Tải bản đầy đủ (.pdf) (210 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.55 MB, 210 trang )

I >«' ''v .

Ằỷf > ' 'i V'
i>v *

ỈA O:M ': ỉj ^ A Ị ì : h 0 Ệ Ạ i} . Ậ ;
I

[

ĩ 'ỉ'
''.■V
Vi":
Ị' ■

,-

-

. -



"

■ ■

\.v

•’




S v -::V !i\ t u ị - ĩ m ;

.•

■ vv

ỵ í Ầ - ‘-T O ; T^

CHỂ

ỉ!I
!]í


!0i í Ẩ i

• ■ ' ;• • -

5 € Ú /ĩ

À/ỸSt*/- •

ÌĨĨSH VM M

' ■'

a


-; : ;

1

■f'VVỊÍỈT

LI ị l 4 S OIAI s .. I Ậ r lỉẩX
V

.. . ..

••

-

'
-

u)í
r u> ' 5. V . - í ĩ k r .

ỳ - v ft iề * ■ f O K a g g g » r t u t » ^ t ã ^ ạ ? - - - t

;


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN PHƯƠNG LAN

CO SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TỂN
CỂA CHẾ ĐỊNH PHÁP LÝ VỂ NUÔI CON NUÔI ở VỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số

: 62.38.30.01

LUẬN ẤN TIẾN Sĩ LUẬT HỌC






Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. ĐINH VĂN THANH
2. TS. ĐINH TRUNG TỤNG
THƯ VIỆ N
ĨRƯỌNG ĐAI HOC LỪÃT HA N<
PHÒNG GV

HÀ NỘI - 2007


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên

cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án
là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
án chưa từng được cơng bơ' trong bất kỳ cơng
trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Phương Lan


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLHS

Bộ luật Hình sự năm 1999

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BVCSGDTE

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

CHLB


Cộng hồ liên bang

CHND

Cộng hoà nhân dân

CHXHCNVN

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Viột Nam

CQNGLSVN

Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam

HĐHTNCN

Hiệp định hợp tác về ni con ni

HĐTPTANDTC

Hội đồng thẩm phán Tồ án nhân dân tối cao

HĐTTTP

Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý

HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình


LĐTBXH

Lao động - Thương binh và xã hội

QTHL

Quốc triều hình luật

TAND

Tồ án nhân dân

TANDTC

Tồ án nhân dân tối cao

UBND

u ỷ ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang

1.1.
1.2.

1.3.
1.4.

2.1.
2.2
2.3.
2.4.
2.5.

MỞ ĐẦU

1

Chương 1

1

NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỀ NUÔI CON NUÔI
Khái niệm và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
Cơ sở xã hội - lịch sử và các yếu tố ảnh hưởng tới việc nuôi con ni
Các hình thức ni con ni

7
40
57

Phân biệt việc ni con ni với các hình thức chăm sóc, bảo vệ
trẻ em khác

68


Chương 2

72

PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ THỤC TIỄN ÁP DỤNG
Mục đích của việc nuồi con nuôi
Các điều kiên của việc nuôi con nuôi .
Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật nuôi
con nuôi
\
Chấm dứt việc nuôi con nuôi
Chương 3

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

124
137

PHUƠNG HUỚNG, GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
NI CON NI ở VIỆT NAM
3.1. Sự cần thiết phải hồn thiện pháp luật nuôi con nuôi ở nước ta
hiện nay
3.2. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật nuôi con
nuôi ở nước ta hiện nay
3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của

pháp luật nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay

CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐÊN
ĐÃ CƠNG BỐ

72 V
(74?
86
112

137
140 r
143
192

luận án

194
195


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Theo số liệu của Bộ LĐTBXH, hiện nay cả nước có khoảng 2,5 triệu trẻ
em có hồn cảnh đặc biệt, chiếm khoảng 3% dân số [5]. Bên cạnh những hình
thức chăm sóc khác nhau, giải pháp tốt nhất cho những trẻ em này là được
nhận làm con nuôi. Việc nuôi con nuôi đảm bảo cho trẻ em quyền được sống
ổn định trong gia đình với tình cảm của cha mẹ đối với con, đồng thời là cách

