thuê. Hình thức lao động sản xuất tập trung với quy mô lớn đã làm cho năng
suất lao động tăng lên, sản phẩm được làm ra không những đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ trong nước mà còn phục vụ cho mục đích xuất khẩu ra nước ngồi. Thơng qua
sự bóc lột tàn nhẫn người lao động làm thuê, tài sản của những phần tử thuộc tầng
lớp trên trong những hội ngành nghề, tức là giới chủ của các công trường thủ công


16

cũng tăng lên nhanh chóng. Từ đó, họ khơng ngừng đầu tư cải tiến công cụ lao
động, đổi mới phương pháp sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh.
Chính vì vậy, cơng trường thủ cơng của họ đã dần dần mang tính chất cơng trường
thủ cơng tư bản chủ nghĩa.
Sự thay đổi về quy mô và phương pháp sản xuất đã thúc đẩy ngành công
nghiệp nước Anh phát triển vượt bậc so với những thời kỳ trước, bất chấp những
rào cản do chế độ quân chủ chuyên chế ở nước Anh cố tình tạo ra. Trong khoảng
100 năm (1551 – 1651), sản lượng khai thác than của nước Anh tăng lên 14 lần.
Đến giữa thế kỷ XVII, sản lượng khai thác than của nước Anh chiếm 4/5 sản lượng

than đá toàn châu

u. Cùng trong thời gian này, việc khai thác quặng sắt tăng hai

lần, kẽm, đồng, chì, muối tăng 6 - 8 lần. Nghề đóng tàu, sản xuất đồ gốm và kim khí
cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn. Đáng chú ý nhất là ngành công nghiệp dệt
len. Đây là một ngành sản xuất lâu đời ở nước Anh và đến thế kỷ XVII đã lan rộng
ra toàn quốc. Năm 1614, việc xuất khẩu len dạng thơ bị cấm. Nhờ đó cơng nghiệp
dệt len tăng lên mạnh mẽ và nước Anh trở thành nước chủ yếu cung cấp hàng hóa
bằng len cho tồn bộ thị trường châu

u. Bên cạnh các ngành sản xuất truyền

thống, trong nền kinh tế Anh đã xuất hiện những ngành sản xuất mới như bơng,
giấy, tơ lụa, thủy tinh, xà phịng …
Thương nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn nhờ sự phát triển của
các công trường thủ công và sự bành trướng của ngành hàng hải. Thương nhân Anh
mở rộng buôn bán với thị trường thế giới, thành lập hàng loạt công ty thương mại
(tiêu biểu nhất là công ty “Đông Ấn Độ” được thành lập vào năm 1600), đặt nhiều
thương điếm hoạt động rộng khắp từ Baltique đến châu Phi, từ Trung Quốc đến
châu Mỹ và cạnh tranh kịch liệt với thương nhân Hà Lan, Pháp. Đến thời kỳ cách
mạng tư sản Anh, sự lưu thông về ngoại thương đã tăng gấp hai lần so với đầu thế
kỷ XVII. Sự phát triển của công – thương nghiệp cũng đã thúc đẩy ngành tài chính
phát triển theo. Ngay từ năm 1568, sở giao dịch của chính phủ Anh được thành lập
và có tầm ảnh hưởng rộng khắp châu

u. Đến thế kỷ XVII, các ngân hàng ở nước

Anh phát triển nhanh chóng, thực hiện chức năng cho các tư nhân gửi tiền, vay tiền
và mở tài khoản tín dụng đối ngoại và nghiệp vụ chuyển đổi tiền tệ giữa các nước.



