Tải bản đầy đủ (.pdf) (224 trang)

Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.63 MB, 224 trang )


4flRKí:«wtỊ

l ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỀN CƠNG BÌNH

BẢO ĐẢM QUYỂN BẢO VỆ CỦA ĐƯƠNG sự TRONG
TÔ TỤNG DÂN Sự VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Dân sự
M ã số: 62.38.30.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC






Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. ĐINH TRUNG TỤNG
2. PGS.TS. ĐINII VĂN THANH

THƯVIẸN
ĨRUỜNG ĐAI HOC ụịÂT HA
PH O N G G V _


HẢ NỘI - 2006


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng tơi. Các nội dung được trình bày
trong bản luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học trong bản luận án chưa từng được công
bố trong bất kỳ một cơng trình nào khác.
Hà nội, ngày 27 tháng 8 năm 2006
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Cơng Bình


MỤC LỤC
Trang
1

M Ở ĐẦU

Chương 1:

N H Ũ N G VẤN ĐỂ LÝ L U Ậ N VỂ BẢO ĐẢM Q U Y Ể N b ả o v ệ c ủ a đ ư ơ n g

7

S ự T R O N G TỐ T Ụ N G D Â N s ự

l.l\ Khái niệm, đặc điểm, bản chất và ý nghĩa của bảo đảm quyền bảo


7

vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
12. Cơ sở và các yếu tố quyết định bảo đảm quyền bảo vệ của đương

41

sự trong tố tụng dân sự
1.3.

Bạo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy

57

định của pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT T ố TỤNG DÂN s ự

VIỆT NAM VỂ BẢO

69

Đ Ả M Q U Y ỂN BẢO VỆ CỦA ĐƯƠNG s ự TR O N G T ố TỤ N G D Â N s ự

2.1.

Sơ lược sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố

69


tụng dân sự Việt Nam về bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố
tụng dân sự
"

2.2. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện

89

hành về bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự

Chương 3: TH Ự C T IỄ N , Y ÊU

CẦU VÀ G IẢ I P H Á P BẢO Đ Ả M Q U Y Ể N 1ÌẢO VỆ CỦA

133

Đ Ư Ơ N G S ự T R O N G T ố T Ụ N G D Â N s ự V IỆ T N A M

( y . Thực tiễn bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân

133

sự Việt Nam
Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự

167

trong tố tụng dân sự Việt Nam
K ẾT L U Ậ N


198

DANH M Ụ C C Á C C Ô N G T R ÌN H Đ Ã C Ơ N G B ố L IÊ N Q U A N Đ ẾN Đ Ể T À I L U Ậ N ÁN

200

TÀI L IỆ U T H A M K H ẢO

201

PHỤ L Ụ C

i

212


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

BLTĨDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

BL'1'l'DSN


: Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hoà liên bang Nga

BLTTDSTH

: Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hoà nhân dân Trung Hoa

BLTTDSP

: Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hoà Pháp

HĐTPTANDTC : Hội đổng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
LTCTAND

: Luật Tổ chức Toà án nhân dân

PLTTGQCVADS :

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

QBV

: Quyền bảo vệ

TANDTC

:

VKSNDTC

: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao


Toà án nhân dân tối cao

t


1

MỞ ĐẨU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN

cúu ĐỂ TÀI

ở Việt Nam, vấn đề quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể ngày càng
được Nhà nước quan tâm bảo vệ. Để bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng và
đúng đắn các vụ việc dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tại
kỳ họp thứ V ngày 15/6/2004 Quốc hội khóa XI đã thơng qua Bộ luật Tố tụng
dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (BLTTDS) [12].
Tuy vậy, việc thực hiện Bộ luật này hơn một năm qua đã cho thấy vẫn còn nhiều
vướng mắc và bất cập, trong đó có cả vấn đề bảo đảm quyền bảo vệ (QBV) của
đương sự trong tố tụng dân sự.
Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các hoạt động tư pháp, Đảng ta
đã đề ra chủ trương cải cách tư pháp ở nước ta. Mục tiêu của công cuộc cải
cách tư pháp là “xây diùĩg nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt
động xét xử được tiến hành có hiệu quả và cố hiệu lực cao” [6, tr.2]. Ngày nay,
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta đang được đẩy mạnh. Việc nghiên cứu
làm rõ những vấn đề liên quan đến bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam lúc này là cần thiết, có tác dụng thiết thực vào việc giải quyết

những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện BLTTDS đồng thời góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu của cơng cuộc cải cách tư pháp. Với những lý do
đó, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự Việt N a m ” để làm luận án tiến sĩ của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI

Những năm gần đây việc nghiên cứu klĩoa học về luật tố tụng dân sự ỏ'
Việt Nam đã bước đầu được chú trọng. Nhiều cơng trình Rghiên cứu được thực