thức thực hiện quyền làm cha mẹ của người nhận nuôi. Việc nuôi con ni thể
hiện những tình cảm, đạo lý tốt đẹp của con người nên được nhà nước khuyến
khích thực hiện và ngày càng phát triển. Với xu hướng hội nhập hiện nay, khi
Việt Nam gia nhập Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế (viết tắt là Công ước La Hay), việc cho nhận con
nuôi sẽ càng phát triển về quy mơ và số lượng [12]. Điều đó địi hỏi pháp luật
về nuôi con nuôi của Việt Nam phải được hoàn thiện nhằm đáp ứng kịp thời
những yêu cầu của thực tiễn và bảo vệ có hiệu quả quyền, lợi ích chính đáng
của các bên trong quan hệ nuôi con ni.
Pháp luật ni con ni của Việt Nam đã có những bước phát triển rất
khả quan, song vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập. Pháp luật nuôi con nuôi
chưa phản ánh được bản chất khách quan, tính chất phức tạp của quan hệ nuôi
con nuôi trong thực tế. Nhiều quy định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng, thậm chí có
khía cạnh cịn bị bỏ ngỏ, khơng có quy phạm điều chỉnh, nên khơng có cơ sở
để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Các quy định của pháp
luật hiện hành chưa đủ khả năng giải quyết các vấn đề phát sinh trong đòi
sống, như vấn đề quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con
nuôi, quan hệ giữa cha mẹ đẻ với cha mẹ nuôi, việc nuôi con nuôi đầy đủ, điều
kiện nuôi con nuôi, huỷ việc nuội con nuôi... Trong quan hệ ni con ni có
yếu tố nước ngồi, pháp luật còn thiếu các quy phạm xung đột xác định điều


2
kiện của người nhận nuôi, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, chấm dứt
hay hủy việc nuôi con nuôi... Một số quy định trong pháp luật nuôi con nuôi
của nước ta chưa tương đồng với pháp luật của các nước và pháp luật quốc tế,
gây khó khăn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của trẻ em Việt Nam làm con
ni nước ngồi. Mặt khác, các quy phạm điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi
được quy định trong nhiều văn bản khác nhau, nên thiếu tính đồng bộ và
thống nhất, hiệu lực pháp lý khơng cao, khó áp dụng và tiếp cận trong thực tế.

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách hệ thống, có tính chun
sâu và tương đối tồn diện pháp luật về ni con nuôi là một yêu cầu khách
quan, cấp thiết. Việc nghiên cứu đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế
định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam” nhằm hồn thiện pháp luật ni
con ni và đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc ni con nuôi được nhiều nhà khoa học nghiên cứu ỏ các góc độ
khác nhau. Vấn đề này cũng thu hút sự quan tâm của các nhà luật học ở các
nước. Ví dụ tác giả Jeremy Rosenblatt đã viết cuốn International Adoption nói
về việc nhận ni con ni ở Anh và xứ Wales. Các tác giả là John Triseliotis,
Joan Shireman, Maion Hundleby đã viết cuốn Adoption, Theory, Poỉici and
Practice vào năm 1997... Tại Việt Nam, việc nuôi con nuôi được xem xét,
nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Năm 1998, Viện Nghiên cứu
khoa học pháp lý Bộ Tư pháp đã ra số chuyên đề “Chế định nuôi con nuôi
trong pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tê”. Đây là tài liệu có tính chất
giới thiệu về pháp luật ni con nuôi, nên không chuyên sâu.
Tác giả luận án này đã hoàn thành luận văn thạc sĩ luật học với đề tài
“Aíộr số vấn đề lý luận và thực tiễn về nuôi con nuôi theo quy định của pháp
luật Việt Nam” vào năm 2000. Có thể nói đây là cơng trình nghiên cứu
chuyên sâu đầu tiên về lý luận cũng như thực tiễn về chế định này. Tuy nhiên,
thời điểm tác giả viết đề tài trên, Luật HN&GĐ năm 2000 chưa ra đời. Sau khi


