Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

THỰC TRẠNG nợ xấu của NGÂN HÀNG THƯƠNG mại và PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.71 KB, 13 trang )

ĐỀ TÀI : THỰC TRẠNG NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỢ XẤU
1.1. Các khái niệm cơ bản
Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng cũng có thể gặp rủi ro. Trên thế giới
người ta phân ra nhiều loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tiêu biểu nhất là rủi ro
trong hoạt động tín dụng.
• Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả cả gốc và lãi giữa người cho
vay và người đi vay
• Rủi ro trong hoạt động tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả
được lãi và gốc vay.
1.2. Quy định của Việt Nam về nợ xấu
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN định nghĩa nợ
xấu như sau : Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4 và 5 được phân loại như sau :
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và
lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại;
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi
nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức
thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi
đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi
đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ
gốc và lãi.
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;


- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần
đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản này;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo
hợp đồng tín dụng;
1
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao;
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu
lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá
hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
Kết luận : Vậy theo quyết định này thì nợ xấu được quyết định theo 2 yếu tố (1) đã quá hạn
trên 90 ngày và (2) khả năng trả nợ đáng lo ngại. Đây được coi là định nghĩa của VAS
( Chuẩn mực kế toán Việt Nam )
1.3. Quy định và thông lệ quốc tế về nợ xấu
Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc, “về cơ bản một khoản nợ được
coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90
ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải
thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản
vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.

Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: (I) quá hạn trên 90 ngày
và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của IAS ( Chuẩn mực kế toán
quốc tế ) đang được áp dụng .
Một định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và IAS 39 vừa
được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế cho ra đời và được khuyến cáo áp dụng ở một số
nước phát triển vào đầu năm 2005. Về cơ bản IAS 39 chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả của
khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để
đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai
hoặc xếp hạng khoản vay (khách hàng). Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết,
nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nó đang được Uỷ ban Chuẩn mực Kế
toán quốc tế chỉnh sửa lại.
2
1.4. Sự khác biệt về định nghĩa nợ xấu của Việt Nam và quốc tế
Trên thực tế thì định nghĩa nợ xấu của Việt Nam gần sát với chuẩn mực quốc tế mặc dù vậy cho
đến nay hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ mới hạch toán nợ xấu theo thời gian
quá hạn trên 90 ngày (yếu tố 1); việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng (yếu tố 2) đang
gặp nhiều khó khăn. Phần lớn ngân hàng thương mại chưa hoặc đang thí điểm áp dụng phương
pháp này. Báo cáo phân tích rằng hầu hết các NHTM tại Việt Nam hiện nay đều phân loại nợ
dựa vào định lượng mà thiếu đi phần định tính như tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc phân loại nợ không phản ánh thực chất khoản
nợ.
Ngoài ra, một số ngân hàng còn biến nghiệp vụ gia hạn nợ, vốn là một nghiệp vụ bình
thường của ngân hàng thành một hình thức để giảm tỷ lệ nợ xấu của mình do nợ gia hạn không
được tính vào nợ xấu.
Không ít ngân hàng đã hạn chế phân loại nợ xuống nhóm III-V để tránh trích lập dự phòng
rủi ro tín dụng, tránh ảnh hưởng đến lợi nhuận của mình. Kết quả là sự chênh lệch giữa phân
loại nợ xấu theo chuẩn trong nước và quốc tế ngày càng lớn.
2. Sự cần thiết phải xử lý ‘‘ nợ xấu’’ trong Ngân hàng thương mại
• Ngân hàng mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền : Nếu các khoản nợ xấu lớn, tức là
khả năng thu hồi các khoản nợ của khách hàng thấp, ngân hàng sẽ phải dùng vốn để trang trải

cho các khoản thất thoát này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không còn khả năng thanh toán
cho người gửi tiền tiết kiệm.
• Ngân hàng là ngành kinh tế nhạy cảm, phụ thuộc vào những lòng tin do đó khi thông tin khả
năng trả nợ ngân hàng là không chắc chắn, người gửi tiền sẽ đổ xô đi rút tiền làm ngân hàng lâm
vào tình trạng phá sản.
• Nợ xấu đe dọa tới sự an toàn và ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
II. THỰC TRẠNG NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Thực trạng nợ xấu tại các NHTM
Theo báo cáo của Advancia – Negocia xuất bản cuối năm 2010 nhan đề “Vietnam Country Risk
Analysis” đã đánh giá rủi ro của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đang ở mức “high”
(cao). Advancia – Negocia cho rằng việc cho vay ồ ạt sẽ đẩy tình trạng nợ xấu của hệ thống
ngân hàng ở Việt Nam lên rất cao. Báo cáo này cũng nhận định hệ thống ngân hàng của Việt
Nam đang gánh chịu tình trạng lòng tin của công chúng thấp, sự yếu kém về quản lý nhà nước
và quản lý doanh nghiệp, không đáp ứng được các tiêu chuẩn Base Capital, và không có kiểm
toán quốc tế. Điểm số rủi ro đang có khuynh hướng tăng dần từ 66 điểm hồi tháng 9 năm 2010,
lên 67 vào tháng 10 và 11/2010, 68 vào tháng 12/2010 và 69 điểm vào tháng 2,3/2011.
Cụ thể hơn, theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 7.10.2011 nợ xấu của nhóm ngân hàng thương
mại (NHTM) nhà nước tăng 66,18%, nhóm các ngân hàng cổ phần tăng 44,29%, nhóm ngân
hàng liên doanh, 100% vốn nước ngoài tăng 59,23% so với cuối 2010. Đó là chưa tính đến một
3
lượng lớn vốn của tổ chức tín dụng đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp nhưng chưa được đánh
giá và trích lập dự phòng đầy đủ đang tiềm ẩn rủi ro đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Theo báo cáo chính thức từ phía các ngân hàng thương mại Việt Nam thì đến cuối năm 2010 thì
tỷ lệ nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng VN chỉ khoảng 2,5%. . Theo phát biểu của thống
đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình tại phiên trả lời chất vấn quốc hội ngày 25/11/2011
cho biết nợ xấu của hệ thống ngân hàng đến nay là khoảng 3,3% trên tổng dư nợ cho vay. Dự
kiến đến cuối năm 2011 là từ 3,6-3,8%. Như vậy nợ xấu cuối năm 2011 tăng xấp xỉ 52% so với
năm 2010.
Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng khối cổ phần và toàn hệ thống như sau :
TCTD T11/2010 T6/2011 T8/2011

