Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách con người người sinh viên cần làm gì để rèn luyện nhân cách tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.24 KB, 22 trang )

Đề tài: Anh/Chị hãy phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách con người. Người sinh viên cần làm gì để rèn luyện nhân cách
tích cực
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
1. Khái niệm “nhân cách”...............................................................................2
2. Nhận diện những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của
con người..........................................................................................................4
2.1. Sự hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với sự phát triển của con
người qua quá trình giáo dục, tự giáo dục và hoạt động thực tiễn....................4
2.2. Sự hình thành và phát triển nhân cách là quá trình thống nhất giữa cá
nhân và xã hội, giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, là sự thống nhất giữa điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan...............................................................6
3. Những điều sinh viên cần thực hiện để rèn luyện nhân cách tích cực..11
3.1. Học tập lý luận Mác – Lênin để hình thành thế giới quan khoa học trong
nhân cách sinh viên.........................................................................................12
3.2. Trang bị phương pháp luận khoa học trong tư duy, xây dựng nhận thức và
thái độ đúng đắn..............................................................................................14
3.3. Chuyển hóa tri thức thành niềm tin khoa học và lý tưởng cộng sản, đạo
đức cách mạng thông qua học tập lý luận Mác – Lênin..................................15
3.4. Rèn luyện phẩm chất chính trị thơng qua học tập lý luận Mác – Lênin...17
3.5. Tự rèn luyện để hình thành ý thức thẩm mỹ trong nhân cách thông qua
học tập lý luận Mác – Lênin............................................................................17
KẾT LUẬN....................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................1


1
MỞ ĐẦU


Nhân cách là cái gốc làm nên giá trị “Người” của mỗi con người. Việc
bồi dưỡng và phát triển con người nói chung cũng như bồi dưỡng và phát
triển nhân cách cho sinh viên nói riêng là yêu cầu, địi hỏi cấp bách của cơng
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
Trong quá trình bồi dưỡng và phát triển nhân cách thì con người là đối
tượng chịu tác động bởi nhiều yếu tố nội quan và chủ quan, từ đó dẫn đến
việc hình thành nhân cách tích cực hoặc tiêu cực. Việc nhận thức rõ ràng được
các yếu tố này khơng những giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng quan về hình
thành nhân cách, mà cịn là cơ sở để điều chỉnh và tự điều chỉnh hướng tới
việc hình thành nhân cách tích cực.
Đặc biệt là đối với sinh viên – tầng lớp trí thức quan trọng của xã hội,
nguồn lực tương lai của đất nước trong bối cảnh cơng nghiệp hóa và hiện đại
hóa như ngày nay thì bên cạnh việc trau dồi kiến thức và kỹ năng chun mơn
thì việc rèn luyện nhân cách tích cực phải được đặt lên hàng đầu.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, em xin nghiên cứu những nội dung của
để tài “Anh/Chị hãy phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách con người. Người sinh viên cần làm gì để rèn luyện nhân cách tích
cực” trong tiểu luận cuối kỳ của mình.


2
NỘI DUNG
1. Khái niệm “nhân cách”
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, nhân cách là đối tượng của nhiều
ngành khoa học khác nhau đồng thời là vấn đề nghiên cứu có tính phức tạp.
Vì vậy, dưới những góc độ khác nhau các nhà nghiên cứu có cách tiếp cận
khơng giống nhau.
Ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, triết học Mác đã đánh dấu
bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Khi xem xét bản chất nhân
cách con người, chủ nghĩa Mác đã nhận ra được những thiếu sót, những hạn

chế của chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình và khắc phục nó trên
cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy
vật.
Chủ nghĩa Mác khẳng định con người là một thực thể sinh học - xã hội,
vì vậy khơng bao giờ có sự đối lập, tách rời giữa mặt sinh học và mặt xã hội
trong con người. Mặt sinh học và mặt xã hội có quan hệ chặt chẽ, biện chứng
lẫn nhau, theo đó mặt sinh học không thuần tuý là sinh học mà là sinh học xã hội, cịn mặt xã hội khơng trừu tượng, trống rỗng mà là sự phản ánh hiện
thực của tồn tại sinh học - xã hội.
Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới tự
nhiên. Trong quá trình sống và phát triển con người không chỉ bị chi phối bởi
những quy luật tự nhiên - sinh học mà còn chịu tác động của những quy luật
xã hội; từ q trình ấy, thơng qua hoạt động thực tiễn một mặt con người đã
tác động vào tự nhiên cải biến tự nhiên, thúc đẩy lịch sử phát triển, mặt khác
con người hoàn thiện bản chất xã hội trong bản thân mình và cũng là q trình
hồn thiện nhân cách. Nhân cách khơng phải cái bẩm sinh sẵn có mà được
hình thành, phát triển trong quá trình sống, lao động và trong các quan hệ giao
tiếp xã hội của con người. C.Mác viết: “Bản chất của nhân cách riêng”


3
khơng phải là bộ râu, khơng phải dịng máu, khơng phải là thể chất trừu
tượng của con người mà là phẩm chất xã hội của con người” 1.
Trong quan niệm về nhân cách, các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh và đề
cao nội dung hành động, theo đó nhân cách con người chỉ được bộc lộ và thể
hiện ra trong hành động, thông qua hành động của mỗi người trong quan hệ
của họ đối với tự nhiên, xã hội và chính mình.
“Nhân cách là những cá nhân con người với tính cách là
sản phẩm của sự phát triển xã hội, chủ thể của lao động, của sự
giao tiếp, của nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện lịch sử
- cụ thể của đời sống xã hội”2.