2

hiiện đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề bảo đảm QBV của đương sự
trcong tô tụng dân sự Việt Nam:
- Cơng trình nghiên cứu cấp Bộ “Mộ/ s ố vấn đề về cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc xây dựng Bộ luật T ố tụng dân sự” do Tòa án nhân dân tối cao thực
hi(ện năm 1996; cơng trình nghiên cứu cấp Bộ “Những quan điểm cơ bản về Bộ
luật Tố tụng dân sự Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật
thiuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia thực hiện năm 2001.
- Cơng trình nghiên cứu cấp cơ sở “Cơ sỏ lý luận và thực tiễn của việc
hơàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” do
Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện năm 2002; cơng trình nghiên cứu cấp
cơ sở “Thực tiễn thi hành ch ế định hịa giải trong q trình giải quyết vụ án
dân sự, những tồn tại, vướng mắc và kiến nghị” do Viện Nghiên cứu Khoa học
xét xử thuộc Tòa án nhân dân tối cao thực hiện năm 2002.
- Luận án tiến sĩ luật học “Xầy dựng Bộ luật T ố tụng dân sự - một số vấn
đề lỷ luận và thực tiễn” do nghiên cứu sinh Phan Hữu Thư thực hiện năm 2001;
luận án tiến sĩ luật học “Hòa giải vụ án dân sự - một sô' vấn đê' lý luận và thực
tiễn” do nghiên cứu sinh Trần Văn Quảng thực hiện năm 2004; luận văn thạc sĩ
luật học “Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương

sự trong tố tụng dân sự Việt Nam” do nghiên cứu sinh thực hiện năm 1998.
- Các sách chuyên ngành đã xuất bản có cuốn Luật Tố tụng dân sự Việt
Nam của Nguyễn Mạnh Bách do Nhà xuất bản Đồng Nai xuất bản năm 1996,
Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội xuất bản
năm 1995, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2005.
- Các hội thảo khoa học về pháp luật tố tụng dân sự có hội thảo ngày 09
đến ngày 10 tháng 10 năm 2000 và hội thảo ngày 29 đến ngày 30 tháng 10


3

năm 2001 do Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ chức; hội thảo ngày 05 đến ngày 06
tháng 6 năm 2002 do Bộ Tư pháp phối hợp với Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật
Bản (JICA) tổ chức v.v...


Các bài viết đăng trên các tạp chí có bài “Ngun tắc quyền tự định đoạt

của ảươig sự trong tố tụng dân sự” của Phạm Hữu Nghị đăng trên Tạp chí Nhà
nước và •>háp luật số 12/2000; “Vấn đề áp dụng hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự
ỏ Việt Nìm ” của Ngơ Vĩnh Bạch Dương đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 8/2001; ‘Thủ tục hỏi và tranh ỉuận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” của thạc sĩ
Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên Tạp chí Luật học số 3/2003; “Những nguyên tắc cơ
bản của Bộ luật T ố tụng dân sự ” của tiến sĩ Đinh Trung Tụng đăng trên Tạp chí
Tịa án mân dân số đặc san về Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 v.v...
Ngồi ra, cịn một số cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý khác đối
tượng nghiên cứu cũng có những vấn đề liên quan đến bảo đảm QBV của
đương sư trong tố tụng dân sự Việt Nam như công trình nghiên cứu cấp Bộ
“Vai trị của Tịa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân

theo quy định của Bộ luật Dân sự ” do Tịa án nhân dân tối cao thực hiện năm
1997; cơng trình nghiên cứu cấp Bộ “Một số vấn đề về quyền dân sự và bảo vệ
quyền dán sự trong Bộ luật Dân sự Việt N am ” do Viện Nghiên cứu Khoa học
pháp lý thuộc Bộ Tư pháp thực hiện năn 2003; luận án tiến sĩ luật học “Đảm
V

bảo quy én con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do nghiên
cứu sinh Nguyễn Huy Hoàn thực hiện năm 2004.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa học
pháp lý nào nghiên cứu một cách đầy đủ, tồn diện và có hệ thống về vấn đề
bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam. Ngay cả luận án
tiến sĩ luật học “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt
Nam hiện nay ” và luận văn thạc sĩ luật học “Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo
vệ quyên, lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam ” là các


4

cơng trhh nghiên cứu có đề cập đến vấn đề này nhưng do giới hạn về phạm vi,
mục đích nghiên cứu và được thực hiện trước khi Nhà nước ta ban hành
BLTTDS, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam chưa phát triển nên cũng chỉ mới
phân tíc .1 một vài vấn đề liên quan đến chúng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI

Dối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề liên quan đến bảo đảm
QBV của đương sự trong tố tụng dân sự như cơ sở lý luận về bảo đảm QBV của
đương sư trong tố tụng dân sự, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự và hoạt động tố tụng
dân sự tai Tòa án, đường lối phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính và
cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng

được tiến hành đối với các quy định tương ứng của pháp luật tố tụng dân sự của
một số nước để so sánh, tham khảo.
Bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam là vấn đề
lớn, có nhiều nội dung khác nhau. Tuy vậy, phạm vi nghiên cứu đề tài của
nghiên cứu sinh chỉ giới hạn trong vấn đề bảo đảm QBV của đương sự tại
Tòa án và các nội dung cơ bản được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI

Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề liên quan đến
bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, từ đó tìm ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
qua công tác xét xử của Tịa án.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có
nhiệm vụ làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm quyền QBV của đương sự trong tố
tụng dân sự; quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố


5

tụng dân sự Việt Nam về bảo đảm quyền QBV của đương sự trong tố tụng
dân sự; đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành về bảo đảm quyền QBV của đương sự trong tố tụng dân sự;
xác định các yêu cầu của bảo đảm quyền QBV của đương sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm
QBV của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam.
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u

Đề tài được triển khai nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự được tiến hành trong mối liên
hệ vói các quy định khác của pháp luật tố tụng dân sự, các quy định của các
ngành luật khác liên quan và điều kiện thực hiện chúng trên thực tế.
Quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học như thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh điều tra xã hội học v.v...
để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
6. NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN

Là cơng trình chun khảo nghiên cứu một cách đầy đủ, tồn diện và
có hệ thống đầu tiên vấn đề bảo đảm QBV của đương sự tại Tòa án, luận án có
những điểm mới về khoa học sau:
-

Xây dựng khái niệm quyền bảo vệ (QBV) và bảo đảm QBV của

đương sự trong tố tụng dân sự; chỉ ra đặc điểm, bản chất, ý nghĩa và các yếu tố
quyết định bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự và cơ sở pháp luật
quy định bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam.


6



Xác định nội dung bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự

Việt Nam dưới các góc độ khác nhau như bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương
sự, bảo đảm quyền của đương sự được người khác bảo vệ và trách nhiệm của

Tòa án trong việc bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự.
-Đánh giá thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về bảo đảm QBV của đương sự tại các Tịa án Việt Nam. Qua đó, tìm ra
nguyên rhân hạn chế, xác định yêu cầu và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm
ngày càng tốt hơn việc thực hiện QBV của đương sự tại các Tòa án trong bối cảnh
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Ngồi ra, luận án cũng trình bày và chỉ ra một số quy đinh của pháp luật tố
tụng dân sự nước ngoài về bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự có thể
tham khảo trong quá trình xây dựng và hồn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
7 Ý NGHĨA THỰC TIỄN

của luận án

Kết quả nghiên cứu đề tài làm phong phú thêm các quan điểm lý luận về
luật tố tụng dân sự. Các giải pháp được đề xuất trong luận án có ý nghĩa thiết
thực vào việc hoàn thiện và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, nâng
cao hiệu quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tại các Tịa án và góp
phần thực hiện mục tiêu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta.
Luận án cũng là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy,
học tập pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ở các cơ sở chuyên nghiên cứu pháp
luật, đào tạo cán bộ pháp luật và những người quan tám đến lĩnh vực này.
8. KẾT CÂU CỦA LUẬN ÁN

Luận án có kết cấu gồm bốn phẩn: Mở đầu, nội dung, kết luận và phụ lục.
Trong đó. nội dung của luận án được chia thành 3 chương, 7 mục. Ngồi ra, trong
luận án cũng trình bày danh mục cơng trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh đã
được cơng bố có liên quan đến đề tài và danh mục tài liệu tham khảo.


7


Chương 1
NHỮNG VÂN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ BẢO ĐẢM QUYỂN

bảo vệ của

ĐƯƠNG S ự TRONG T ố TỤNG DÂN s ự
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHÂT VÀ Ý NGHĨA CỦA BẢO ĐẢM
QUYỂN BẢO VỆ CỦA ĐƯƠNG s ự TRONG TÔ TỤNG DÂN s ự

1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tô tụng
dân sự
Trong xã hội, quyền và lợi ích ln được sự quan tâm của mọi chủ thể.
Khi tham gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể bao giờ cũng hướng tới
những quyền, lợi ích nhất định và mong muốn đạt được những quyền, lợi ích
đó. Theo từ điển tiếng Việt, “quyền” là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công
nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [78, tr.786]; “lợi ích” là “điều
có ích, có lợi cho một tập thể người nhất định hay cho một cá nhân trong đó,
trong mối quan hệ với tập thể ấy” [78, tr.566]. Theo từ điển Hán - Việt quyền

là “thế lực” [54, tr.525]; “lợi ích” là “điều cần thiết và có lợi cho mình” [54,
tr.380]. Trong khoa học pháp lý, “quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật
cho phép chủ thể được được tiến hành” [114, tr.312]. Quyền của chủ thể bao
giờ cũng có mối quan hệ chặt chẽ với những lợi ích nhất định, khơng có lợi
ích thì cũng khơng có quyền của chủ thể. Qua kết quả của một số cơng trình
nghiên cứu khoa học cho thấy: “Tính chất và nội dung của lợi ích như thế nào
thì tính chất và nội dung của quyền chủ thể như thế đó” [135, tr. 156].
Quyền và lợi ích là một phạm trù mang tính xã hội, quyết định hành vi
của các chủ thể. Ở mặt tích cực thì quyền và lợi ích là động lực của sự phát
triển xã hội. “Lợi ích là cái thúc đẩy con người hoạt động” [25, tr. 139]. Vì

