Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHẬN THỨC VỀ LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.9 KB, 28 trang )

NHẬN THỨC VỀ LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG TRONG CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG
1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) nền kinh tế nước ta vận hành theo
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Hậu quả là đến những năm 80, đất nước lâm
vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội.
Khắc phục những sai lầm trên Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi
mới. Trên lĩnh vục kinh tế, Đảng chủ trương đẩy mạnh quá trình chuyển nền
kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH"
(1991) có viết: "Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN".
Đại hội VII và VIII của Đảng đều nhấn mạnh: "Xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường
vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN".
Trong báo cáo chính trị trình Đại hội IV của Đảng cũng ghi"Đảng và nhà
nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nèn kinh tế thị trường định
hướng XHCN".
(1)
"Kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình
thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân phôí các nguyênliệu
chủ yếu, lấy lợi ích, cơ sở vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên
làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế
(2)
.
(1)
(1)
B¸o Nh©n d©n ngµy 21-4-2001.


(2)
(2)
T¹p chÝ Céng s¶n sè 16 th¸ng 8-1999, trang 8.
Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (TBCN) và nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là ở mục tiêu, phương pháp và mức độ
can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp này do tính chất của nhà nước quyết định.
Nhà nước trong kinh tế thị trường TBCN là nhà nước của giai cấp tư sản. Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
- Trong quá trình phát triển nền kinh tế, nhà nước TB đã tự điều chỉnh,
dung hoà các lợi ích của tầng lớp xã hội, giai cấp khác nhau để ổn địnhchính trị,
xã hội song do quy luật kinh tế do lợi ích giai cấp, sự phát triển kinh tế trước
chế độ TB chủ yếu phục vụ cho giai cấp tư sản. Thực hiện sự công bằng xã hội
là điều hạn chế.
Mục tiêu của CNXH cũng như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHXN ở nước ta nhằm mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân
chủ văn minh".
Như vậy xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta không phải vận hành
theo bất cứ cơ chế thị trường nào mà là vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN.
"Định hướng XHCN" ở nước ta ra đời trong quá trình đổi mới nhằm đáp
ứng yêu cầu đặc biệt của tư tưởng và chính trị.
Năm 1986 Đảng ta khẳng định đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu lựa chọn
từ khi có Cương lĩnh đầu tiên của Đảng mà chỉ tìm ra phương thức, biện pháp
nhằm thực hiện mục tiêu có hiệu quả hơn.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã chuyển nền kinh tế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Nhờ
những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế đất nước có bứoc phát triển khá, đời
sống nhân dân được cải thiện. Nhưng cũng qua thực tiễn phát triển nền kinh tế
thị trường, chúng ta thấy nảy sinh những mặt tiêu cực trên lĩnh vực tư tưởng đạo

đức, lối sống. Do đó một số người muốn hạn chế viếcử dụng kinh tế thị trường
và loại bỏ những cái phát sinh từ nó.
Một lý do khác nữa là ngoài mặt tích cực của cơ chế thị trường, đây đó đã
có một số biểu hiện "chệch hướng XHCN". Điều này đã trở thành một trong 4
nguy cơ (tụt hậu về kinh tế, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ quan
lieu, "diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra) trong quá trình xây
dựng CNXH ở Việt Nam".
Trên trường quốc tế, từ cuối những năm 80, CNXH ở một số nước Đông
Âu sụp đổi, tiếp theo là sự tan vỡ của Liên Xô. Quá trình cải tổ, cải cách ở
những nơi đó không còn là nguy cơ mà thất bại đã diễn ra trong thực tế.
Góp phần khắc phục những khuynh hướng sai lầm trong quá trình đổi mới,
khái niệm "định hướng XHCN" và "giữ vững định hướng XHCN" đã ra đời.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Đảng ta chủ trương xây
dựng và phát triển có những đặc điểm sau:
- Hệ thống thị trường ngày càng được phát triển đầy đủ: thị trường hàng
hoá dịch vụ, thị trường công nghệ, các dịch vụ thông tin, tiếp thị, pháp lý, tài
chính, ngân hàng, kiểm toán bảo hiểm, bảo lãnh, thị trường sức lao động, bất
động sản, vốn, chứng khoán v.v.. Tất cả các thị trường này liên hệ chặt chẽ với
nhau, hình thành một chỉnh thể của nền kinh tế.
- Mỗi chủ thể kinh tế có lợi ích riêng và là chủ thể của thị trường, tham gia
hoạt động và cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luạt.
- Việc vận hành nền kinh tế thị trường được thực hiện trong sự kết hợp
đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch v.v.. với việc sử dụng tín hiệu mà
thị trường cung cấp, bảo đảm sự phát triển cân đối, bền vững.
- Chính phủ thực hiện sự điều chỉnh và khống chế vĩ mô khi cần thiết.
- Kinh tế thị trường lấy các thành phàn kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở
hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo.
Những điều kiện bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
vận hành có hiệu quả là:
- Phát huy tối đa khả năng của mọi thành viên trong xã hội làm giàu cho