17

Tốc độ phát triển của công nghiệp và sự gia tăng tài sản của các nhà tư bản tỷ
lệ nghịch với đời sống của công nhân làm thuê trong các công trường thủ công. Đời
sống của người công nhân rất nghèo khổ, tiền lương không đủ đảm bảo những nhu
cầu cơ bản của cuộc sống vì họ phải chịu tình cảnh “một cổ hai tròng”: vừa bị giai
cấp tư sản bóc lột, vừa bị chế độ phong kiến áp bức.
Mặc dù cơng - thương nghiệp đã có những bước phát triển đáng kể nhưng
nước Anh đến đầu thế kỷ XVII về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp. Nông
nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Đến năm 1665, tư bản nông
nghiệp của nước Anh bao gồm ruộng đất, nhà cửa và nơng cụ có tổng giá trị là 210
triệu bảng Anh, trong khi đó, giá trị tư bản của các ngành khác (kể cả công, thương
nghiệp) chỉ tương đương 40 triệu bảng Anh. Trong số 5 triệu rưỡi cư dân nước Anh
lúc bấy giờ, chỉ có 1/5 ở thành thị, cịn 4/5 ở nơng thơn. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XV,
phong trào khoanh chiếm ruộng đất do giới địa chủ khởi xướng đã diễn ra tại các
vùng nơng thơn rộng lớn ở phía đơng và phía đơng nam nước Anh. Đến cuối thế kỷ
XVI, đầu thế kỷ VII, do giá cả lương thực, thực phẩm cùng nhu cầu về nguyên liệu
cho ngành công nghiệp dệt len tăng cao dẫn đến nhu cầu thành lập các nơng trường
quy mơ lớn để chun mơn hóa sản xuất nông nghiệp và cung ứng nguyên liệu cho
công nghiệp tăng vọt. Đồng thời, do sự chênh lệch ngày càng lớn giữa địa tô phong
kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa nên giới địa chủ đã đẩy mạnh phong trào khoanh
chiếm ruộng đất một cách quyết liệt. Phong trào khoanh chiếm ruộng đất đã dẫn đến
những hệ quả to lớn: thứ nhất, nó làm cho những người trực tiếp sản xuất trong
nông nghiệp (nông dân) và tư liệu sản xuất (ruộng đất) bị tách rời nhau, khiến nước
Anh trở thành một quốc gia điển hình trong việc tích lũy tư bản nguyên thủy.
Những nông dân bị tước đoạt ruộng đất trở thành nguồn cung cấp sức lao động cho
các nhà tư bản công nghiệp, đồng thời tạo ra thị trường cho cơng nghiệp; thứ hai,
xóa bỏ tính tự cấp tự túc, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ – vốn là đặc trưng của nền

kinh tế phong kiến lạc hậu, đưa đến sự xuất hiện nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở
nông thôn nước Anh. Giới địa chủ sau khi khoanh chiếm đất đai vẫn thường đem số
đất chiếm được cho nhà tư bản nông nghiệp thuê. Địa tô mà địa chủ thu được từ
việc cho những nhà tư bản nông nghiệp thuê ruộng đất không phải là địa tô phong


18

kiến nữa mà là địa tô tư bản chủ nghĩa. Một số địa chủ tự sản xuất, kinh doanh trong
lĩnh vực nơng nghiệp theo mơ hình nơng trường quy mơ lớn, tương đương các công
trường thủ công trong công nghiệp, qua đó, tự họ đã chuyển hóa thành nhà tư bản
nông nghiệp. Tuy nhiên, phong trào khoanh chiếm đất đai cũng như sự xâm nhập
của chủ nghĩa tư bản vào nơng nghiệp chỉ mới giới hạn trong vùng phía tây nam và
phía đơng, đơng nam nước Anh. Riêng vùng nơng thơn phía bắc và tây bắc nước
Anh, nền nơng nghiệp truyền thống, lạc hậu vẫn còn tồn tại phổ biến. Nơng dân
phải nộp tơ cho địa chủ theo diện tích ruộng đất mà họ đang canh tác, cho dù chỉ
canh tác trên đất đai hoang hóa vơ chủ hay canh tác trên ruộng đất của công xã. Họ
không được tự ý bán hoặc trao đổi phần đất của mình mà chỉ được truyền lại cho
con cháu sau khi đã nộp tơ kế thừa và được địa chủ cho phép. Ngồi địa tơ, nơng
dân cịn phải nộp rất nhiều loại thuế và phải làm phu dịch không công cho địa chủ.
Đến thế kỷ XVII, vì ảnh hưởng của cuộc “cách mạng giá cả”, giá trị tiền tệ giảm sút
nên nhiều địa chủ ở các vùng này đã tăng địa tô phong kiến lên gấp nhiều lần so với
trước. Do đó, tình trạng bóc lột nơng dân càng diễn ra nặng nề hơn.
Chính vì mức độ xâm nhập vào nơng nghiệp của chủ nghĩa tư bản rất cao nên
mặc dù công, thương nghiệp không phát triển bằng một số nước như Pháp, Hà Lan,
nhưng sự phát triển chung của chủ nghĩa tư bản tại Anh giai đoạn thế kỷ XVII lại
đạt được những thành tựu to lớn hơn các nước khác ở châu u.
Thực tiễn phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thông qua sự
phát triển của công, thương nghiệp và sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản vào nông
nghiệp đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với phương thức sản xuất phong kiến vốn