3
có Luật HN&GĐ năm 2000, một số tác giả đã viết về một số khía cạnh của
việc ni con ni trên các tạp chí khoa học. Vấn đề ni con nuôi cũng được
đề cập trong một phần của hai luận án tiến sĩ luật học, là luận án với đề tài
“Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập ” của tác giả Nguyễn Hồng Bắc và luận án
với đề tài “Cơ" sỏ lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh một số quan hệ

dân sự có yếu tố nước ngồi ở nước ta hiện nay ” của tác giả Nguyễn Công
Khanh. Tuy nhiên, hai luận án trên chỉ tiếp cận ở góc độ giải quyết xung đột
pháp luật trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi, mà khơng nhằm giải
quyết những vấn đề đặt ra trong pháp luật thực định về nuôi con nuôi của Việt
Nam. Để đáp ứng yêu cầu gia nhập Công ước La Hay, Viện Khoa học pháp lý
và Cục con nuôi quốc tế (Bộ Tư pháp) đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ với nhan đề: “Hồn thiện pháp luật về ni con ni cố yếu tố nước
ngồi trước u cầu gia nhập Cơng ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tể \ Đề tài nghiên cứu chủ yếu vấn đề
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam hiện nay.
Theo chúng tôi, pháp luật nuôi con nuôi là một tổng thể hồn chỉnh, trong
đó pháp luật điều chỉnh việc ni con ni trong nước có ý nghĩa quyết định
đến pháp luật điều chỉnh việc ni con ni có yếu tố nước ngồi. Bởi vì, Cơng
ước La Hay đã xác định một ngun tắc quan trọng, có tính bắt buộc là việc
làm con ni nước ngồi chỉ được đặt ra khi nó “đem lại một gia đình lâu dài
cho những trẻ em khơng tìm được một gia đình thích hợp tại quốc gia gốc” [19,
tr. 168]. Đồng thời, việc nuôi con ni có yếu tố nước ngồi phải phù hợp vói
pháp luật thực định của quốc gia điều chỉnh việc nuôi con ni nói chung. Hơn
nữa, với xu hướng tăng trưởng kinh tế, việc nuôi con nuối trong nước ngày càng
phát triển. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ pháp luật về nuôi con nuôi
ở Việt Nam hiện nay là cần thiết. Do đó có thể nói, luận án này là cơng trình
đầu tiên nghiên cứu một cách tổng thể, tương đối tồn diện, có tính hộ thống và
chun sâu về pháp luật nuôi con nuôi trong khoa học pháp lý Việt Nam.


4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
nuôi con nuôi, đánh giá thực trạng pháp luật nuôi con nuôi của Việt Nam, trên
cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hồn thiện pháp luật ni con ni, nhằm

đáp ứng u cầu của thực tiễn khách quan và nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật nuôi con nuôi.
* Luận án giải quyết những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về nuôi con nuôi và xây dựng
một số khái niệm cơ bản như khái niệm con nuôi, khái niệm nuôi con nuôi,
khái niệm chế định nuôi con nuôi, khái niệm nuôi con nuôi đầy đủ, khái niệm
nuôi con nuôi đơn giản... Đây là những khái niệm làm cơ sở cho việc nghiên
cứu về pháp luật nuôi con nuôi.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật nuôi con nuôi của Việt Nam
trong sự so sánh với pháp luật của nước ta trước đây, pháp luật một số nước và
quốc tế về vấn đề này, trên cơ sở đó làm rõ sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung,
hồn thiện pháp luật về ni con ni cho phù hợp với thực tiễn khách quan và
tương đồng vói pháp luật quốc tế.
Tìm hiểu cơ chế tổ chức thực hiện, quản lý, giám sát viộc cho nhận con
nuôi, thực trạng giải quyết các tranh chấp trong quan hệ nuôi con ni, dự báo
tình hình ni con ni khi Việt Nam tham gia Công ước La Hay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về nuôi con
nuôi, các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật một số nước và
quốc tế về nuôi con nuôi, thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật nuôi con
nuôi ở nước ta trong những năm gần đây.
Luận án tập trung nghiên cứu việc nuôi con nuôi dưới góc độ pháp lý.
Trong nghiên cứu, có sự so sánh, liên hệ với hệ thống pháp luật Việt Nam,
pháp luật của một số nước và pháp luật quốc tế về nuôi con nuôi. Mặc dù,