Khối cổ phần 1,8% 2,1% 2,1%
Toàn hệ thống 2,5% 2,9% 3,1%
Nhìn vào bảng số liệu trên tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ của khối ngân hàng thương mại cổ phần tăng,
tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống có xu hướng tăng cao.
Đến thời điểm này, 8 ngân hàng niêm yết đã công bố BCTC riêng lẻ quý III năm 2011. Các
BCTC này cho thấy, nợ xấu của các ngân hàng đã tăng khá mạnh sau 9 tháng đầu năm nay. Bên
cạnh đó, nợ nhóm 2, tức nợ cần chú ý, được xem là nợ “dự bị” xấu cũng tăng mạnh không kém.
Trong số 8 ngân hàng niêm yết là VCB, CTG, STB, ACB, EIB, SHB, HBB và NVB, tất cả nợ
xấu của các ngân hàng đều tăng.
Bảng : Tỷ lệ nợ xấu các ngân hàng niêm yết
Đv tính: Tỷ đồng
Ngân hàng CTG VCB STB EIB ACB SHB HBB NVB
Tổng dư nợ
tại 30/9/2011 271,677 188,473 80,149 69,524 99,719 28,252 18,685 12,869
Nợ xấu
đến cuối T9/2011 1.37% 3.92% 0.60% 1.50% 1.07% 1.55% 2.80% 2.80%
Nợ xấu
cuối năm 2010 0.70% 2.80% 0.50% 1.40% 0.30% 1.40% 2.40% 2.20%
So với thời điểm cuối năm 2010, ngân hàng có mức độ nợ xấu tăng mạnh nhất là VCB từ 2,8%
lên 3,92 % (tại thời điểm 30/9/2010). Đây cũng là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu lớn nhất trong 8
ngân hàng. Ngân hàng đáng chú ý nhất về mức tăng nợ xấu là CTG với tổng nợ xấu sau 9 tháng
đầu năm 2011 tăng 144%, từ mức 1.530,7 tỷ đồng lên 3.731,8. Không chỉ vậy, trong số nợ xấu
tăng lên, nợ xấu nhất, tức nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5, với tỷ lệ trích dự phòng 100%) tăng
tới 735%, từ mức 202,5 tỷ đồng lên 1.691 tỷ đồng.
Cơ cấu và tốc độ tăng nợ xấu
4
Nhìn vào biểu đồ về Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ của các NHTM, ta thấy nợ nhóm 5 hay nợ có khả
năng mất vốn chiếm tỷ lệ rất lớn, đây là vấn đề rất đáng lo ngại đối với các Ngân hàng thương
mại. Hầu hết các ngân hàng niêm yết nói trên đều là các ngân hàng lớn, có bề dày kinh
nghiệm cũng như năng lực quản trị tốt nhất. Vì vậy, có thể hình dung được thực trạng nợ