đang được bảo trợ bởi chế độ quân chủ chuyên chế thủ cựu. Đây là nguồn gốc cho
những mâu thuẫn, xung đột gay gắt về giai cấp, chính trị, tơn giáo trong xã hội nước
Anh lúc bấy giờ.
Những biến đổi mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã tác động sâu sắc đến
những tư tưởng chủ đạo trong triết học chính trị của J.Locke. Để phản kháng lại chế
độ quân chủ chuyên chế với chính sách phát triển kinh tế độc đốn, kìm hãm quyền
tự do kinh doanh và sở hữu của người dân, J.Locke khẳng định quyền tự do, quyền
sở hữu là những các quyền cơ bản của con người, đây là quyền tự nhiên thiêng liêng


19

do chúa trời ban tặng, vì vậy khơng một cá nhân nào có quyền tước đoạt hoặc xâm
phạm (Locke, 2017, tr. 395). “Bảo tồn sở hữu là mục đích của chính quyền”, vì
vậy, vai trị và trách nhiệm của nhà nước là phải đảm bảo sự an toàn cho các quyền
tự nhiên của cơng dân. Xét ở góc độ kinh tế, nhà nước phải đóng vai trị là cơng cụ
điều tiết nền kinh tế chứ không phải là công cụ của giai cấp cầm quyền dùng để bóc
lột nhân dân qua các chính sách thuế khóa mang tính áp đặt, cưỡng bức (Locke,
2017, tr. 362).
Điều kiện chính trị - xã hội của nước Anh vào thế kỷ XVII
Đặc điểm của sự phát triển kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến sự phân bố
lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội vốn rất phức tạp ở nước Anh lúc bấy giờ
cũng như những xung đột về lợi ích và tư tưởng của giai cấp và tầng lớp trên chính
trường nước Anh khi ấy.
Sự phân tầng xã hội phức tạp và phi lý với những đặc quyền, đặc lợi nghiêng về
phía giai cấp quý tộc phong kiến là cơ sở thực tiễn cho chủ trương xây dựng nhà nước
dân chủ - một nhà nước cho số đông với kết cấu quyền lực và sự phân công quyền lực
rõ ràng giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong triết học chính trị của J.Locke.
Hàng ngũ quý tộc Anh bị phân hóa làm hai bộ phận. Thứ nhất, là tầng lớp đại
quý tộc, sở hữu những diện tích ruộng đất rộng lớn, sống chủ yếu bằng cách thu địa

tô phong kiến và phương pháp bóc lột phong kiến. Họ thường chiếm địa vị cao
trong xã hội. Vì lợi ích gắn liền với chế độ quân chủ chuyên chế nên bộ phận đại
quý tộc chủ trương bảo vệ trật tự phong kiến một cách quyết liệt và được sự ủng hộ
mạnh mẽ của phong kiến nước ngoài. Đây là thế lực bảo thủ nhất, chống đối cách
mạng quyết liệt. Vì vậy, tầng lớp này trở thành đối tượng chủ yếu của cách mạng tư
sản Anh. Thứ hai, là tầng lớp trung và tiểu quý tộc, chuyển sang kinh doanh theo
phương thức tư bản chủ nghĩa, gọi là quý tộc mới, tức là q tộc “tư sản hóa”. Họ
chính là bộ phận “tích cực” nhất trong phong trào khoanh chiếm ruộng đất, đuổi
nông dân ra khỏi ruộng đất để chuyển hóa chúng thành các nông trại hoặc đem cho
tư bản nông nghiệp thuê. Để tăng thêm lợi nhuận, tầng lớp quý tộc mới tích cực đầu
tư vào cơng, thương nghiệp như bn bán len dạ, sản xuất và bn bán rượu, khai
khống, luyện kim … và dần dần chuyển hóa thành tư sản. Ngược lại, các nhà công


×