5
pháp luật nước ta hiện hành quy định người trên 15 tuổi có thể được nhận làm
con ni, nhưng người được nhận làm con nuôi chủ yếu là trẻ em, do đó sự
phân tích trong luận án chủ yếu hưống tới người được nhận nuôi là trẻ em.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ
sở đó, đề tài được nghiên cứu bằng các phương pháp cụ thể là phân tích, tổng
hợp, so sánh, hộ thống, kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp
lịch sử, thống kê, điều tra xã hội học, mơ hình hóa.
Phương pháp lịch sử: Viộc nuôi con nuôi chịu sự chi phối của các điều kiện
kinh tế, xã hội, lịch sử và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá, phong tục tập
quán, truyền thống đạo đức, tâm lý dân tộc trong từng giai đoạn phát triển của xã
hội. Vì vậy, việc nghiên cứu về nuôi con nuôi và pháp luật nuôi con nuôi phải
xuất phát từ các điều kiện xã hội - lịch sử ảnh hưỏng đến việc nuôi con nuôi.
Phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học: sử dụng các số
liệu thống kê về trẻ em được cho làm con ni trong nước và nước ngồi, các
số liệu điều tra xã hội học, kết hợp với phương pháp mơ hình hóa, để có thể
đánh giá khách quan, chính xác thực trạng thực hiện và áp dụng pháp luật
ni con ni, từ đó có cơ sở rút ra những kết luận cần thiết.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Lần đầu tiên, luận án đưa ra hệ thống các khái niệm về nuôi con nuôi,
làm rõ bản chất, ý nghĩa của việc nuôi con nuồi dưới các góc độ khác nhau.
- Luận án đã khái quát cơ sở xã hội - lịch sử của việc nuôi con nuôi, chỉ
ra những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc nuôi con nuôi và phân biệt sự khác
nhau giữa việc ni con ni vói các hình thức chăm sóc trẻ em khác.
- Luận án làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện các quy định
của pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi, hậu quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi, huỷ việc nuôi con nuôi... Làm rõ tính cần


6
thiết, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định hình thức ni con ni đầy
đủ trong pháp luật Việt Nam.

- Khẳng định sự cần thiết, cơ sở và cách thức thực hiện xã hội hố việc
ni con ni, nhằm giải quyết có hiệu quả việc tìm cho trẻ em một gia đình.
- Luận án đã đưa ra một số giải pháp có tính chất tổng thể, tồn diện
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật nuôi con nuôi.
*

Ý nghĩa thực tiễn của luận án: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể

dùng làm tài liệu giảng dạy chuyên ngành trong các trường Đại học luật, là tài
liệu có giá trị để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tham khảo khi sửa đổi,
hồn thiện pháp luật ni con ni. Những vấn đề được phân tích, lý giải
trong luận án có thể giúp cho người có thẩm quyền áp dụng pháp luật rút được
kinh nghiệm nhất định trong thực tiễn công tác của mình.
7. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết ỉuận và danh mục tài liệu
tham khảo. Phần nội dung của luận án được bố cục thành ba chương, có kết
luận của từng chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về nuôi con nuôi
Chương 2: Pháp luật nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hồn thiện pháp luật ni con ni ở
Việt Nam


7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỂ NUÔI CON NUÔI

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NI CON NI
1.1.1. Khái niệm con ni
Khái niệm con ni có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.