mình và cho đất nước, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển, làm cho
dân giàu nước mạnh.
- Giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với sự tăng
trưởng kinh tế.
- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự quản lý của
Nhà nước của dân do dân vì dân.
- Phát triển kinh tế nhà nước để nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và
kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng.
- Xác lập, củng cố nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền
kinh tế thị trường, tạo điều kiện sự phát triển con người một cách công bằng.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động
kết hợp với phân phối theo vốn, tài sản v.v..
Từ những nội dung đã được xác định ở trên, nhìn lại 15 năm đổi mới nhan
dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế tăng trưởng khá.
Văn hoá, xã hội có những bước tiến bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện giáo
dục đào tạo có bước phát triển về chất. Trình độ dân trí được nâng lên. Tình
hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta cũng bộc
lộc nhiều nhược điểm. Kinh tế thị trường mới phát triển chưa đồng bô, chịu tác
động mạnh mẽ cả tích cực lẫn tiêu cực, bộ máy tổ chức cán bộ, công nhân còn
nhiều yếu kém v.v.. Những nhược điểm này đã tác động mạnh mẽ tới việc phân
phối lao động tiền lương.
2. Vai trò của lao động, chi phí lao động, nguyên tắc phân phối tiền
lương trong cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Quá trình phát triển của xã hội loài người dưới bất cứ chế độ nào, việc tạo
ra của cải vật chất đều không tách rời lao động. Lao động với tư cách là hoạt
động chân tay và trí óc sử dụng công cụ lao động, biến đổi đối tượng lao động
thành các sản phẩm có ích phục vụ cho cuộc sống của mình. Như vậy lao động
là điều kiện đầu tiên cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Để đảm bảo liên tục quá trình tái sản xuất, trước hết phải bảo đảm tái sản
xuất sức lao động. Điều đó có nghĩa là sức lực mà con người hao phí trong quá

trình sản xuất phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động. Tiền công hay
tiền lương là phần thù lao lao động được biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp
trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng chất lượng sản phẩm
mà họ làm ra. Thực chất, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao
động của người làm công.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sức lao động cũng như
các hàng hoá khác. Nó có giá cả và phụ thuộc vào quy luật cung cầu và chịu sự
tác động của các quy luật kinh tế thị trường khác.
- Tiền lương trong nền kinh tế thị trường có những chức năng sau đây:
- Biểu hiện giá cả sức lao động làm cơ sở để điều chỉnh lương cho phù hợp
mỗi khi giá cả trên thị trường nhìn chung biến động (chức năng thước đo giá
trị).
- Bồi hoàn tái sản xuất sức lao động, bảo đảm năng lực lâu dài của người
lao động, động viên khuyến khích lao động đạt hiệu quả cao (chức năng kích
thích sức lao động).
- Trợ giúp người sử dụng lao động, theo dõi giám sát người trợ giúp lao
động làm việc (chức năng điều hào lao động).
- Đảm bảo dự phòng cuộc sống cho người lao động khi họ nghỉ hưu hoặc
rủi ro trong cuộc sống (chức năng tích luỹ).
Tiền lương là nguồn thu nhập chính của người lao động. Nó là nguồn bảo
đảm cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. Đối với chủ doanh
nghiệp khối lượng tiền lương trả cho người lao động được coi là khoản chi phí
kinh doanh.
Ngoi tin lng, cụng nhõn viờn chc cũn c nhn cỏc khon tr cp
xó hi nh bo him xó hi, bo him y t.
Bo him xó hi c hỡnh thnh bng cỏch trớch theo t l quy nh trờn
tng qu lng. Bo him xó hi c chi trong cỏc trng hp ngi lao ng
b tai nn, m, au, thai nghộn, bnh ngh nghip, hu trớ, t tut.
Bo him y t c chi tr cho vic cha bnh, vin phớ, thuc men... cho
ngi lao ng.