quyền, lợi ích mà các chủ thể tích cực tham gia vào các quan hệ xã hội làm


8
cho các quan hệ xã hội phát triển và làm cho xã hội phát triển. “Xét cho cùng,
lợi ích chính là những phương thức, phương tiện tối ưu mà chủ thể lựa chọn
nhằm đạt được các nhu cầu của mình, vì chủ thể giành lấy và sử dụng chúng
tạo ra những điều kiện tốt nhất để trực tiếp thực hiện các nhu cầu cấp bách
của bản thân” [52, tr.50]. “Quyền dân sự và chính trị khơng đơn thuần chỉ
mang tính chất quyền cá nhân, chỉ đảm bảo mục đích cá nhân, mà cịn có vai
trị lớn trong việc phục vụ mục đích tồn xã hội, vì sự tiến bộ và phát triển
chung” [110, tr.33]. Ở mặt tiêu cực thì quyền và lợi ích cũng chính là
nguyên nhân, mầm mống của mọi mâu thuẫn phát sinh trong xã hội. Trong
đời sống, người ta mâu thuẫn, tranh chấp với nhau cũng chính vì quyền và
lợi ích. Vì vậy, nếu điều chỉnh, kết hợp được hài hồ quyền, lợi ích của các
chủ thể trong xã hội thì sẽ tránh được những mâu thuẫn, tranh chấp, v ề
vấn đề này, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học Mác - Lê nin cũng
đã từng nhận xét:
“Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp chiếm hữu ruộng đất và
giai cấp tư sản cũng như cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vơ sản, trước hết là ở những lợi ích kinh tế. Để thoả mãn những lợi ích
kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn
thuần” [63, tr.410].
Quyền và lợi ích cịn là một phạm trù mang tính pháp lý. Do tác động
quan trọng của quyền và lợi ích đối với hành vi của các chủ thể và sự phát
triển của xã hội cho nên ở những mức độ khác nhau, dù muốn hay không tất
cả các Nhà nước đều phải thừa nhận và bảo hộ các quyền và lợi ích chính
đáng của các chủ thể bằng ghi nhận trong hệ thống pháp luật. Ngồi ra, để
bảo hộ các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể, Nhà nước còn phải
thiết lập cơ chế thực hiện và bảo vệ chúng trong trường hợp bị xâm phạm. Khi

bàn về chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa chính V.I. Lê-nin cũng đã


9
khẳng định: “Những cội rễ sâu xa nhất của chính sách đối nội cũng như chính
sách đối ngoại của Nhà nước chúng ta đều do những lợi ích kinh tế, địa vị
kinh tế của các giai cấp thống trị ở nước ta quyết định” [55, tr.404]. Xét về
mối quan hệ lẫn nhau giữa lợi ích xã hội và pháp luật các nhà luật học ở nước
ta cũng có quan điểm: “Khi xem xét vấn đề về bản chất của pháp luật cần
phải xuất phát từ tính chất của lợi ích được cả pháp luật lẫn Nhà nước bảo
vệ” [135, tr.79].
Để giữ vững trật tự, an toàn xã hội làm cho xã hội phát triển, Nhà nước
phải bảo hộ tất cả các quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể. Tuy vậy, do
điều kiện khách quan, Nhà nước không thể ghi nhận được tất cả các quyền,
lợi ích chính đáng của các chủ thể trong các quy phạm pháp luật để bảo đảm
thực hiện. Từ đó, có các khái niệm về quyền, lợi ích được pháp luật bảo đảm
và quyền, lợi ích hợp pháp. Các quyền và lợi ích được ghi nhận trong pháp
luật được gọi là quyền, lợi ích được pháp luật bảo đảm. Các quyền, lợi ích
khơng mâu thuẫn với lợi ích của Nhà nước và xã hội được gọi là quyền, lợi
ích hợp pháp. Tuy cũng thể hiện nhu cầu và quyết định hành vi của chủ thể
nhưng khái niệm quyền, lợi ích hợp pháp có nội hàm rộng hơn khái niệm
quyền, lợi ích được pháp luật bảo đảm, bao gồm cả các quyền, lợi ích được
pháp luật bảo đảm và các quyền, lợi ích chưa được pháp luật bảo đảm nhưng
khơng mâu thuẫn với lợi ích của Nhà nước và lợi ích của xã hội. Vì vậy, các
chuyên gia pháp lý cho rằng “hai khái niệm lợi ích được pháp luật bảo đảm và
lợi ích hợp pháp khác nhau về nội dung” [135, tr. 195].
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, Nhà nước bảo hộ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân nhưng cơng dân phải làm trịn nghĩa
vụ của mình đối với Nhà nước, v ề nguyên tắc, mọi người phải thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật, không được

xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của xã hội, quyền và lợi


10
ích hợp pháp của người khác. Tuy vậy, trên thực tế nhận thức của mỗi người
khác rhau nên xử sự khác nhau. “Tự mình thì dân chúng bao giờ cũng
mong muốn điều tốt, nhưng không phải lúc nào họ cũng thấy được điều tốt”
[49, tr.97]. Từ đó, đã dẫn đến việc chủ thể này xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp phíp của chủ thể khác hoặc tranh chấp với chủ thể khác. Việc xâm phạm,
tranh cnấp về quyền, lợi ích giữa các chủ thể có thể diễn ra trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Để pháp luật được thực hiện, “đối với các hành vi vi
phạm pháp luật, tuỳ theo mức độ khác nhau, Nhà nước sẽ áp dụng những biện
pháp cưỡng chế cần thiết để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm
minh” [114, tr.332]. Theo đó, Nhà nước đã trao cho các chủ thể nhữnẹ
phương tiện pháp lý cần thiết và thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp, yêu
cầu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Giải quyết tranh chấp,
yêu cầu ở tại Toà án là một trong các cơ chế do pháp luật quy định để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Cơ chế này hoạt động khi có chủ thể
u cầu Tồ án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp có
tranh chấp hoặc vi phạm.
XQuyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khá đa dạng, thể hiện ở trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể
trong lĩnh vực dân sự là một trong những quyền, lợi ích cơ bản của chủ thể,
ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của chủ thể. Để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp về dân sự trong trường hợp bị xâm phạm pháp luật quy định
chủ thể có quyền được thực hiện các phương thức khác nhau để bảo vệ như tự
mình u cầu người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi đó, yêu cầu
Trọng tài, Tồ án hoặc cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền bảo vệ. Trong
các phương thức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự của các chủ thể thì
phương thức u cầu Tồ án bảo vệ là có nhiều hiệu quả. Tuy vậy, bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp tại Toà án là một lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm*


11
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng ln phải chịu sự tác động từ nhiều phía nên các quyết định
của họ dễ bị ảnh hưởng dẫn đến thiếu tính trung thực, khách quan. Do vậy, để
bảo đảm việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu của các chủ thể được nhanh
chóng, khách quan và đúng đắn thì pháp luật phải quy định cụ thể, chặt chẽ
quá trình thực hiện yêu cầu và giải quyết vụ việc dân sự. Theo đó, khi đưa ra
u cẩu Tồ án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thì chủ thể u cầu phải đưa ra
chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn
cứ và hợp pháp. Tồ án chỉ thụ lý và xét xử chấp nhận yêu cầu của các chủ thể
khi có các căn cứ. Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Toà án được tiến
hành một cách độc lập, cơng khai, minh bạch theo trình tự, thủ tục do pháp
luật tố tụng dân sự quy định. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng chỉ được tiến hành những hành vi mà pháp
luật cho phép và phải chịu sự giám sát của nhân dân. Theo các sách báo pháp
lý đã xuất bản trong nước và nước ngoài như Thuật ngữ pháp lý phổ thông
[133, tr.209], Từ điển Giải thích Thuật ngữ Luật học [112, tr.243], Giáo trình
Luật Tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội [115, tr.ll], Từ điển
Luật học của Cộng hoà Pháp [140, tr.440], Từ điển Bách khoa của Cộng hoà
liên bang Nga [142, tr.101], Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Học viện Tư
pháp Cộng hoà liên bang Nga [143, tr.101] v.v... thì trình tự, thủ tục giải
quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể được
gọi là tố tụng dân sự. Tuy vậy, ở Việt Nam hiện nay các nhà khoa học pháp lý
vẫn cịn có những ý kiến khác nhau về nội hàm của khái niệm này. Có ý kiến
cho rằng thi hành án dân sự thuộc về tố tụng dân sự và là “một giai đoạn của
tố tụng dân sự” [51, tr.44]. Ngược lại, ý kiến khác lại cho rằng thi hành án
dân sự không phải là hoạt động tố tụng dân sự mà là “hoạt động tố tụng hành

chính” [131, tr.63]. Ý kiến thứ ba thì cho rằng “thi hành án là dạng hoạt động
mang tính hành chính - tư pháp” [84, tr.23]. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên


12
cứu đề tài chỉ giới hạn trong bảo đảm QBV của đương sự ở tại Toà án cho nên
trong luận án nghiên cứu sinh khơng trình bày, lý giải cụ thể vấn đề này.
Trên thực tế, các tranh chấp nảy sinh khá đa dạng và phức tạp. Trong
mỗi vụ việc dân sự thường có nhiều chủ thể tham gia tố tụng. Ngồi Tồ án và
Viện Kiểm sát cịn có các chủ thể khác tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc hỗ trợ Toà án trong việc thực
hiện nhiệm vụ. Trong đó, đối với các chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì được gọi là đương sự. Ngoài ra, các chủ
thể tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước trong
lĩnh vực mình phụ trách cũng được gọi là đương sự. Hiện nay, thành phần
đương sự trong vụ án dân sự đã được pháp luật tố tụng dân sự quy định cụ thể,
còn thành phẩn đương sự trong các việc dân sự thì chưa được quy định. Theo
khoản 1 Điều 56 BLTTDS, đương sự trong vụ án dân sự bao gồm nguyên đon,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy vậy, cũng có quan điểm
cho rằng đương sự chỉ bao gồm nguyên, bị đơn trong vụ án dân sự cịn “người
CĨ quyền lợi nghĩa vụ liên quan - chủ thể đặc biệt trong tố tụng dân sự không
phải là đương sự, không nằm trong khái niệm đương sự” [79, tr.48]. Trong
tiếng Việt “đương sự” được hiểu là “người là đối tượng trong một sự việc nào
đó được đưa ra giải quyết” [78, tr.346]. Trong Từ điển Hán Việt, “đương sự”
được định nghĩa là người “có liên quan trực tiếp đến một việc” [54, tr.232].
Trong Từ điển Luật học xuất bản ở nước ta, “đương sự là người có quyền,
nghĩa vụ được giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án” [26,
tr.165]. Trong Từ điển Luật học nước ngoài, “đương sự” được định nghĩa là
“người đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc kiện” [139, tr.515]. Qua
nghiên cứu cho thấy khái niệm đương sự phản ánh mối quan hệ giữa họ với

các chủ thể khác trong tố tụng dân sự. Họ vừa là chủ thể của quan hệ pháp
luật tố tụng dân sự vừa là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung được Toà án
xem xét, giải quyết trong vụ việc dân sự. Từ đó, đương sự trong một vụ việc