Trong phạm vi của luận án, khái niệm con nuôi được xem xét dưới góc độ xã
hội, sinh học và pháp luật.
1.1.1.1. Khái niệm con ni dưới góc độ xã hội
Trong mối quan hộ giữa con người với con người, danh từ “con” chỉ
“người ở cương vị đối với cha mẹ” [112, tr.244]. Khái niệm con gắn liền với
khái niệm cha, mẹ. Khơng thể có con nếu khơng có cha, mẹ. v ề mặt xã hội
nói chung, “con ni” có thể được hiểu như sau: “Cơw không phải do cha, mẹ
sinh ra nhưng được cha, mẹ nuôi như con đẻ” [16, tr.196]. Khái niệm con nuôi
được định nghĩa đầy đủ hơn như sau: “Cỡn nuôi (con trai, con gái) không do
vợ, chồng trong một gia đình sinh ra, mà do nhận con của người khắc về nuôi
dưỡng, xem như con đẻ. Con ni được hưởng mọi quyền lợi và có nghĩa vụ đối
với bố mẹ nuôi như con đẻ” [113, tr.566]. Định nghĩa trên thể hiện nội hàm
của khái niệm con ni dưới góc độ xã hội học, chứa đựng những dấu hiệu cợ
bản sau: Thứ nhất, con nuôi là ngưịi khơng phải do người đang trực tiếp ni
dưỡng, chăm sóc sinh ra, giữa hai bên khơng có quan hệ sinh thành ra nhau.
Thứ hai, là người được một người hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con.
Thứ ba, hai bên có quan hệ cha mẹ và con với nhau.
Dưói góc độ xã hội, việc nhận một ngưịi nào đó làm con ni trước hết
tuỳ thuộc vào ý chí chủ động của người nhận ni. Ý chí đó có thể xuất phát
từ nhiều lý do khác nhau và thể hiện rất đa dạng. Đó có thể là tình thương u,
thơng cảm, lịng nhân ái của người nhận ni đối với con ni, nhưng cũng có


8
thể là sự lợi dụng con nuôi vào những mục đích khác... Là một quan hệ xã
hội, người được nhận làm con ni có thể là bất cứ ai, có thể là con trai hoặc
con gái, không phụ thuộc vào độ tuổi, nhưng không do người nhận nuôi sinh
ra. Trong thực tế, người được nhận làm con nuôi thường là trẻ em. Tuy nhiên,
trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay, người con ni có thể là người đã
thành niên trong trường hợp làm con nuôi người già yếu cô đơn. Mặc dù hiện

tượng này không xảy ra nhiều, nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường, người
già yếu sống cơ đơn, khơng có người chăm sóc có xu hướng tăng lên, trong
khi đó tuổi thọ của họ lại cao hơn. Đối vói những người này, nếu được người
đã thành niên nhận làm cha mẹ ni để chăm sóc, ni dưỡng trong tình cảm
cha mẹ và con là một điều tốt đẹp đối vói mỗi cá nhân cũng như xã hội. Đây
là một quan hệ xã hội cần được khuyến khích thực hiện vì nó thể hiện đạo lý
l

i



I



»



t



%

w

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội
phức tạp, nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị trường. Đối với những trường

hợp này, việc nhận ni con ni là vì lợi ích của người nhận ni.
Về mặt xã hội, con ni có thể có các dạng: con ni thực tế, con ni
trên danh nghĩa và con ni có đăng ký [3, tr.70]. Đây cũng là quan điểm
chung về cách phân loại và đánh giá qua hoạt động quản lý và thống kê hộ
tịch trong lĩnh vực nuôi con nuôi [117, tr.122]. Trong quan hệ xã hội, con ni
có thể được nhận dưới nhiều hình thức khác nhau, bao hàm cả con ni được
cơng nhận về mặt pháp lý hoặc không được công nhận về pháp lý, nhằm thoả
mãn những nhu cầu tình cảm hoặc lợi ích nhất định của cá nhân.
Con ni trên danh nghĩa là con nuôi được nhận ừên cơ sở sự thoả thuận
miệng giữa hai gia đình có mối quan hệ gắn bó, thể hiện tình cảm thân thiết
giữa hai gia đình mà khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha
mẹ nuôi và con nuôi. Con nuôi không sống chung với cha mẹ nuôi mà vẫn
sống cùng với cha mẹ đẻ [117, tr.122]. Trong đời sống xã hội, việc nhận con
nuôi hay cha mẹ nuôi trên danh nghĩa có ý nghĩa, giá trị nhất định đối với con


9
người, phù hợp với đạo đức, tình cảm của họ mà không bị ràng buộc bởi các
quyền và nghĩa vụ cụ thể, nên thường được cá nhân lựa chọn. Tuy nhiên, đây
là một quan hệ xã hội thuần tuý, mà không phải là quan hệ pháp lý.
Về con nuôi thực tế, có quan điểm cho rằng: con ni thực tế cũng giống
như con nuôi trên danh nghĩa, là sự thoả thuận miệng giữa hai gia đình về việc
ni con ni mà khơng đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, (có
một số ít trường hợp có văn bản viết tay giữa hai gia đình) [3, tr.70]. Quan
niệm về con ni thực tế như vậy chưa thật chính xác. Theo chúng tôi, con
nuôi thực tế là người được nhận làm con trên cơ sỏ đáp ứng đầy đủ các điều
kiện của việc nuôi con nuôi, giữa người nuôi và người được nhận nuôi đã thực
hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau, nhưng
không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Con ni thực tế khác con nuôi trên danh nghĩa ở những điểm sau:

Thứ nhất, con nuôi trên danh nghĩa là một quan hệ xã hội, không phải là
một quan hệ pháp luật, không được pháp luật điều chỉnh. Ngược lại, con nuôi
thực tế là một hiện tượng xã hội có thể được pháp luật điều chỉnh khi có
những điều kiện nhất định, trong giai đoạn nhất định.
Thứ hai, con nuôi trên danh nghĩa không đòi hỏi phải tuân theo các quy
định của pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi, nhưng con nuôi thực tế chỉ có
thể được cơng nhận có giá trị pháp lý khi tuân thủ đầy đủ các điều kiện của
việc nuôi con nuôi nhưng không đăng ký nuôi con nuôi.
Thứ ba, con nuôi trên danh nghĩa không tồn tại quan hệ chăm sóc, ni
dưỡng nhau giữa cha mẹ ni và con nuôi, nhưng trong quan hộ con nuôi thực
tế hai bên đã thực sự chung sống với nhau và thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau.
Thứ tư, con nuôi trên danh nghĩa không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, nhưng đối với con ni thực tế thì giữa
cha mẹ ni và con ni vẫn có quyền và nghĩa vụ pháp lý của cha mẹ và con


10
theo luật định (khi được công nhận).
Như vậy, về mặt xã hội, con nuôi là con của người khác nhưng được một
người hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con và coi như con đẻ, nhằm thoả
mãn những nhu cầu, lợi ích nhất định của các bên.
1.1.1.2. Khái niệm con ni dưới góc độ sinh học
Dưới góc độ khoa học, quan hệ cha mẹ và con được hình thành trên cơ sở
sinh đẻ, trong đó có sự di truyền gen từ thế hệ cha mẹ sang thế hệ con cái một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp, nhằm đảm bảo sự kế tục nòi giống, phù hợp với
quy luật tự nhiên của q trình tái sản xuất. Do đó, con đẻ, về nguyên tắc, bao
giờ cũng mang huyết thống và gen di truyền của cha mẹ, do cha mẹ truyền lại
và do cha mẹ sinh ra.
Ngược lại, con nuôi không có quan hệ huyết thống trực hệ với cha mẹ

ni và không mang gen di truyền của cha mẹ nuôi. Trong một số trường hợp,
người được nhận làm con nuôi có thể có quan hệ huyết thống với người nhận
ni, như chú nhận cháu làm con nuôi, nhưng giữa họ khơng thể có quan hệ
sinh thành ra nhau. Nếu có quan hệ sinh thành ra nhau thì sẽ làm phát sinh
quan hệ giữa những người cùng huyết thống về trực hộ, đó là quan hệ giữa cha
mẹ đẻ và con, quan hộ giữa ơng bà và cháu, mà khơng cịn là quan hệ ni con
ni nữa. Do đó, về ngun tắc, một người khơng thể nhận con đẻ của mình
(ngồi giá thú) làm con nuôi, cũng như ông bà không thể nhận cháu ruột trực
hệ của mình làm con ni.
Về thực chất, việc nhận nuôi con nuôi không liên quan gì đến quá trình
phát triển tự nhiên về mặt sinh học của việc thụ thai, mang thai và sinh con.
Trong khi đó, về ngun tắc, sự hình thành quan hộ cha mẹ và con bằng việc
sinh đẻ tuân theo quy luật tự nhiên của q trình di truyền nịi giống, qua đó
gen của thế hộ cha mẹ được truyền lại cho thế hệ con cái một cách trực tiếp.
Từ gens đồng nghĩa với những từ khác như genos theo tiếng Hy-lạp, từ gan
của người A-ri-en... đều có nghĩa là sinh đẻ, huyết tộc, dòng họ [79, tr.387].