Nh vy tin lng cựng vi cỏc khon chi phớ theo lng hp thnh
khon chi phớ lao ng sng trong giỏ thnh sn phm.
Ti cỏc doanh nghip, hch toỏn tin lng l cụng vic phc tp trong
vic hch toỏn chi phớ kinh doanh. Bi vỡ tớnh cht lao ng v thự lao lao ng
khụng n nht m thuc nhiu ngnh ngh k thut khỏc nhau. Vic hch toỏn
chi phớ lao ng cú tm quan trng c bit. Vỡ nú l c s nh giỏ thnh sn
phm v giỏ xut xng, mt khỏc nú cũn l cn c xỏc nh cỏc khon ngha
v v phỳc li xó hi. m bo cung cp thụng tin cho lónh o doanh
nghip, t chc lao ng tin lng phi quỏn trit nhng nguyờn tc sau:
Nguyờn tc chung "Kinh t th trng nh hng XHCN thc hin phõn
phi ch yu theo kt qu lao ng v hiu qu kinh t, ng thi phõn phi
theo mc úng gúp vn v cỏc ngun lc khỏc vo sn xut kinh doanh v
thụng qua phỳc li xó hi"
(1)
. õy, bỏo cỏo ny ch vn dng nguyờn tc "Phõn
phi ch yu theo kt qu lao ng v hiu qu kinh t".
Cn c vo nguyờn tc chung, quỏ trỡnh hch toỏn lao ng tin lng phi
quỏn trit nguyờn tc c th sau:
Phõn loi sc lao ng hp lý.
Trong cỏc doanh nghip thụng thng cú nhiu ngnh ngh khỏc nhau.
hch toỏn v qun lý chớnh xỏc phi phõn loi. Cú ngha l sp xp lao ng
(1)
(1)
Báo cáo Chính trị của BCH TW Đảng trình Đại hội Đảng lần thứ IX. Báo Nhân dân ngày 21-4-2001
theo các nhóm khác nhau cùng một đặc trưng nhất định. Các tiêu chí để phân
loại lao động là:
- Phân theo thời gian lao động. Toàn bộ lao động có thể chia thành lao
động thường xuyên (cả hợp đồng dài hạn và ngắn hạn) và lao động tạm thời
mang tính thời vụ. Sự phân loại này giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp nắm được
tổng số lao động, từ đó có kế hoạch bố trí, sắp xếp công việc hợp lý, có kế

hoạch bồi dưỡng, đào tạo, khai thác. Mặt khác, lãnh đạo xác định các khoản
nghĩa vụ với người lao động và nhà nước được chính xác.
- Phân theo quan hệ với quá trình sản xuất. Có thể chia làm hai loại:
Loại thứ nhất: Trực tiếp sản xuất. Loại này bao gòm những người làm công
nhân trực tiếp sản xuất hay tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm hoặc các
dịch vụ. Họ thuộc về những người điều khiển thiết bị máy móc để tạo ra sản
phẩm (kể cả cán bộ kĩ thuật trực tiếp sản xuất) và những người phụcvụ quá trình
sản xuất như vận chuyển, bốc dỡ nguyên vật liệu v.v..
Loại thứ hai: Loại gián tiếp sản xuất. Đây là bộ phận tham gia gián tiếp
vào quá trình sản xuất như nhân viên kỹ thuật, tổ chức chỉ đạo hướng dẫn kĩ
thuật, nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý hành chính.
- Phân theo chức năng của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo nguyên tắc này, toàn bộ lao động trong doanh nghiệp có thể chia làm 3
loại:
Loại thứ nhất - lao động thực hiện sản xuất, chế biến.
Loại thứ hai - Lao động thực hiện chức năng tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ như bán hàng, tiếp thị, nghiên cứu thị trường v.v..
Loại thứ ba - Lao động thực hiện chức năng quản lý.
Các hình thức trả lương:
Do ngành nghề, công việc trong doanh nghiệp khác nhau nên việc chi trả
lương cho các đối tượng cũng khác nhau nhưng trên cơ sở tiêu chí phù hợp.
Thực tế có nhiều cách phân loại như cách trả lương theo sản phẩm, lương thời
gian, phân theo đối tượng gián tiếp trực tiếp, theo chức năng như lương bán
hàng, sản xuất, quản lý. Mỗi cách phân loại đều có tác dụng tích cực giúp cho
quản lý điều hành được thuận lợi. Tuy nhiên, để công tác quản lý nói chung và
hạch toán nói riêng đỡ phức tạp, tiền lương thường được chia làm tiền lương
chính và tiền lương phụ.
Tiền lương chính là tiền lương trả cho người lao động bao gồm tiền lương
cấp bậc, tiền thưởng và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương.
Tiền lương phụ là bộ phận tiền lương trả cho người lao động mà thực tế