13
phải bao gồm tất cả những người có quyền, nghĩa vụ được xem xét trong vụ
việc vì có liên quan đến vụ việc. Vì vậy, thành phần đương sự cần phải được
hiểu rộng hơn khơng chỉ có ngun đơn, bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự mà còn bao gồm cả những người khác có quyền,
lợi ích được Tồ án xem xét trong việc dân sự. Nếu quan niệm thành phần
đương sự chỉ bao gồm nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự thì một số người
có quyền, lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự, được xem xét trong vụ việc
dân sự như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người
yêu cầu, người bị yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc
dân sự sẽ không được coi là đương sự và khơng bảo đảm được quyền, lợi ích
hợp pháp của họ. Trong quan niệm của các nhà khoa học pháp lý Việt Nam,
từ trước thành phần đương sự đã được hiểu bao gồm “nguyên đơn, bị đơn,
người dự sự” [89, tr.l 12]. Trong pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài sở đĩ chỉ
quy định đương sự trong vụ án dân sự là vì pháp luật tố tụng dân sự nước
ngồi khơng chia các vụ việc dân sự thành vụ án dân sự và việc dân sự như
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,
tại Điều 1 BLTTDS quy định vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân
sự. Theo Điều 311 BLTTDS thì Tồ án có thể áp dụng các quy định khác của
Bộ luật này để giải quyết việc dân sự nếu không trái với quy định tại Chương
XX. Theo lơgíc này thì các chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ trong các việc dân sự như người yêu cầu, người bị yêu cầu và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự cũng phải được coi là
đương sự. Như vậy, đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, nghĩa vụ
được Tòa án xem xét trong vụ việc dân sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của mình. Thành phần đương sự trong vụ việc dân sự bao
gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
dân sự và người yêu cầu, người bị yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong việc dân sự. Quan điểm này cũng đã được ghi nhận trong một số


14
cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã được công bố ở Việt Nam trong
những năm gần đây như Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường
Đại học Luật Hà Nội [115, tr.104], Tài liệu tập huấn Bộ luật Tố tụng dân sự
của Trường Cán bộ Toà án [111, tr. 149] v.v... Theo quy định tại Điều 56
BLTTDS và qua kết quả nghiên cứu thì khái niệm về các đương sự trong các
vụ việc dân sự như sau:
- Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người đã khởi kiện vụ án dân sự
hoặc được người khác khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Toà án bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Việc tham gia tố tụng dân sự của nguyên đơn
mang tính chủ động hơn các đương sự khác.
- Bị đơn trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng để trả lời về việc
kiện do bị nguyên đơn hoặc bị người khác khởi kiện theo quy định của pháp
luật. Việc tham gia tố tụng của bị đơn là theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
hay người khác nên mang tính bị động chứ khơng chủ động như ngun đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người
tham gia tố tụng vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc tham gia tố tụng của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có thể theo yêu cầu của
nguyên đơn, bị đơn hoặc do Toà án triệu tập trong trường hợp xét thấy cần
thiết. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp việc tham gia vào vụ án dân sự của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là do họ chủ động yêu cầu Tồ án. Khi
tham gia tố tụng dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
dân sự có thể tham gia tố tụng độc lập hoặc tham gia tố tụng đứng về phía

nguyên đơn hoặc bị đơn. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án
dân sự tham gia tố tụng độc lập được gọi là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án
dân sự tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn được gọi là


15
ngưdi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu không độc lập.
- Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu
cẩu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong
việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự vì họ cũng có
lợi ích pháp lý độc lập. Tuy nhiên, yêu cầu giải quyết việc dân sự của người
yêu cầu trong việc dân sự chỉ giới hạn trong phạm vi u cầu Tồ án cơng nhận
hay khơng cơng nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm
dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ.
- Người bị yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng để trả lời
về các yêu cầu của việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người bị yêu cầu
trong việc dân sự cũng mang tính bị động như bị đơn trong vụ án dân sự.
Thông thường trong các việc dân sự đều có người bị yêu cầu nhưng trong một
số trường hợp cá biệt thì chỉ có người u cầu mà khơng có người bị u cầu
như việc u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, u cầu cơng nhận thoả thuận
về thay đổi người trực tiếp nuôi con v.v...
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự là người
tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vạ của họ. Việc
tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự
cũng có thể do họ chủ động đề xuất với Toà án hoặc theo yêu cầu của đương
sự khác hoặc trong trường hợp Toà án xét thấy cần thiết.
Các đương sự trong mỗi vụ việc dân sự đều là người có quyền, nghĩa
vụ liên quan đến vụ việc dân sự, tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của mình. Tuy vậy, mỗi đương sự tham gia vào vụ việc dân sự với
những động cơ, mục đích và yêu cầu riêng nên pháp luật tố tụng dân sự quy
định địa vị pháp lý của các đương sự trong tố tụng dân sự không giống
nhau. Tuỳ vào động cơ, mục đích và yêu cầu tham gia tố tụng dân sự của