Mặc dù có nhiều quan niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách
trên cơ sở lập trường mácxít của các nhà nghiên cứu, song xét đến cùng các
quan điểm đó vẫn tập trung ở các điểm sau:
Thứ nhất, nhân cách chỉ có ở con người cụ thể, hiện thực, những con
người sống trong những điều kiện, hoàn cảnh xã hội, những giai đoạn, thời kỳ
lịch sử cụ thể chứ không phải những con người chung chung trừu tượng.
Nhân cách là đặc trưng xã hội của con người, là kết quả hoạt động thực tiễn
mà mỗi người tiếp nhận, cải biến và tự giác chuyển hoá.
Thứ hai, nhân cách là nhân cách của từng cá nhân riêng biệt, khơng có
nhân cách chung cho tất cả mọi người. Mỗi cá nhân mang nhân cách vừa có
khả năng tự nhận thức, tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của bản thân đồng
thời có khả năng nhận thức, đánh giá hành vi của những cá nhân mang nhân
cách khác.
Thứ ba, nhân cách là phẩm chất xã hội của con người được hình thành
từ đời sống xã hội, nó là cơ sở để khẳng định vai trị, vị trí và giá trị của mỗi

1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, Tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.71.
Từ điển bách khoa triết học (1964), Tập 3, Matxcơva, tr.196.


4
con người trong mối quan hệ xã hội hàng ngày của chính họ. Chỉ trong hồn
cảnh đó nhân cách cá nhân mới được thừa nhận.
Tựu chung lại, nhân cách là tổng hợp đa dạng các giá trị xã hội mà
con người đạt được trình độ nhất định thể hiện sự trưởng thành về phẩm chất
và năng lực của mỗi cá nhân thông qua hoạt động, các mối quan hệ được xã
hội đánh giá, thừa nhận đồng thời tại nên đặc trưng riêng cho mỗi cá nhân.

2. Nhận diện những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của
con người
2.1. Sự hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với sự phát
triển của con người qua quá trình giáo dục, tự giáo dục và hoạt động
thực tiễn
Giáo dục sinh ra cùng với loài người và tồn tại, phát triển cùng với loài
người. V.I.Lênin gọi giáo dục là một phạm trù vĩnh cửu. Con người khi mới
sinh ra mang bản tính tự nhiên, sau lớn lên, trưởng thành bằng cách lĩnh hội
các kinh nghiệm xã hội - lịch sử bao gồm tri thức khoa học, kỹ năng lao động,
văn hóa...; bằng cơ chế truyền thụ và tiếp thu (giáo dục và đào tạo) con người
bình thành “bản tính thứ hai” - bản tính người.
Vai trị chủ đạo của giáo dục trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách được thể hiện qua nội dung và hình thức giáo dục.
Một là, giáo dục đưa ra phương hướng, tạo dựng lên những hình mẫu
nhân cách phù hợp với các yêu cầu của xã hội hiện tại thông qua nội dung
giáo dục giá trị nhân cách, qua mục tiêu giáo dục mầu hình nhân cách của nhà
trường và xã hội.
Hai là, giáo dục là truyền thụ các vốn văn hóa truyền thống của dân
tộc, để các thế hệ nối tiếp nhau kế thừa, bảo tồn và phát triển những giá trị
truyền thống tốt đẹp. Giá trị truyền thống được coi là cơ sở nền tảng để hình
thành giá trị nhân cách của con người.


5
Ba là, qua giáo dục và bằng giáo dục hướng thế hệ trẻ đến một tương
lai tốt đẹp. Giáo dục có khả năng uốn nắn những hành vi lệch chuẩn trong sự
phát triển nhân cách, tạo dựng những mẫu hình nhân cách mới đáp ứng những
đòi hỏi của xã hội.
Việc giáo dục được thực hiện theo nhiều hình thức và cấp độ khác
nhau, bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục gia đình.

Trong đó, giáo dục xã hội được thực hiện thông qua sách báo, phim ảnh,
truyền hình, giao tiếp xã hội … với những nội dung lành mạnh là những tác
động tích cực hỗ trợ cho giáo dục nhà trường. Giáo dục gia đình tuy khơng có
chương trình, kế hoạch và nội dung xác định như giáo dục nhà trường; song
với việc tổ chức cuộc sống có nền nếp, trật tự, gia phong, với việc xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên của gia đình
thuộc các thế hệ,… là những tác động góp phần tạo nên nền tảng ban đầu của
sự hình thành nhân cách.
Hệ thống giáo dục của xã hội đã khẳng định vai trị quan trọng trong
q trình xây dựng những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách. Những yêu cầu,
những chuẩn mực xã hội (cộng đồng, giai cấp, dân tộc) không thể trực tiếp áp
đặt vào con người những phẩm chất cá nhân phù hợp với các yêu cầu, các
chuẩn mực ấy. Những phẩm chất của nhân cách được hình thành chủ yếu là
do quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Bên cạnh đó, hoạt động thực tiễn của mỗi người để cải tạo môi trường,
xã hội cũng là nhân tố tác động quan trọng tới sự phát triển nhân cách của
chính họ. Tính xã hội là một trong những đặc trưng cơ bản nhất trong các hoạt
động thực tiễn của con người. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người
phải trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ, phải sử dụng một khối lượng lớn văn
hóa vật chất, văn hóa tinh thần của nhân loại.