không làm việc như nghỉ phép, hội họp, học tập, lễ tết v.v..
Hai cách phân loại này giúp cho lãnh đạo tính toán phân bổ chi phí tiền
lương được hợp lý, chính xác đồng thời cung cấp thông tin cho việc phân tích
chi phí tiền lương một cách khoa học.
Dựa vào những nguyên tắc phân phối trên, các doanh nghiệp dựa vào đặc
điểm, tính chất, trình độ quản lý của doanh nghiệp mà trả lương theo các hình
thức sau:
a) Tiền lương theo thời gian
- Theo hình thức này, việc trả lương cho người lao động theo độ dài làm
việc, kết hợp với kỹ thuật chuyên môn, thành thạo nghĩa vụ mà xếp các loại bậc
lương.
Tiền lương theo thời gian tương ứng với lương tháng, tuần lễ, ngày, giờ gọi
là lương tháng, lương tuần, lương ngày và lương giờ.
Lương tháng là lương trả cố định hàng tháng được qui định đối với từng
bậc lương trong các doanh nghiệp có tháng lương. Hình thức này có nhược
điểm không tính được người làm nhiều hay ít ngày trong tháng và thường áp
dụng cho nhân viên hành chính.
Lương tuần là tiền lương trả cho một tuần dựa trên công thức: lương tháng
x 12 tháng rồi chia cho 52 tuần.
Lương ngày: căn cứ vào mức lương ngày và số ngày làm việc thực tế trong
tháng. Lương ngày thường được áp dụng cho mọi người lao động trực tiếp
hưởng lương thời gian, tính lương cho người lao động trong những ngày học
tập, làm nghĩa vụ khác và làm căn cứ để tính trợ cấp bảo hiểm xã hội. Hình
thức này có ưu điểm là thể hiện được trình độ kỹ thuật và điều kiện của người
lao động. Nhược điểm của nó là chưa gắn kết tiền lương với sức lao động của
từng người nên không động viên việc tận dụng thời gian lao động để nâng cao
năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm.
Tiền lương giờ: Tiền lương được tính dựa trên cơ sở mức lương ngày chia
cho số giờ tiêu chuẩn. Nó được áp dụng cho lao động trực tiếp không hưởng
theo lương sản phẩm. Hình thức này có ưu điểm là tận dụng được thời gian lao