xấu của các ngân hàng còn lại cũng như của toàn hệ thống ngân hàng là như thế nào.
Các số liệu quý III nói trên là của các BCTC chưa được kiểm toán. Nếu sau khi soát xét, chỉ cần
có sự xê dịch trong việc phân loại nợ giữa các nhóm khác nhau, kết quả kinh doanh của ngân
hàng sẽ có sự thay đổi đáng kể. Bức tranh nợ xấu tại các ngân hàng niêm yết là thông điệp trực
tiếp phản ánh mức độ khó khăn trong kinh doanh của các doanh nghiệp và của nền kinh tế. Theo
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN, nợ thuộc nhóm 2 có tỷ lệ
trích lập dự phòng 5%, nhóm 3 là 20%, nhóm 4 là 50% và nhóm 5 là 100%. Nợ xấu của các
NHTM niêm yết nói riêng và các NHTM của Việt Nam nói chung tăng lên là một thực tế cảnh
báo về mức độ an toàn của các NHTM. Nhiều chuyên gia đã cảnh báo, nợ xấu có thể sẽ tiếp tục
tăng mạnh trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế còn tiếp tục khó khăn như hiện
tại, khi các doanh nghiệp đến hạn trả nợ mà không thực hiện được. Bối cảnh thị trường bất động
sản ảm đạm, với lãi suất cao hiện nay, nếu doanh nghiệp nào kinh doanh tốt gần như tất cả lợi
nhuận làm ra chỉ đủ để chi trả chi phí lãi vay (trừ 1 số ít đếm trên đầu ngón tay là có lợi nhuận
khả quan). Còn lại gần như thua lỗ và không ít doanh nghiệp đang ngấp nghé bờ vực phá sản,
nếu thị trường BĐS tiếp tục đóng băng như hiện nay kéo dài thêm 6 tháng đến 1 năm nữa thì áp
lực sẽ đè nặng trên toàn hệ thống tài chính VN. Nợ xấu sẽ gia tăng theo hiệu ứng domino, như
nợ xấu BĐS 6 tháng đầu năm khoảng 8-12% dư nợ trong các báo cáo tài chính của hầu hết các
NH trong quý III năm nay tỉ lệ nợ xấu đều tăng lên. Tuy nợ xấu có tăng cao lên như vậy nhưng
5
theo các chuyên gia kinh tế, số liệu này vẫn chưa phản ảnh thực chất nợ xấu hiện tại ở các ngân
hàng thương mại cổ phần hiện nay. Một cán bộ lãnh đạo cấp vụ của Ngân hàng Nhà nước nói:
“Số liệu này không ai tin, nhưng căn cứ nào để nói số liệu đó phản ánh không đúng chất lượng
tín dụng hiện nay thì chưa chỉ rõ ra được”. Một số lãnh đạo các chi nhánh ngân hàng thương
mại (cả cổ phần và Nhà nước) nhận xét tỷ lệ nợ xấu thể hiện trên các báo cáo tài chính hiện nay
là thấp so thực tế. Nguyên nhân chủ yếu do một số ngân hàng sợ ảnh hưởng đến kết quả tài
chính. Nếu số nợ xấu lớn thì phải trích lập để dự phòng cũng lớn (nhóm 3 : 20%, nhóm 4 : 50%
và nhóm 5 là 100%) số tiền này phải hạch toán vào chi phí hoạt động. Nếu trích đủ dự phòng,
chi phí nhiều chi nhánh ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ lớn hơn thu nhập. Mặc dù NHNN
đã đưa ra quy định về việc phân loại nợ theo Quyết định 493/2005 trong đó bao gồm cả phân
loại theo định lượng (điều 6) và định tính (điều 7) song chỉ có BIDV, Agribank và Vietcombank

đã thực hiện việc phân loại nợ theo định tính. Nguyên nhân là do họ phải xây dựng được hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ để áp dụng phương pháp phân loại này.
Việc phân loại nợ theo định tính sẽ làm tỷ lệ nợ xấu cao gấp 2-3 lần so với định lượng và bản thân
nó cũng gặp phải nhiều điểm bất cập. NHNN trong cuộc gặp với các NHTM mới đây cho biết họ
đang xây dựng dự thảo thông tư quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro tín dụng trong hoạt động của tổ chức tín dụng nhằm thay thế Quyết định 493 đã lỗi thời.
Theo NHNN, con số nợ xấu 3,1% theo chuẩn Việt Nam vẫn ở mức an toàn và kiểm soát được,
nhưng theo chuẩn quốc tế tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam lên tới 13% tổng dư nợ và
là một con số đáng lo ngại. Lý do của sự khác biệt này là nợ xấu (non-performing loans, hay
NPL) theo cách tính của quốc tế là các khoản nợ không có khả năng trả hoặc gần như không có
khả năng trả. Trong khi đó, cách của Việt Nam chỉ tính khoản nợ đến hạn. Chính vì lý do đó mà
có sự khác biệt rất lớn giữa con số của Việt Nam đưa ra và con số của Fitch Ratings ước tính.
Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010-2011 đang trải qua khó khăn với tình trạng lạm phát, lãi
suất tăng cao trong khi đồng tiền trượt giá gần 30%, đã đẩy hàng loạt doanh nghiệp nhỏ và vừa
vào tình trạng phá sản.
Hiện nay, dư nợ bất động sản, tài chính và tiêu dùng chiếm 16,95% tổng dư nợ, tương đương
360.000 tỷ đồng. Trong khi đó, thị trường bất động sản đóng băng khiến các doanh nghiệp
không có tiền để tiếp tục xây dựng hay hoàn thành, đã phải hạ giá bán sản phẩm (như trường
hợp của PVL vay của Ngân hàng Bưu điện Liên Việt 100 tỷ đã phải bán tháo dự án giá rẻ do áp
lực trả nợ ngân hàng), càng tăng thêm mối lo cho các ngân hàng về khả năng thu hồi vốn. Đơn
cử như bức tranh khủng hoảng tín dụng ‘’đen’’ tại Việt Nam trong thời gian vừa qua. Từ tháng
9/2011 đến nay, cả nước đã xảy ra hàng loạt vụ vỡ nợ khủng trong khu vực phi chính thức, gây
nên những cú sốc cho cả người dân là chủ nợ, lẫn cơ quan quản lý nhà nước. Bộ Công An đã
vào cuộc trong một số trường hợp đặc biệt. Tổng số tiền thất thoát từ các vụ vỡ nợ ước tính lên
tới hơn 10.000 tỷ đồng (500 triệu USD). Một số vụ vỡ nợ tín dụng đen điển hình từ tháng
9/2011 đến nay:
- Huỳnh Thị Huyền Như – TP HCM : khoảng 1000 tỷ
6
- Nguyễn Thị Tuyết Mai – TP HCM : 30 tỷ
- Vũ Văn Điệp – Giám đốc công ty Trường Phong – Thái Bình : Khoảng vài trăm tỷ