16
mỗi đương sự mà pháp luật tố tụng dân sự quy định cho họ các quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự nhất định.
Theo quy định của pháp luật, các đương sự có thể sử dụng các phương
thức khác nhau để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp
bị xâm phạm. Trong khoa học pháp lý, quyền của chủ thể trong việc chống lại
các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp theo thủ tục
tố tụng dân sự được gọi là QBV của đương sự trong tố tụng dân sự.
QBV của đương sự trong tố tụng dân sự là một trong các loại QBV của
chủ thể, việc thực hiện nó có mối liên quan đến việc thực hiện các QBV khác
của chủ thể như quyền tự mình u cầu người có hành vi xâm phạm chấm
dứt hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyền u cầu
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ v.v... Trên thực tế, các chủ thể
cũng thường thực hiện quyền này sau khi đã thực hiện các QBV khác như
quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ
hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước khác bảo vệ v.v... khơng có hiệu quả. Tuy
vậy, khơng phải trong mọi trường hợp các chủ thể đều phải thực hiện các
QBV khác của mình sau đó mới thực hiện QBV trong tố tụng dân sự. Để bảo
đảm việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp luật quy định
nhiều phương thức bảo vệ khác nhau. Việc lựa chọn phương thức nào để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình là hồn tồn do chủ thể có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm tự quyết định. Pháp luật khơng quy định chủ thể
có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm buộc phải thực hiện phương thức
bảo vệ này hay phương thức bảo vệ khác cũng như không quy định chủ thể

phải thực hiện các QBV khác sau đó mới được thực hiện QBV trong tố tụng
dân sự, trừ một số trường hợp cá biệt.
QBV của đương sự trong tố tụng dân sự cũng là quyền của chủ thể
trong việc chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích họp pháp của


17

mình như các QBV khác. Tuy nhiên, QBV của đương sự trong tố tụng dân sự
được thực hiện trước Toà án - cơ quan xét xử của Nhà nước nên có nhiều
điểm khác với các QBV khác của chủ thể. Trước hết, chủ thể QBV của đương
sự trong tố tụng dân sự là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự, người yêu cầu, người bị yêu cầu và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự. Các chủ thể này chính là
những người có quyền, lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ trong vụ việc dân sự.
QBV của đương sự trong tố tụng dân sự được thực hiện trong tố tụng dân sự,
theo trình tự và thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự là cơ sở để các đương sự thực hiện QBV của
mình trong tố tụng dân sự. Các QBV khác của chủ thể được thực hiện ngồi tố
tụng dân sự khơng theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Nội dung QBV của đương sự trong tố tụng dân sự được cấu thành bởi các
quyền tố tụng dân sự của đương sự như quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền
yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự, quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi
kiện, quyền chấp nhận hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác, quyền chứng
minh làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, quyền yêu cầu Toà án
thu thập chứng cứ, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyền
hoà giải, quyền tham gia phiên toà, quyền kháng cáo bản án, quyết định của
Toà án v.v... Trong đó, có những quyền mà việc thực hiện được chúng trên
thực tế có tính chất quyết định đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự như quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu Toà án giải quyết

việc dân sự, quyền cung cấp chứng cứ, quyền chứng minh cho quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự v.v... v ề vấn đề này các nhà chun mơn cũng đã
khẳng định “quyển lợi chỉ có ý nghĩa nếu chủ quyền chứng tỏ được sự hiện
hữu của nó” [27, tr.5]. Vì vậy, để bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của
mình trước Tồ án thì đương sự phải thực hiện có hiệu quả được các quyền tố
tụng dân sự đó. Khách thể QBV của các chủ thể nói chung rất đa dạng, có thể

THƯVIẸN
TRƯỜNG ĐẠI HOCLÚÂT HÀ NÔI
PH Ỏ NG G V _


18
là các quyền, lợi ích phát sinh từ các quan hệ khác nhau như quan hệ pháp
luật hành chính, quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hôn nhân và gia
đình, quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, quan hệ pháp luật lao động
v.v... Tuy vậy, khách thể QBV của đương sự trong tố tụng dân sự chỉ là
những quyền, lợi ích phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp
luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại và
quan hệ pháp luật lao động. Nói cách khác/ỵviệc thực hiện QBV của đương
sự trong tố tụng dân sự là nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong việc tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ
pháp luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại và
quan hệ pháp luật lao động.
Muốn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp trước Tồ án thì đương sự
phải thực hiện được QBV của mình trong tố tụng dân sự thông qua việc thực
hiện các quyền tố tụng dân sự. Tuy vậy, tố tụng dân sự là một quá trình phức
tạp cho nên khơng phải trong trường hợp nào đương sự cũng có thể dễ dàng
thực hiện được các quyền tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ. Về vấn đề này có nhà chuyên môn đã nhận xét: “Đối với những người

tham gia vào các vụ kiện, chữ “tố tụng” nhiều khi không gợi lên ý niệm tự do
cá nhân, sự thực hiện dễ dàng các quyền lợi, mà trái lại sự phiền toái, hao tiền,
tốn của, mất thời giờ, lao tâm mệt trí” [2, tr.202]. Trên thực tế, có rất nhiều yếu
tố chi phối, ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền tố tụng dân sự cửa đương
sự. Vì vậy, để đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp trước Tồ án thì
việc bảo đảm cho các đương sự thực hiện được các quyền tố tụng dân sự hay
nói cách khác là phải bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự là rất
cần thiết. Trên cơ sở của việc bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân
sự mà đương sự có được điều kiện thuận lợi trong việc tham gia tố tụng dân sự
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước Tồ án.