6
Trong các hoạt động của mình, con người cần thiết phải hợp tác với
những người xung quanh. Họ phải tồn tại và phát triển trong các mối quan hệ
xã hội, nếu tách khỏi nó con người khơng bao giờ có thể phát triển được.
Trong quá trình ấy, mỗi cá nhân phản ứng trước sự tác động của môi trường
xã hội một cách khác nhau, thể hiện trong bản thân mình nét này hoặc nét
khác của môi trường xã hội tạo nên sự phong phú, đa dạng của nhân cách con
người. Có thể nói, thơng qua hoạt động thực tiễn, con người biểu hiện các

năng lực và phẩm chất nhân cách của mình.
Trong quá trình hoạt động tự giác ấy, mỗi con người đã biết tách mình
ra thành hai phần riêng biệt: cái tôi - chủ thể và cái tôi - đối tượng để tự giác
phấn đấu, cải tạo, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và những phẩm
chất tích cực trong nhân cách. Chính sự phát triển của tình cảm, lý trí và ý chí,
tức là sự phát triển của ý thức nhân cách trong mỗi chủ thể hoạt động là yếu
tố trực tiếp quy định khả năng xác định, lựa chọn và thực hiện hành vi của
nhân cách. Sự phát triển của ý thức nhân cách chính là chỉ số phản ánh sự
phát triển nhân cách và là điều kiện quan trọng của việc thực hiện những hoạt
động thực tiễn của nhân cách mỗi người trong môi trường xã hội.
2.2. Sự hình thành và phát triển nhân cách là quá trình thống nhất
giữa cá nhân và xã hội, giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, là sự thống nhất
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
Như đã trình bày, nếu con người bị tách ra khỏi mơi trường và các hoạt
động xã hội thì nhân cách con người khơng thể hình thành và phát triển được.
Có thể khái quát một số yếu tố cơ bản tác động đến sự hình thành và phát
triển nhân cách như sau:
- Một là, sự hình thành và phát triển nhân cách trước hết bị quy định
bởi điều kiện kinh tế - xã hội.


7
Con người trong hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội... đều
thể hiện mục đích, lợi ích của mình trong quan hệ với những người xung
quanh, với xã hội. C.Mác khẳng định, lịch sử không phải là cái gì khác mà là
hoạt động của con người theo đuổi những mục đích của mình. Những mục
đích của con người bao giờ cũng xuất phát và gắn liền với tính chế định của
điều kiện lịch sử - xã hội, của các quan hệ kinh tế trong một thời đại nhất
định.
Tính quy định khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội đã tạo ra một

giới hạn chung, một xu thế chung cho mọi hoạt động của con người. Sự phát
triển của nhân cách với tư cách là sự phát triển các phẩm chất xã hội của mỗi
cá nhân trong cộng đồng xã hội cũng khơng nằm ngồi những quy định khách
quan của điều kiện kinh tế - xã hội hiện thời mà mỗi cá nhân đó là thành viên.
VILênin gọi đây là quyết định luận lịch sử.
Nhân cách được quy định khách quan bởi điều kiện kinh tế - xã hội,
nhưng cái trực tiếp quy định bản chất và đặc trưng của nhân cách lại không
phải là tất cả các quan hệ kinh tế, mà nhân tố quy định nhân cách ở tầng sâu
nhất đó là quan hệ lợi ích. Bởi cái lõi vật chất của đạo đức, nhân cách là vấn
đề lợi ích. Nói cụ thể hơn, tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá
nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội là nhân tố sau cùng quy định bộ mặt của
nhân cách.
Mỗi cá nhân riêng lẻ không làm nên xã hội, mà xã hội bao giờ cũng là
tập hợp của những cá nhân cùng với các mối quan hệ của họ. Nói cách khác,
do lợi ích và thơng qua việc thực hiện lợi ích, các cá nhân đã tập hợp, liên kết
và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, ở mỗi cá nhân lại có nhu
cầu, lợi ích riêng, khác nhau, thậm chí nhiều khi lợi ích cá nhân lại đối lập với
lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc mình. Sự phát triển của con người nói chung,
nhân cách nói riêng chỉ có thể phát triển đúng quy luật khi mỗi cá nhân tự