( ĐôngA Bank 99 tỷ, VCB 13 tỷ )
- Nguyễn Thị Cúc – Phú Xuyên : 284 tỷ
- Tạ Việt Quang – Thị trấn Phùng – Đan Phượng Hà Nội : gần 300 tỷ
- 3 vụ vỡ nợ ở TP Vinh- Nghệ An liên quan tới 2 cán bộ của Ngân hàng ( Nguyễn Trọng
Hưng – Cán bộ chi nhánh SCB Nghệ An và Đặng Nam Hải – Trưởng phòng cá nhân
Eximbank Nghệ An : Khoảng 50 tỷ VND )
Tổng cộng quy mô của tất cả các vụ vỡ nợ này theo thông tin được các báo chí cung cấp tương
đương bằng vốn điều lệ của một NHTM cỡ vừa, điều này càng làm gia tăng mối lo ngại nợ xấu.
Vì thế, một trong những nội dung trọng điểm của chương trình tái cấu trúc ngành ngân hàng là
việc tập trung xử lý lượng nợ xấu đang tồn đọng và có dấu hiệu tăng mạnh trong hệ thống ngân
hàng.
70% khoản nợ xấu hệ thống ngân hàng thuộc về các doanh nghiệp nhà nước, do đó điều quan
trọng không chỉ làm sạch khoản nợ xấu này mà là cơ chế kiểm soát và thẩm định chặt chẽ, đảm
bảo những doanh nghiệp nhà nước với những dự án hiệu quả mới được cấp tín dụng, thay vì
được Chính phủ ưu ái hỗ trợ vốn tràn lan hiện nay.
Vietcombank( VCB ) là một ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước cũng được đánh giá là
ngân hàng lớn và có kinh nghiệm trong việc quản trị rủi ro, có hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ khá tốt nhưng nợ xấu cũng đang tăng một cách nhanh chóng và VCB cũng là một trong
những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao so với các ngân hàng thương mại . Diễn biến nợ xấu 8
tháng đầu năm 2011
Tháng 12/2010 01/2011 02/2011 03/2011 04/2011 05/2011 06/2011 07/2011 08/2011
Tỷ lệ nợ
xấu
2,8% 2,7% 2,7% 2,7% 2,9% 3,5% 3,5% 3,6% 4,0%
Tỷ lệ nợ
nhóm 2
9,8% 9,6% 9,2% 10,1% 9,9% 16,6% 15,7% 15,6% 15,2%
Tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank tính từ đầu năm tới nay liên tục tăng, nợ xấu tăng tại các chi
nhánh tập trung ở một, hai khách hàng lớn. Chi nhánh có nợ xấu cũng như tỷ lệ nợ xấu tăng cao
tập trung nhiều ở khu vực Bắc Bộ. Trong đó xét trong 10 khách hàng nợ xấu tăng tập trung ở

ngành sản xuất phôi thép (38,4%), vận tải đường biển (12,2%), cơ khí chế tạo (12,1%), thương
mại café (11,8%), đóng tàu, thuyền (13,9%),… Số tăng nợ xấu của 10 khách hàng này chiếm
đến 75% số tăng nợ xấu toàn ngành.
Nợ nhóm 2 tập trung ở các ngành bất động sản, dịch vụ vận tải, xi măng, vật liệu xây dựng khác
và dịch vụ chăm sóc sức khỏe,… Tốc độ tăng nợ nhóm 2 của VCB tương đối lớn. Với tình hình
7
kinh tế khó khăn như hiện nay những khách hàng nhóm 2 này là một nguy cơ tiềm ẩn ảnh
hưởng xấu đến chất lượng tài sản của Ngân hàng, khi nhóm này có thể chuyển sang nhóm nợ
xấu bất cứ lúc nào.
Tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank tính từ đầu năm đến nay liên tục tăng là do các nguyên nhân :
- Do dư chấn của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế thế giới
- Tình hình kinh tế trong nước khó khăn, tỷ lệ lạm phát cao, diễn biến phức tạp của tỷ giá
và lãi suất làm cho môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng, đặc biệt là
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thép, vận tải và đóng tàu
- Khách hàng có năng lực quản lý kém, đầu tư dàn trải và dự án cho vay không hiệu quả
- Bong bóng bất động sản làm cho việc phát mại tài sản đảm bảo khó khăn, kéo dài,…
Kết luận : Qua phân tích thực trạng nợ xấu của Vietcombank cùng các số liệu về nợ xấu
được công bố nêu trên có thể thấy được toàn cảnh bức tranh nợ xấu của các ngân hàng
thương mại Việt Nam ngày càng xấu đi, nó phản ảnh thực trạng hệ thống tài chính yếu kém
và hơn hết đang cần có những biện pháp thật mạnh tay để giải quyết. Nếu xu hướng này tiếp
tục diễn ra thì thanh khoản hệ thống ngân hàng vào thời điểm cuối năm 2011 sẽ trở nên rất căng
thẳng. Những NHTM nhỏ có thể là những ngân hàng đầu tiên gánh chịu các tác động lớn nhất.
Nếu như có quá nhiều khoản nợ quá hạn trong khi lại không thể cạnh tranh huy động được vốn
trên thị trường 1 (thị trường huy động vốn từ dân cư và các tổ chức) do lãi suất bị áp trần 14% thì
hiệu ứng căng thẳng thanh khoản ắt xảy ra và kéo theo đó là sự phá sản của một số các ngân hàng.
2. Nguyên nhân của thực trạng nợ xấu
2.1. Nguyên nhân khách quan
 Sự gia tăng của lãi suất :
Lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại, đã và đang tăng. Lãi suất cho vay đầu ra buộc
phải tăng theo để cân đối. Hiện tại, lãi suất huy động VND vào khoảng 14%/năm, lãi suất cho vay từ