19
Trong tiếng Việt bảo đảm là “làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ
gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [78, tr.36]. Theo nghĩa Hán Việt, bảo đảm là “hứa chịu trách nhiệm về điều gì”, “cam đoan giữ được, làm
được đầy đủ”, “sự giữ được đầy đủ, trọn vẹn” [54, tr.40]. Ngoài ra, thuật ngữ
“bảo đảm” cũng được sử dụng như thuật ngữ “đảm bảo” [78, tr.292]. Vì vậy,
bảo đảm là điều kiện cần phải có để thực hiện được một điều gì, cơng việc gì
hay quyền, nghĩa vụ gì. Bảo đảm cũng có ý nghĩa như một cơ chế cần thiết
phải có để thực hiện những quyền, nghĩa vụ hay công việc nhất định. Trong
những trường hợp cụ thể, nếu khơng có sự bảo đảm thì các quyền, nghĩa vụ
hay cơng việc sẽ khơng được thực hiện. Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ
bảo đảm được sử dụng khá rộng rãi. Bảo đảm thường được đặt ra đối với việc
xác lập hay thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các
quan hệ pháp luật cụ thể như quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật kinh
doanh, thương mại v.v... Hiện nay, trong nhiều văn bản pháp luật được Nhà
nước ta ban hành đều có các quy định về bảo đảm như các điều từ Điều 318
đến Điều 373 Bộ luật Dân sự (BLDS) [7], các điều 45, 46 và 99 Luật Thương
mại v.v... Theo các quy định này thì bảo đảm có thể do các bên thoả thuận
hoặc do pháp luật quy định. Bảo đảm có tác dụng tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau

giữa các bên, đặt trách nhiệm cho các bên trong việc xác lập và thực hiện các
quan hệ pháp luật. Trong một số quan hệ pháp luật cụ thể các chủ thể coi bảo
đảm là điều kiện buộc phải có để xác lập và thực hiện các quan hệ pháp luật
giữa họ. Như vậy, dưới góc độ một thuật ngữ pháp lý thì “bảo đảm là trách
nhiệm của một chủ thể (cá nhân, tổ chức) phải làm cho quyền, lợi ích của chủ
thể bên kia chắc chắn thực hiện, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại thì phải bồi
thường” [26, tr.27].
Để các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện đúng, pháp luật
tố tụng dân sự cũng quy định về vấn đề bảo đảm. Các quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự là quan hệ được xác lập giữa Tòa án và những người tham gia tố


20
tụng do pháp luật tố tụng dân sự điểu chỉnh. Trong các quan hệ này, Tòa án là
chủ thể đại diện cho Nhà nước đứng ra bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự cho nên pháp luật quy định Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện, áp
dụng các biện pháp cần thiết làm cho đương sự thực hiện được QBV của
đương sự trong tố tụng dân sự. Bởi vậy, bảo đảm QBV của đương sự trong tố
tụng dân sự phản ánh mối quan hệ tương quan giữa các chủ thể của tố tụng
dân sự. Trong đó, Tịa án là chủ thể có trách nhiệm bảo đảm QBV của đương
sự trong tố tụng dân sự.
Bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự với mục đích làm cho
đương sự thực hiện được các quyền tố tụng dân sự của họ nên đối tượng của
bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự là các quyền tố tụng dân sự
của đương sự. Để bảo đảm QBV của đương sự trong tố tụng dân sự thì phải
tạo điều kiện, thực hiện các biện pháp cần thiết làm cho đương sự thực hiện
được các quyền tố tụng dân sự của họ như nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
xem xét, thông báo việc thụ lý vụ việc dân sự, giải thích quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự cho các đương sự, xem xét yêu cầu thu thập chứng cứ, yêu cầu
thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự và người tham gia tố tụng dân sự, chỉ

định người đại diện cho đương sự trong trường hợp đương sự là người mất
năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà khơng có
người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các
trường hợp pháp luật quy định không được làm người đại diện v.v... Các
quyền tố tụng dân sự của đương sự khá phong phú nên các biện pháp bảo đảm
thực hiện chúng cũng đa dạng.
Việc thực hiện các quyền, nghĩa

VTỊ

tố tụng dân sự của đương sự trước

hết phụ thuộc vào khả năng tham gia tố tụng dân sự của đương sự. Trong
trường hợp đương sự có năng lực tham gia tố tụng thì có thể thực hiện tốt
được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự, nếu khơng thì ngược lại. Sự hỗ trợ


×