8
giác nhận thức đúng đắn, giải quyết hài hòa về mối quan hệ cá nhân - xã hội
xét trên phương diện lợi ích.
Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp cho mọi hoạt động của con người.
Con người, ở bất kỳ thời đại nào cũng hành động trước hết vì lợi ích của bản
thân mình. Vì vậy, lợi ích cá nhân đóng vai trị trực tiếp, cơ sở cho mọi hoạt
động tự giác, hoạt động tích cực của con người. Lợi ích cá nhân cũng là nhân
tố quyết định, là cơ sở để thực hiện lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Lợi ích xã
hội với ý nghĩa là lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của nhiều

thành viên hợp lại thành cộng đồng xã hội. Vì vậy, lợi ích xã hội là điều kiện
và đóng vai trị định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá nhân.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải lợi ích cá nhân nào cũng chính đáng,
có những lợi ích cá nhân khi thực hiện nó sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người
khác, của xã hội.
- Hai là, sự hình thành và phát triển nhân cách được quy định bởi nhân
tổ văn hóa của xã hội.
Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc có tác động mạnh đến sự hình
thành những kiểu mẫu hành vi, đến sự đánh giá và những tình cảm đạo đức
trong sáng của nhân cách. Hiệu quả của giáo dục, với tính cách là một nhân tố
phát triển nhân cách phụ thuộc rất nhiều kỹ năng vận dụng những giá trị
truyền thống vào hoàn cảnh xã hội mới để phục vụ xã hội và bản thân mỗi cá
nhân.
Văn hóa xã hội là tổng hịa của văn hóa cá nhân, tuy nhiên đây khơng
phải là phép cộng đơn giản của tất cả văn hóa cá nhân mà nó là sự kết tinh
những tinh hoa của nhiều thời đại, nhiều thế hệ. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã
được sống, được tiếp nhận một hệ các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa
xã hội. Những giá trị, chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ
thống tri thức xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ...


9
Nhân cách của con người được hình thành và phát triển trong mơi trường văn
hóa xã hội một cách gián tiếp thơng qua q trình giáo dục và tự giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần xã hội thì thế giới
quan, những chuẩn mực pháp lý, thẩm mỹ, đạo đức... có vị trí quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách. Trong đó, thế giới quan có vị trí
đặc biệt trong cấu trúc nhân cách. Nó được cấu thành từ những yếu tố cơ bản
là tri thức, niềm tin, lý tưởng. Một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng
nhất để xây dựng một nhân cách phát triển tồn diện. Nói cách khác, thế giới

quan giữ vai trò định hướng chung cho con người trong mọi hoạt động hiện
thực của họ. Trong xã hội có phân chia giai cấp, thế giới quan bao giờ cũng
mang tính giai cấp và phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định. Do vậy, khi
được tiếp nhận trong ý thức đạo đức cá nhân, nó khẳng định về mặt đạo đức
lợi ích của giai cấp mà nó phản ánh.
Tuy nhiên, khi nhấn mạnh tính quyết định xã hội của nhân cách là điều
kiện cần nhưng chưa đủ. Trong hiện thực cuộc sống, sự hình thành và phát
triển của nhân cách không diễn ra đơn giản như vậy, ảnh hưởng của điều kiện
kinh tế, của môi trường xã hội, môi trường giáo dục đối với nhân cách khơng
phải là q trình thuận một chiều mà giữa chúng có mối quan hệ biện chứng
với nhau.
Khi nhân cách được hình thành, con người trở thành chủ thể xã hội với
bản chất là hoạt động sáng tạo, cải tạo thế giới hiện thực. Con người lại không
ngừng tạo ra những điều kiện môi trường xã hội mới, tốt đẹp làm cơ sở cho
quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Đó chính là q trình cá nhân
hóa xã hội trong mỗi chủ thể hoạt động mang nhân cách. Với sức sáng tạo của
tư duy trí tuệ và thông qua hàng loạt các hoạt động trong thực tiễn, nhân cách
của con người tự biểu hiện, tự khẳng định chính mình.


10
Là sản phẩm của tự nhiên, của lịch sử - xã hội, đến lượt mình con
người lại tác động vào tự nhiên nhằm khai thác mọi tiềm năng tự nhiên phục
vụ mục đích và nhu cầu của mình, tái tạo "tự nhiên thứ hai" cho đời sống con
người. Là chủ thể sáng tạo, tự ý thức, tự giác hành động, bằng năng lực tuyệt
đối và riêng có là hoạt động thực tiễn, con người ngày càng nắm bắt được quy
luật tự nhiên, quy luật xã hội, ngày càng có khả năng sáng tạo lớn để chinh
phục tự nhiên và cải tạo xã hội làm nên lịch sử nhân loại. Đồng thời con
người cũng khơng ngừng cải tạo bản thân mình. Sự thành đạt của mỗi người
có tác động tích cực đến việc lành mạnh hóa mơi trường xã hội. Sự thành đạt

ấy không chỉ tạo nên tâm lý tự tin, niềm kiêu hãnh trong mỗi chủ thể hoạt
động, mà nó cịn mở rộng khả năng hiện có và tác động tích cực đến tinh thần
phấn đấu của những người xung quanh.
Xã hội hóa cá nhân trong q trình hình thành và phát triển nhân cách
không chỉ biểu hiện sự tác động một chiều mà cịn bao hàm cả q trình cá
nhân hóa xã hội. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng. Mối quan hệ này
khẳng định vai trò to lớn của sự tác động xã hội đến sự hình thành và phát
triển nhân cách, đồng thời khẳng định vai trò chủ thể hoạt động cải tạo xã hội
của con người.
- Ba là, nhân cách hình thành và chịu sự chi phối bởi gia đình:
Ngay như trong mơi trường nhỏ là gia đình, một đứa trẻ được sinh ra
trong gia đình có đầy đủ bố và mẹ, với điều kiện được chăm sóc, quan tâm,
chỉ bảo và yêu thương của cả bố và mẹ sẽ giúp cho đứa trẻ phát triển được
tình yêu thương, sự thấu cảm và sẻ chia trong nhân cách. Ngược lại, đứa trẻ
nếu chẳng may sinh ra trong một gia đình bị sứt mẻ một thành tố nào đó (cha
mẹ ly hơn, hoặc phải thường xun chứng kiến mẹ bị bạo hành, hoặc cha mẹ
vì mải mê làm ăn kinh tế mà không lo toan chăm sóc, thì đứa trẻ đó sẽ có