17-21%/ năm. Theo đó, chi phí vốn của doanh nghiệp đội lên, khả năng trả nợ bị ảnh hưởng.
Các doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận lãi suất cao vì họ có khả năng tìm nguồn vốn khác.
Phần lớn những doanh nghiệp dám chấp thuận mức lãi suất cao xuất phát từ sự thiếu vốn trầm
trọng, năng lực tài chính hạn chế, độ tín nhiệm thấp nên không tiếp cận được những nguồn vốn
khác. Và tất nhiên, nguy cơ nợ xấu ngân hàng tăng lên từ nhóm đối tượng này. Ngoài ra, đi cùng
tình trạng kinh tế khó khăn, đã có hàng ngàn doanh nghiệp phá sản và hàng chục ngàn doanh
nghiệp khác suy giảm sản xuất, hàng loạt doanh nghiệp tạm đóng cửa hay cầm chừng chờ thời
Tất nhiên, khi doanh nghiệp không hoạt động, không có lợi nhuận thì không có khả năng thanh
toán nợ ngân hàng. Và những khoản vay của họ lần lượt được thành các khoản nợ xấu.
 Ảnh hưởng bong bóng của tài sản thế chấp
Chiếm phần lớn trong danh mục tài sản thế chấp vay vốn hiện nay là bất động sản. Giá nhà đất
tăng cao, vượt cả giá trị hợp lý của nó và thị trường đóng băng, khả năng trả nợ của nhiều chủ
8
đầu tư rơi vào khủng hoảng. Biện pháp thường thấy của các ngân hàng là gia hạn nợ, nhưng đó
là cách để tiến gần hơn tới ranh giới nợ xấu. Mặt khác, khi giá nhà đất giảm, các ngân hàng lại
rơi vào tình trạng giá tài sản thế chấp cho khoản nợ lại cao hơn giá thực tế.
Tính đến cuối tháng 3/2011, tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng là 2,39 triệu tỷ đồng, trong đó
bất động sản chiếm 10,8%. Tỷ lệ nợ xấu bất động sản trong tổng dư nợ cho vay bất động sản là
4%, cao hơn mức bình quân nợ xấu của ngân hàng.
TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia chỉ rõ, không chỉ tỷ lệ dư
nợ tín dụng bất động sản cao, nhiều ngân hàng vẫn đang xem xét các khoản vay nội bộ, tức là
cho các cổ đông lớn của các ngân hàng vay tiền, mà các cổ đông này lại chính là chủ đầu tư các
dự án bất động sản. Đây chính là rủi ro lớn đối với ngân hàng.
Ngoài nguyên nhân trên, theo ông Nguyễn Trần Nam, Thứ trưởng Bộ Xây dựng, nợ xấu bất
động sản tại các ngân hàng thương mại có xu hướng tăng trong thời gian qua còn do nhiều tổ
chức tín dụng thực cấp tín dụng trên cơ sở đảm bảo bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của chủ đầu tư cấp I.
Cụ thể, ngay khi công trình mới nằm trên giấy, chủ đầu tư đã huy động vốn từ người mua nhà.
Và chính người tiêu dùng hay các chủ đầu tư thứ cấp lại tiếp tục dùng hợp đồng mua nhà đó vay
vốn ngân hàng và tái đầu tư. Với kiểu vay vốn vòng quanh như vậy, một tài sản bất động sản,