động nhưng có nhược điểm là không gắn được tiền lương và kết quả lao động.
Hơn nữa, nó có nhược điểm theo dõi phức tạp.
Trong thực tế lượng thời gian để căn cứ trả lương càng ngắn thì việc trả
lương càng gần sát mức hao phí lao động thực của người làm công. Hình thức
trả lương theo thời gian được chia thành tiền lương tính theo thời gian được chia
thành tiền lương tính theo thời gian có thưởng. Cách tính như sau:
Tiền lương tính theo thời gian đơn giản: Số thời gian làm việc thực tế nhân
với mức lương của đơn vị thời gian:
Tiền lương tháng = x
Nếu trả lương theo ngày thì tiền lương được lĩnh trong tháng của mỗi
người bằng cách mức lương ngày nhân với số ngày làm việc trong tháng:
=
Hình thức này có nhược điểm không phát huy được nguyên tắc phân phối
theo lao động. Vì nó chưa chú ý đến cách sử dụng thời gian lao động, sử dụng
nguyên liệu máy móc hay nói cách khác chưa quan tâm đến số lượng, chất
lượng sản phẩm mà thời lao động làm ra.
Lương thời gian có thưởng: tiền lương tính theo thời gian đơn giản kết hợp
chế độ tiền lương trong sản xuất.
Mức lương = Lương thời gian đơn giản + tiền thưởng.
Hình thức này đã phát huy được tác dụng thúc đẩy người lao động tiết
kiệm nguyên vật liệu, bảo đảm thời gian lao động, nêu cao tinh thần trách nhiệm
sáng tạo trong lao động nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Như vậy hình thức trả lương theo thời gian chưa quán triệt được nguyên
tắc phân phối theo lao động. Tiền lương còn mang nặng tính bình quân, chưa
động viên được nhiệt tình lao động sức sáng tạo của người công nhân. Vì vậy
chỉ khi nào doanh nghiệp chưa đủ điều kiện thực hiện chế độ trả lương theo sản
phẩm mới áp dụng chế độ trả lương theo thời gian.
b) Hình thức trả lương theo sản phẩm
Cách tính lương này căn cứ vào số lượng, chất lượng công việc được hoàn
thành. Đây là cách phân phối sát hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động.

Điều này được thể hiện rõ có sự kết hợp giữa thù lao lao động với kết quả sản
xuất, giữa tài năng với việc sử dụng nâng cao công suất máy móc để nâng cao
năng suất lao động.
Tuy nhiên hình thức này còn hạn chế như nảy sinh khuynh hướng chỉ coi
trọng số lượng sản phẩm mà chưa quan tâm đến chất lượng công việc, vi phạm
quy trình sử dụng máy móc, không theo đúng định mức kinh tế - kỹ thuật. Vì
vậy khi trả lương theo sản phẩm vấn đề quan trọng là phải xây dựng các định
mức, các tiêu chuẩn kinh tế - kĩ thuật để làm cơ sở cho cách tính lương đơn giá
đối với từng loại sản phẩm, từng loại công việc hợp lý nhất.
Tuỳ thuộc vào điều kiện và tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp mà vận
dụng hình thức trả lương theo sản phẩm. Nó bao gồm các hình thức cụ thể sau:
Tiền lương trả theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế. Có nghĩa là: tiền
lương trả cho người lao động được tính trực tiếp theo số lượng sản phẩm. Sản
phẩm này phải đúng quy cách, phẩm chất, định mức kinh tế và đơn giá tiền
lương sản phẩm đã qui định. Không chịu sự hạn chế nào. Công thức:
L = Q x Đg
L: tiền lương trả theo sản phẩm trực tiếp
Q: số lượng sản phẩm hợp quy cách
Đg: đơn giá tiền lương sản phẩm
Đơn giá tiền lương sản phẩm được xây dựng căn cứ vào mức lương cấp
bậc và định mức thời gian hoặc định mức số lượng cho công việc đó. Ngoài ra,
nếu có phụ cấp khu vực thì đơn giá tiền lương còn được cộng thêm phụ cấp khu
vực.
Đơn giá =
Đ
g
: đơn giá tiền lương sản phẩm
M
l
: mức lương giờ (ngày) của từng cấp bậc công việc.

Q
đm
: mức sản phẩm định mức
T
đm
: định mức thời gian
Hình thức trả lương theo sản phẩm không hạn chế là hình thức trả lương
được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp phải trả lương cho lao động trực
tiếp. Vì nó có ưu điểm đơn giản, dễ tính, quán triệt nguyên tắc phân phối theo
lao động. Lương công nhân càng cao, sản phẩm làm ra càng nhiều, khuyến
khích được người lao động quan tâm đến mục tiêu: số lượng, chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm.
Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm: dễ nảy sinh khuynh hướng công
nhân chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ mà không quan tâm đến
lợi ích chung của tập thể, của đơn vị.
Hình thức trả lương theo sản phẩm luỹ tiến. Theo cách tính này, ngoài tiền
lương sản phẩm trực tiếp còn căn cứ vào mức độ hoàn thành vượt định mức lao
động để tính thêm một số tiền lương theo tỉ lệ luỹ tiến. Mức luỹ tiến này có thể

×