11
nhiều khả năng dẫn đến việc hình thành sự tự ti, nhút nhát hay thậm chí là
ngang ngược, bất cần.
Tuy nhiên thì con người khơng phụ thuộc hồn tồn trước tác động của
mơi trường sống mà cịn tác động ngược lại mơi trường. Khơng khó có thể
thấy điều này xung quanh chúng ta. Một cá nhân xuất thân từ một mơi trường
gia đình khơng bình thường, đó là một “tế bào khơng được khỏe mạnh”
nhưng cá nhân đó vẫn có sự phát triển nhân cách một cách tích cực, ngược lại,
bằng tình cảm, bằng sự chân thành, cá nhân đó ghép nối giữa cha và mẹ để trở
về với quỹ đạo bình thường của một gia đình. Đó chẳng phải là sự tác động
giữa cá nhân với môi trường sống hay sao? Do vậy, mà giữa môi trường sống

và việc hình thành, phát triển nhân cách là quan hệ hai chiều, tác động qua lại
lẫn nhau. Trong đó, mơi trường được xem là yếu tố quyết định gián tiếp tới sự
hình thành và phát triển nhân cách.
3. Những điều sinh viên cần thực hiện để rèn luyện nhân cách tích
cực
Nhân cách nói chung và nhân cách sinh viên nói riêng khơng phải là
những phẩm chất vốn có trong mỗi con người từ khi sinh ra. Nhân cách chỉ
được hình thành và phát triển cùng với quá trình hoạt động, giao tiếp, quá
trình bộc lộ những “phẩm chất Người” của mỗi con người… trong đó giáo
dục chiếm giữ vai trị chủ đạo. Trong đó, giáo dục lý luận Mác – Lênin cho
sinh viên là một yếu tố hợp thành quan trọng trong nền giáo dục đại học của
các nước xã hội chủ nghĩa như Lào và Việt Nam.
Do đó, theo em, để xây dựng được nhân cách tích cực, sinh viên cần
phải có nhân cách trong sáng, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đáp
ứng địi hỏi ngày càng cao trong quá trình hội nhập và phát triển. Hay nói
cách khác, sinh viên cần phải quán triệt sâu sắc và trau dồi, học tập lý luận
Mác – Lênin trong việc xây dựng nhân cách tích cực, điều này thể hiện qua:


12
3.1. Học tập lý luận Mác – Lênin để hình thành thế giới quan khoa
học trong nhân cách sinh viên
Những nguyên lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin chính là
“cái gốc” để xây dựng lập trường thế giới quan cho sinh viên, từ đó có thể
nhận thức và tiếp thu được những nguyên lý và quy luật khác.
Thế giới quan là “toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm, niềm tin quy
định hướng hành động và quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội,
của một giai cấp hay một xã hội nói chung đối với thực tại”3. Nói cách khác,
thế giới quan là tồn bộ hệ thống tri thức, những quan niệm của con người về
thế giới và về vị trí của chính con người trong thế giới đó. Là một hệ thống tri

thức, quan niệm về thế giới nhưng thế giới quan được hiểu là kết quả của quá
trình nhận thức đặc thù của con người chứ không phải là phép cộng giản đơn
tổng số các tri thức khoa học cụ thể4.
Với tư cách là một hệ thống lý luận, một học thuyết, triết học Mác –
Lênin đã lý giải một cách khoa học nhất về thế giới và vị trí của con người
trong thế giới đó. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin mà linh hồn của
nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống lý
luận khoa học và cách mạng nhất. Thế giới quan này đã, đang và sẽ là một
công cụ tư duy quan trọng nhất định hướng cho Đảng cộng sản, nhân dân nói
chung, tầng lớp sinh viên nói riêng trong hoạt động nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn.
Thông qua giáo dục lý luận Mác – Lênin, sinh viên trạng bị được
những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, về lý luận cách mạng xã hội khoa học về kinh tế chính tri học mác-xít
nhằm hình thành những quan điểm giai cấp, dân tộc, quốc tế giúp sinh viên có
3

Cung Kim Tiến (2002), Từ điển triết học, Nxb. Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội.
Hồnh Anh (Chủ biên, 2011), Giáo trình Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên,
trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr.105.
4