hoặc một dự án bất động sản sẽ tiếp cận vay vốn được nhiều ngân hàng. Điều này làm phát sinh
nợ xấu trên toàn hệ thống ngân hàng, nếu sản phẩm bất động sản không sớm được thanh khoản.
Ngoài ra, việc Ngân hàng Nhà nước hạn chế tín dụng phi sản xuất xuống dưới 22% vào ngày
30/6/2011 và 16% vào cuối năm 2011 cũng khiến thị trường bất động sản rơi vào cảnh thiếu
vốn, nhiều doanh nghiệp phát triển dự án bất động sản không thể hoàn thiện các hạng mục dở
dang, thanh khoản khó khăn , dẫn đến việc doanh nghiệp, nhà đầu tư không có khả năng thu
hồi vốn, nên không có tiền trả nợ ngân hàng.
 Rủi ro về môi trường kinh doanh.
Do thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố, do vậy việc sử dụng vốn vay và vốn của doanh
nghiệp không đạt hiệu quả, mất hoàn toàn về vốn của cả doanh nghiệp và của cả vốn vay ngân
hàng thương mại. Tình hình kinh tế thế giới có thể ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng như :
Biến động của giá vàng thế giới, giá dầu mỏ, giá một số ngoại tệ mạnh hoặc giá một số vật tư
chủ yếu có xu hướng tăng cao. Hoặc sự biến động và sức ép cạnh tranh ngày càng tăng của thị
trường, hoặc môi trường kinh doanh, làm cho doanh nghiệp không có khả năng thích ứng kịp
thời, kinh doanh khó khăn dẫn đến mất khả năng thanh toán
2.1. Nguyên nhân chủ quan
 Về phía ngân hàng thương mại
Để xảy ra thực trạng nợ xấu như hiện nay nguyên nhân một phần không nhỏ khi ngân hàng
quyết định cho vay thiếu căn cứ khoa học, không phân tích tình hình khả năng sử dụng vốn và
hoàn trả nợ vay của doanh nghiệp. Với áp lực tăng vốn, nhiều ngân hàng tìm mọi cách để tăng
9
trưởng nhanh, đặc biệt là đã nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay để đảm bảo hiệu quả trên đồng
vốn. Song, hậu quả lại dẫn đến các khoản nợ xấu tăng nhanh.
Theo đánh giá của các chuyên gia, nợ xấu của hệ thống Ngân hàng là hệ quả tất yếu của quá
trình tăng trưởng tín dụng quá nóng trong những năm qua, cộng với cơn sốt cho vay bất động
sản, chứng khoán ồ ạt trong thời kì 2006-2007. Trong 10 năm trở lại đây, mặc dù Ngân hàng
Nhà nước thường xuyên yêu cầu các Ngân hàng thương mại phải hạn chế tăng trưởng tín dụng
không quá cao nhưng thực tế tăng trưởng vẫn trên 20%; năm 2007 tăng trưởng tín dụng tới
51,39%; năm 2009 là 37,7%; năm 2010 là 29,8% Việc cho vay ồ ạt cùng với chính sách cho
vay lỏng lẻo những năm trước đã để lại nhiều hệ lụy, trong đó có nợ xấu.

- Sự phát triển ồ ạt của hệ thống ngân hàng thương mại cũng là một nguyên nhân gia tăng nợ
xấu (cả nước có khoảng 100 ngân hàng). Sự ra đời của ngân hàng dễ dàng, thậm chí không đạt
tiêu chuẩn về vốn ban đầu đã thúc đẩy các ngân hàng nhỏ tìm mọi cách tăng vốn huy động, thúc
đẩy tín dụng bằng cách nới lỏng tiêu chuẩn cho vay, cho vay dễ dãi, thiếu các điều kiện bảo đảm
cần thiết… cũng làm cho nợ xấu gia tăng.
Mặt khác chính vì mục tiêu tăng lợi nhuận ròng và giảm gánh nặng của các khoản phải trích dự
phòng rủi ro theo quy định mà các ngân hàng hay tổ chức tín dụng sẽ sẵn sàng cơ cấu lại các
khoản nợ không chỉ một lần mà diễn ra nhiều lần qua đó có những sự chuyển biến từ nợ xấu
thành các khoản tín dụng thuộc nhóm 1 hoặc nhóm 2 những nhóm có độ an toàn tín dụng cao.
Việc cơ cấu lại các khoản nợ theo hướng này các ngân hàng hay tổ chức tín dụng sẽ có hệ số nợ
xấu thấp qua đó tăng độ tin cậy hay xếp hạng về độ an toàn tín dụng ở hệ thống ngân hàng qua
đó nâng cao uy tín trong hệ thống liên ngân hàng và giảm thiểu các khoản trích dự phòng tăng
lợi nhuận ròng.
Tuy nhiên chính do sự liên tục cơ cấu lại các khoản nợ như trên đã tạo ra một sự mập mờ trong
phân định nợ quá hạn và nợ xấu, mang lại rủi ro lớn cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
 Về phía doanh nghiệp
- Quản lý sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiền vay về
không có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp vay
vốn làm ăn kém hiệu quả, nợ phải trả tăng trong đó có nợ vay ngân hàng.
- Bản thân doanh nghiệp thiếu ý thức trong vấn đề sử dụng vốn vay, hoặc thiếu ý thức trong vấn
đề trả nợ, không lo lắng, không quan tâm đến nợ ngân hàng mặc dù khả năng tài chính của
doanh nghiệp có.
- Sử dụng vốn vay sai mục đích : Theo báo cáo mới đây được Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) đưa ra tại hội thảo “Ngân hàng và DN trước tác động của chính sách
tiền tệ”, có hơn 60% doanh nghiệp lấy quá nhiều vốn ngắn hạn đầu tư trung dài hạn, đa số
doanh nghiệp đều đầu tư ngoài ngành. Lãi phải trả là cho 100% khoản vay trong khi chỉ có 60%
vốn sử dụng có hiệu quả.
10
Còn theo Báo cáo thường niên doanh nghiệp vừa và nhỏ của VCCI năm 2010, năng lực sử dụng
vốn của doanh nghiệp ở cả 8 ngành được nghiên cứu, gồm viễn thông, bảo hiểm, sản xuất và