13
cách nhìn và cách giải quyết những vấn đề xã hội. Điều này tạo ra cho sinh
viên niềm lạc quan cách mạng, lòng tin vững chắc vào thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội. Từ đây, bản thân sinh viên sẽ có thái độ lạc quan lịch sử để vượt
qua những thử thách trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nhờ vào việc tích lũy tri thức được qua mơn chủ nghĩa xã hội khoa học,
bản thân mỗi sinh viên sẽ được trang bị nhận thức về mặt tư tưởng, theo đó,

tư tưởng về chủ nghĩa xã hội khoa học là những tư tưởng được kế thừa một
cách chọn lọc về chủ nghĩa xã hội của nhân loại và được phát triển khoa học
lên tầm cao mới đáp ứng đúng với yêu cầu phát triển của thời đại.
Bên cạnh đó, việc trang bị những kiến thức này giúp cho sinh viên có
nhận thức rõ ràng những quan điểm trái với những nguyên lý của chủ nghĩa
xã hội khoa học, trái với chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, mạnh
dạn và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều,
đứng vững trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hịa bình” của các thế lực
thù địch.
Ngồi ra, thông qua việc học tập giáo dục lý luận Mác – Lênin còn giúp
cho sinh viên nhận ra được mục đích cao cả nhất của cuộc sống là vì con
người và vì sự nghiệp giải phóng con người. Mỗi người chỉ đạt được lợi ích,
nhu cầu cá nhân cao nhất khi nhận thức được đúng đắn và tự nguyện, tự giác
thực hiện lợi ích xã hội và lợi ích dân tộc mình. Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ:
“… chừng nào con người cịn ở trong xã hội hình thành một
cách tự nhiên, do đố chừng nào cịn có sự chia cắt giữa lợi ích riêng và
lợi ích chung… chừng đó hành động của bản thân con người sẽ trở
thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người, và sự nô dịch con
người, chứ không phải bị con người thống trị”5.

5

C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Tập 20, tr. 235.


14
Vì vậy, nhân cách chỉ được hình thành và phát triển khi giải quyết được
hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, hạnh phúc của mỗi
cá nhân chỉ được đảm bảo và được thực hiện khi hạnh phúc của toàn thể xã
hội được đảm bảo, được thực hiện. Mỗi cá nhân chỉ được giải phóng khi sự

nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại được thực hiện. Từ đó, mỗi
sinh viên tự nguyện hướng đến lẽ sống cao đẹp “mình vì mọi người và mọi
người vì mình”.
3.2. Trang bị phương pháp luận khoa học trong tư duy, xây dựng
nhận thức và thái độ đúng đắn
Phương pháp luận là lý luận và học thuyết về phương pháp nhận thức
và cải tạo hiện thực, là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất
phát chỉ đạo chủ thể hoạt động trong việc xác định phương pháp cũng như xác
định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách có hiệu quả và hợp lý6.
Thơng qua học tập lý luận Mác – Lênin, sinh viên sẽ được trang bị
phương pháp luận khoa học, đặc biệt là phương pháp tư duy biện chứng, giúp
sinh viên có một công cụ nhận thức sắc bén để định hướng và hành động
trong thực tiễn. Theo Ph. Ăngghen, tư duy biện chứng là hình thức cao nhất
của tư duy lý luận, “phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người
và của tư duy”7. Thật vậy, bởi vì phép biện chứng hiện nay là kết quả của sự
khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên và tư duy biện chứng, là một
tư duy mềm dẻo, linh hoạt, khơng có sự tồn tại những ranh giới tuyệt đối.
Thông qua việc trang bị phương pháp luận, sinh viên sẽ hình thành
được tư duy lý luận và phương pháp nghiên cứu một cách tự giác, tạo ra cho
sinh viên niềm lạc quan, sự tin tưởng vào sự thành công của công cuộc đổi
6

Nguyễn Hữu Vi (2001), Đổi mới phương pháp giảng dạy các bộ môn khoa học Mác – Lê nin ở Việt Nam –
những vấn đề chung, Đề tài KX – 10 – 08, tr.13 – 14.
7
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), tlđd, Tập 20, tr. 201.


15

mới và sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong điều kiện
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế phát triển như hiện nay, sinh viên cần thiết
phải trang bị phương pháp nhận thức khoa học để có thái độ đúng đắn, ủng hộ
và học tập cái mới, nhân tố mới đang phát triển trong xã hội; đồng thời giúp
sinh viên biết chọn lọc, kế thừa những nhân tố hợp lý của giá trị truyền thống
và tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, giúp sinh viên hịa nhập
nhưng khơng hịa tan vào văn minh nhân loại.
Cần nhấn mạnh rằng, mở cửa, hội nhập quốc tế đã đổi mới bộ mặt kinh
tế - xã hội của đất nước, vùng với nó là một loạt các giá trị được hình thành và
phát triển như: sáng tạo, tự lập, tự chủ, tự do, tự cường, quyết tâm vượt khỏi
đói nghèo… Những giá trị ấy được thể hiện trong sinh viên ở tinh thần học
tập say mê, sự sáng tạo và lòng tự hào về một dân tộc giàu tiềm năng trí tuệ…
Chính những giá trị ấy đã góp phần làm nên nhân cách của người Lào ngày
hơm nay. Và với tư cách là một người sinh viên, em nhận thấy rằng mối quan
hệ giữa truyền thống và hiện đại là nền tảng và cơ sở khách quan cho việc
định hướng xây dựng một hệ giá trị đạo đức mới nói chung, định hướng các
giá trị đạo đức mới cho sinh viên nói chung trong việc phát triển nhân cách
tích cực trong bối cảnh mới.
3.3. Chuyển hóa tri thức thành niềm tin khoa học và lý tưởng cộng
sản, đạo đức cách mạng thông qua học tập lý luận Mác – Lênin
Như đã chỉ ra, việc học tập lý luận Mác – Lênin giúp trang bị cho sinh
viên thế giới quan khoa học và phương pháp biện chứng duy vật. Đây là hai
công cụ nhận thức vĩ đại giúp sinh viên có cơ sở để xay dựng và củng cố niềm
tin khoa học. Khơng có cơng cụ nhận thức này thì sinh viên sẽ rơi vào niềm
tin tơn giáo, tin vào một lực lượng thần bí, siêu nhân nào đó hoặc rơi vào
trạng thái bi quan, dao động, khơng có phương hướng, khơng có chỗ dựa cho
niềm tin.


16

Hay nói cách khác, khi sinh viên được trang bị lý luận vững chắc, có
phương pháp biện chứng duy vật khoa học dẫn đường, sẽ tạo ra tâm lý tích
cực và thúc đẩy họ học tập, nghiên cứu đạt được mục tiêu và lý tưởng đã
định. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, những luận điệu và tư tưởng của các thế
lực thù địch đã và đang phủ định học thuyết Mác-Lênin, cho là học thuyết
Mác-Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, chỉ phù hợp với một chừng mực nào
đó với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, khơng phù hợp với thế kỷ
này, từ đó cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin lỗi thời ở các nước xã hội chủ nghĩa
như Việt Nam và Lào.
Bên cạnh đó, thông qua học tập lý luận Mác – Lênin, sinh viên sẽ
không chỉ dừng lại ở việc được trang bị thế giới quan, nhân sinh quan và
phương pháp luận mà đồng thời còn được bồi đắp niềm tin khoa học, bồi
dưỡng lý tưởng cộng sản, đặc biệt là ở những quốc gia theo chủ nghĩa xã hội
như Lào và Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình
thành nhân cách của sinh viên, vì nó là mục đích cao nhất, tốt nhất và tạo ra
nghị lực phi thường giúp con người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu
đề ra.
Mục tiêu cao nhất mà lý tưởng cộng sản hướng tới là xay dựng một chế
độ xã hội tốt đẹp nhất: xã hội chủ nghĩa và sau này là xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa với bản chất có thể chứng minh được
khiến nó vượt lên được tất cả các lý tưởng siêu nhiên xuất hiện trong lịch sử
mà khơng có căn cứ khoa học. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức này sẽ
có sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn lên, xây dựng cho
mình niềm lạc quan cách mạng và bồi dưỡng lý tưởng cộng sản.
Điều này cho thấy, bản thân sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường, việc xác lập ý chí học tập cũng là góp phần xây dựng đất nước.
Bên cạnh đó, nhờ vào nhận thức và tư tưởng đúng đắn, lập trường vững chắc,


17

sinh viên có thể đáu tranh với những hành vi lệch hướng của một bộ phận
sinh viên đang sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng và lý tưởng ngày
nay.
3.4. Rèn luyện phẩm chất chính trị thơng qua học tập lý luận Mác
– Lênin
Tư tưởng giáo dục trong mỗi xã hội, mỗi chế độ đều phụ thuộc vào hệ
thống quan điểm, tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Hệ thống quan điểm tư
tưởng của gia cấp cầm quyền quy định bản chất, mục đích, nhiệm vụ của hệ
thống giáo dục của chế độ xã hội ấy; quy định mẫu hình nhân cách cần vươn
tới của xã hội. Chính vì vậy, việc học tập lý luận Mác – Lênin nói riêng và
học tập lý luận chính trị nói chung trong trường đại học là việc làm cần thiết
để hình thành trong sinh viên phẩm chất chính trị vững vàng, tin tưởng và
kiên định theo con đường mà Đảng đã lựa chọn. Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh
tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam sinh thời đã từng căn dặn:
“Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và
chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sóng của nhân dân…
Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo
đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật và
lao động sản xuất”8.
Chính vì vậy, với tư cách là thanh niên cộng sản, chúng ta cần phải nghiên
cứu kỹ lưỡng và nhận thức về tầm quan trọng trong việc củng cố phẩm chất
chính trị của mình.
3.5. Tự rèn luyện để hình thành ý thức thẩm mỹ trong nhân cách
thông qua học tập lý luận Mác – Lênin
Mỹ học là đôi cánh của tài năng giúp sinh viên định hướng thị hiếu, xây
dựng những phẩm chất tốt đẹp nhất trong tâm hồn sinh viên. Do đó, thơng qua
8

Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 65 - 66.