phân phối điện, vận tải đường thủy, sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, may mặc, sản xuất
sản phẩm từ cao su - plastic và xây dựng đều có xu hướng giảm, trong đó các ngành viễn thông,
sản xuất và phân phối điện giảm mạnh hơn cả.
Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến các ngân hàng khó có khả năng thu hồi được số
vốn đã cho vay. Theo báo cáo của các địa phương trong cả nước, chỉ thống kê riêng các ông chủ
đến từ Đài Loan và Hàn Quốc, đã có hơn 200 dự án bị phá sản, giải thể do gặp khó khăn về tài
chính. Trong đó, có hơn 20 dự án của nhà đầu tư Hàn Quốc và Đài Loan tại 12 địa phương còn
nợ đọng ngân hàng không có khả năng trả nợ với số tiền gần 80 triệu USD. Riêng Phú Thọ gần
17 triệu USD; Hải Dương khoảng 50 triệu USD
 Sự can thiệp của chính phủ vào nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng
Mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua những bước thay đổi quan trọng về tổ chức và
cơ chế hoạt động, biến các ngân hàng quốc doanh thành các ngân hàng kinh doanh thương mại
thuần túy, nhưng Chính phủ vẫn có xu hướng gây áp lực hay khuyến khích một cách công khai
hoặc ngầm định các ngân hàng cấp tín dụng vượt quá mức an toàn thương mại cho phép để đạt
được mục tiêu tăng trưởng đề ra.
- Chính phủ đôi khi cũng "ép" các ngân hàng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ để
tránh làm tăng mức thất nghiệp. Ngoài ra, các quan chức chính phủ cũng thường can thiệp vào
quyết định cho vay của ngân hàng, khiến tỷ lệ nợ xấu thêm gia tăng.
Sự can thiệp của chính phủ vào việc cho vay của ngân hàng có thể diễn ra trước khi quyết định
cho vay được đưa ra hoặc sau khi giao dịch đã hoàn tất. Với can thiệp diễn ra trước khi ra quyết
định cho vay, các ngân hàng quốc doanh vẫn có nghĩa vụ thực hiện các khoản cho vay chính
sách, theo các chương trình phát triển của chính phủ hoặc vì lý do chính trị. Các khoản cho vay
chính sách thông thường bao giờ cũng có chất lượng thấp hơn các khỏan cho vay thương mại.
Chính phủ còn can thiệp vào thị trường tín dụng sau khi sự cho vay đã diễn ra hoàn tất bằng
cách ra tay cứu vớt các doanh nghiệp Nhà nước hoặc ngân hàng quốc doanh có vấn đề. Sự cứu
giúp của chính phủ có thể ở dưới nhiều dạng như tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thua lỗ,
nhận các khoản nợ xấu, và cố ý trì hoãn việc đóng cửa các tổ chức tài chính mất khả năng thanh
toán. Thông lệ cứu vớt như vậy đã làm giảm nhu cầu cải thiện tính hiệu quả ở các ngân hàng,
khuyến khích các ngân hàng theo đuổi các dự án cho vay đầy rủi ro.
Dưới sự can thiệp hoặc khuyến khích ngầm định và công khai của chính phủ như trên, các ngân

hàng quốc doanh trở nên “thích” cho vay các doanh nghiệp nhà nước hơn vì mọi rủi ro hầu như
đã được chính phủ bảo lãnh. Điều này càng quan trọng hơn khi mà ở Việt Nam, cơ chế luật định
liên quan đến thi hành các nghĩa vụ hợp đồng rất yếu kém, làm tăng rủi ro mất khả năng thu hồi
các khoản cho vay của ngân hàng. Trong bối cảnh không có sự bảo lãnh của chính phủ thì tất
nhiên các ngân hàng sẽ phải rất thận trọng khi quyết định cho các doanh nghiệp Nhà nước vay.
11
Hơn nữa, quan hệ truyền thống và dài hạn giữa ngân hàng quốc doanh và các doanh nghiệp nhà
nước làm cho chi phí giao dịch với các doanh nghiệp nhà nước nhỏ hơn với doanh nghiệp tư
nhân, càng làm tăng thêm xu hướng ngân hàng cho vay doanh nghiệp nhà nước hơn là doanh
nghiệp tư nhân.
Vì thế, dễ hiểu tại sao con nợ mất khả năng thanh toán chính của ngân hàng quốc doanh là các
doanh nghiệp Nhà nước chứ không phải các doanh nghiệp tư nhân.
III. GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc quản lý nợ xấu là điều cần thiết hơn bao giờ hết. Chính phủ
đóng vai trò chủ đạo và định hướng thống nhất cho các NHTM trong quá trình thực hiện quản lý
nợ xấu. Chính phủ có thể ban hành các văn bản, quy định tạo ra hành lang pháp lý phù hợp cũng
như đưa ra các biện pháp hỗ trợ kinh tế, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc nằm ngoài
tầm kiểm soát điều tiết xử lý của NHTM, nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực đảm bảo sự
an toàn, bình đẳng cho mọi tổ chức hoạt động dịch vụ ngân hàng và tài chính trên lãnh thổ Việt
Nam, gây sức ép phải đổi mới và tăng hiệu quả hoạt động lên ngân hàng TM như nâng cao
chất lượng dịch vụ đồng thời phải đổi mới cơ cấu, nhiệm vụ, chức năng của hệ thống ngân hàng
nhà nước nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành vĩ mô ở ngân hàng nhà nước nhất là
trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ trong việc quản lý giám sát hoạt động của các
tổ chức tài chính trung gian.
Ngoài ra bản thân quốc gia cũng cần tăng cường sự hợp tác quốc tế, tích cực tham gia các chương
trình và thể chế hợp tác, giám sát trao đổi thông tin với các khối liên kết kinh tế khu vực và quốc
tế, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ các các tổ chức tài chính quốc tế, phát triển mối quan hệ hợp tác song
phương, đa phương, chú trọng công tác hội nhập kinh tế quốc tế và trong khu vực.
2. Tuân thủ đúng và đầy đủ các bước trong quy trình cho vay