18
học tập lý luận Mác – Lênin, mỹ học là đôi cánh của tài năng giúp sinh viên
định hướng thị hiếu, xây dựng những phẩm chất tốt đẹp nhất trong tâm hồn
sinh viên.
Thứ nhất, thông qua việc học tập và tiếp thu nhận thức về mỹ học, giúp
sinh viên trang bị hệ thống những kiến thức chung nhất về các loại hình nghệ
thuật, hướng dẫn sinh viên biết cảm thụ, thưởng thức sâu sắc, toàn vẹn các tác
phẩm nghệ thuật. Nhờ đó, trong q trình cập nhật các kiến thức văn hoá sinh
viên biết tự điều khiển nhu cầu, thị hiếu và hoạt động thẩm mỹ của mình một
cách tự giác.
Thứ hai, nhờ vào mỹ học Mác – Lênin, sinh viên có cơ sở để tiếp thu
những tinh hoa văn hoá của dân tộc và những tinh hoa văn hoá nhân loại. Một
nhân cách tốt đẹp chỉ có thể xây dựng trên một tâm hồn phong phú về tình
cảm, về văn hoá. Văn hoá đã tham dự và để lại những dấu ấn quan trọng trên
diện mạo nhân cách sinh viên. Con người nói chung, sinh viên nói riêng chỉ
trở thành những cá nhân mang nhân cách khi tham gia vào các hoạt động xã
hội, vào sự đồng hoá và chiếm lĩnh thế giới xung quanh họ.
Giáo dục thẩm mỹ đã tạo ra những động cơ để sinh viên yêu cuộc sống
hơn, sống tích cực hơn, có mục đích, lý tưởng trong mỗi hoạt động của mình.
Một trong những lĩnh vực hàng đầu cho sự sáng tạo của con người là con
người được tự do sáng tạo trong môi trường văn hố, trong đó văn hố thẩm
mỹ có tác động đặc biệt khơi dậy sự sáng tạo tích cực của chủ thể hoạt động.
Thứ ba, với chức năng trau dồi sự tinh tế, độ nhạy cảm của năng lực
cảm xúc trong mỗi người nói chung và sinh viên nói riêng, những tri thức về
thẩm mỹ giúp sinh viên tìm được những cảm xúc trong sáng, sự rung động
trước cái đẹp. Cái đẹp luôn gắn với cái đúng, cái tốt nên cảm xúc thẩm mỹ
của chủ thể thẩm mỹ khi ấy đồng nhất với cái thiện, cái đúng, sự công bằng



19
khi đánh giá, nhận xét các sự vật, hiện tượng. Cái đẹp thẩm mỹ chính là nền
tảng để xây dựng những giá trị đạo đức cao quý.
Vì vậy, Goocki dã từng nói: Mỹ học là đạo đức học của tương lai 9. Bởi
vì, khi con người biết yêu cái đẹp cũng chính là lúc họ biết yêu cái thiện, ghét
cái ác, đứng về lẽ phải đấu tranh với sự bất công trong xã hội. Con người khi
biết cảm nhận cái đẹp, họ tự khn mình theo khn mẫu của cái đẹp ấy. Họ
sẽ sống thiện hơn, nhân hậu hơn và có ích hơn cho mình và cho xã hội. Trước
mỗi tấm gương sáng về cái đẹp, mỗi người soi vào đó tự cảm thấy mình đẹp
hơn.

9

Vũ Trọng Dung (2014), Giáo trình đại cương về những khuynh hướng cơ bản trong lịch sử mỹ học, Trường
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, tr.235.


20
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hiện nay, đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa, góp phần đẩy nhanh cách mạng xã hội chủ
nghĩa tiến tới xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và
văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó là trách nhiệm của mỗi cơng dân trong xã
hội – những con người phải hội tụ đủ đức, tài, phẩm chất và năng lực. Chính
vì vậy, việc tự rèn luyện để hình thành nhân cách tích cực ở mỗi cá nhân rất
quan trọng, đặc biệt là đối với sinh viên – những tri thức trẻ, nguồn lực quan
trọng của sự nghiệp phát triển đất nước.
Thực tế cho thấy, việc xây dựng và phát triển nhân cách là một vấn đề
phức tạp. Bởi vì quá trình phát triển nhân cách chịu sự chi phối bởi nhiều yếu
tố với những vai trò quyết định khác nhau. Tuy nhiên, bằng việc chủ động

nghiên cứu, trang bị những kiến thức cần thiết giúp chúng ta không bị động
mà chủ động điều tiết được hành vi của mình cũng như của mọi người để
hướng tới phát triển theo nhân cách tích cực.
Đối với sinh viên, cá nhân em cho rằng việc học tập lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin là việc làm cần thiết nhất để hình thành cho chúng ta cách nhìn
nhận khoa học và có sở cứ về thế giới quan, tạo ra và củng cố niềm tin và đạo
đức cộng sản, hình thành chân thiện mỹ, vừa kế thừa những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp đồng thời hình thành nên những giá trị đạo đức mới phù
hợp với yêu cầu của đất nước. Do đó, ngay từ khi cịn ngồi trên ghế nhà
trường, việc học tập lý luận Mác – Lênin và tự rèn luyện chính là cách để sinh
viên hình thành nên nhân cách tích cực, là cơng dân có ích cho xã hội và đất
nước.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, Tập 20, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
2. Cung Kim Tiến (2002), Từ điển triết học, Nxb. Văn hóa – Thơng tin, Hà
Nội.
3. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
4. Hồnh Anh (Chủ biên, 2011), Giáo trình Giáo dục với việc hình thành
và phát triển nhân cách sinh viên, trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Nxb.
Chính trị Quốc gia – Sự thật.
5. Nguyễn Hữu Vi (2001), Đổi mới phương pháp giảng dạy các bộ môn
khoa học Mác – Lê nin ở Việt Nam – những vấn đề chung, Đề tài KX – 10 – 08.
6. Từ điển bách khoa triết học (1964), Tập 3, Matxcơva.
7. Vũ Trọng Dung (2014), Giáo trình đại cương về những khuynh hướng
cơ bản trong lịch sử mỹ học, Trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Nxb.
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.




×