Bảo đảm sự chặt chẽ và chính xác ngay từ khâu đầu tiên của quá trình cho vay là phương pháp
phòng chống rủi ro hiệu quả nhất. Ngoài ra NHTM còn cần quan tâm đến việc đánh giá khả
năng trả nợ của khách hàng, ưu tiên phương án kinh doanh hiệu quả hơn là chú trọng đến tài sản
thế chấp. Các ngân hàng cần thắt chặt việc chấp hành quy trình tín dụng, thể lệ cho vay đối với
tất cả cán bộ tín dụng, các bộ phận có liên quan. Khâu thẩm định dự án cho vay được tiến hành
mang tính thực chất hơn. Thẩm định bao gồm cả hiệu quả dự án, khả năng tiêu thụ hay đầu ra
của thị trường sản phẩm dịch vụ. Uy tín của khách hàng, năng lực của chủ dự án là những yếu
tố không thể bỏ qua trong quá trình thẩm định cho vay.
Các biện pháp kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay được các ngân hàng thương mại áp
dụng chặt chẽ, luôn theo dõi sát sao việc khách hàng sử dụng hiệu quả đồng vốn như thế nào, có
sử dụng đúng mục đích xin vay hay không. Ngân hàng phải luôn có kế hoạch kiểm tra việc sử
dụng vốn, định kỳ đánh giá lại khách hàng cũng như tài sản đảm bảo để hạn chế tối đa rủi ro có
thể xảy ra cho ngân hàng.
12
3. Dịch chuyển cơ cấu cho vay
Tùy theo lĩnh vực ngành nghề cụ thể, ưu tiên cho vay vốn những doanh nghiệp có tình hình tài
chính minh bạch, hiệu quả kinh doanh tốt, chủ yếu cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động
hiệu quả phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh và tạm dừng cho vay lĩnh vực phi sản xuất, đầu
tư bất động sản
4. Xây dựng quy chế quản lý, hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế
Xây dựng quy trình tín dụng hiện đại và sổ tay tín dụng theo chuẩn mực hệ thống kế toán và
thiết lập các chỉ tiêu , báo cáo tài chính phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả kinh doanh ngân hàng kinh doanh
phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn việt nam
5. Thực hiện tài cơ cấu hoạt động hệ thống ngân hàng thông qua đề án được chính phủ
phê duyệt
Nhằm tạo ra các ngân hàng có quy mô hoạt động lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và đủ sức
mạnh cạnh tranh.
Về cơ cấu lại tổ chức : Tách hoàn toàn hoạt động cho vay theo chính sách ra khỏi hoạt động
kinh doanh thương mại của các ngân hàng, thực hiện chức năng kinh doanh theo nguyên tắc thị

trường.
Về cơ cấu lại tài chính : Tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng ở các ngân hàng
thương mại nhằm lành mạnh hóa tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh chống chịu rủi
ro.Từng ngân hàng thương mại phải chú trọng thực hiện chiến lược kinh doanh mới hiện đại
hóa công nghệ, đa dạng hóa các tiện ích các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên kỹ
thuật tiên tiến. Bên cạnh đó cần giảm dần bảo hộ các ngân hàng thương mại trong nước, đặc biệt
về hoạt động tín dụng và cơ chế tái cấp vốn, tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm ở
ngân hàng thương mại trong kinh doanh, giảm dần bao cấp với ngân hàng thương mại nhà nước,
áp dụng đầy đủ hơn các quy chế và các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong lĩnh vực tài chính –
ngân hàng. Việc yêu cầu một lượng vốn tự có tối thiểu đối với các tổ chức tài chính ngân hàng
là rất quan trọng, tuy vậy vẫn chưa đủ để đảm bảo tính ổn định cho hoạt động của ngân hàng
bởi ngay những ngân hàng TMCP có quy mô vốn tự có lớn vẫn có nguy cơ phá sản . Đặc biệt
khi các loại hình kinh doanh khác phát triển như việc mua bán hợp nhất công ty, mua bán nợ
làm cho họat động quản lý rủi ro gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy các ngân hàng thương mại
phải nâng cao hơn nữa công tác giám sát và quản trị rủi ro, đặc biệt là việc dự báo và phòng
ngừa rủi ro như quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá để tạo sự ổn định và
phát triển cho hoạt động ngân hàng.
13

×