11
Bản chất của việc sinh con gắn liền với sự di truyền nòi giống, gắn liền với
huyết thống. Ngược lại, việc nhận nuôi con nuôi là sự thể hiện ý chí, mong
muốn của con người, mà khơng liên quan gì đến huyết thống sinh học.
Hiện nay vấn đề thụ thai và sinh con đã có những thay đổi đáng kể. Việc
thụ thai nhân tạo và thụ thai trong ống nghiệm đã được thực hiện thành công.
Việc xác định quan hệ cha mẹ cho con theo huyết thống sinh học không đặt ra
đối với các trường hợp con được sinh ra do áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
(Điều 21 Nghị định 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/2/2003 về sinh
con theo phương pháp khoa học, gọi tắt là Nghị định 12/CP). Có quan điểm
cho rằng, “trong trường hợp cả vợ và chồng đều không cố khả năng cỏ con,
phải nhận phơi người khác thì có lẽ cần phải xem đây là một dạng con nuôi

đặc biệt” [35]. Theo chúng tôi, quan niệm trong trường hợp này, đứa trẻ sinh
ra là con ni là chưa chính xác, vì người mẹ đó đã tự mình thực hiện hành vi
mang thai và sinh con, điều mà trong việc nhận nuổi con nuôi không thể có.
Trong q trình mang thai và sinh con, cha mẹ của đứa trẻ, đặc biệt là người
mẹ phải trải nghiệm tất cả những sự biến đổi về tâm - sinh lý của cơ thể phù
hợp với sự phát triển của thai nhi. Do đó, đứa con sinh ra, ngay cả trong
trường hợp đặc biệt là do phôi thai của người khác, vẫn được xác định là con
đẻ của cặp vợ chồng đó, chứ khơng thể là con ni.
Từ sự phân tích trên cho thấy, dưới góc độ sinh học, con nuôi là người
được một người hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con và coi như con đẻ
nhưng giữa hai bên không cố liên hệ với nhau về mặt sinh học, khơng có quan
hệ huyết thống với nhau hoặc tuy có quan hệ huyết thống với nhau trong phạm
vi nhất định nhưng không phải là quan hệ huyết thống trực hệ và không sinh
thành ra nhau.
1.1.1.3. Khái niệm con ni dưới góc độ pháp lý
Dưới góc độ pháp lý, con nuôi được hiểu là “người không phải do chính
mình đẻ ra, nhưng được ni hoặc được pháp luật cơng nhận có nghĩa vụ và


12
quyền lợi như con đẻ” [122, tr.200]. Mặc dù chỉ ra dấu hiệu về mặt pháp lý
của khái niệm “con ni” là được pháp luật cơng nhận có nghĩa vụ và quyền
lợi như con đẻ, nhưng định nghĩa này chưa chính xác bởi từ “hoặc”. Để diễn
đạt chính xác hơn khái niệm “con nuôi” này, từ “hoặc” trong định nghĩa trên
cần phải sửa thành từ “và”.
Theo từ điển Luật học do nhà xuất bản Từ điển bách khoa xuất bản tại
Hà Nội năm 1999, thì “con ni là người được một người khác không phải là
cha, mẹ nhận làm con và giữa hai người có mối quan hệ gắn bó như cha, mẹ
với con”. Định nghĩa này được diễn đạt theo quy định tại Điều 34 Luật
HN&GĐ năm 1986. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi là

quan hệ cha mẹ và con, chứ khơng chỉ “có mối quan hệ gắn bó như cha, mẹ
với con”. Do đó, theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, thì cách diễn đạt
trên là khơng chính xác và đầy đủ.
Theo chúng tơi, dưới góc độ pháp lý, yếu tố quan trọng nhất trong khái
niêm con nuôi là sự thể hiện ý chí tự nguyện của người nhận ni và ngưịi
được nhận làm con ni (khi họ có khả năng thể hiện ý chí) trong việc mong
muốn xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên, và ý chí đó được nhà nước
cơng nhận. Đó là cơ sở để người được nhận làm con ni có mọi quyền và
nghĩa vụ như con đẻ. Sự chăm sóc, ni dưỡng giữa các bên đối với nhau, dù
giống như trong quan hộ cha mẹ và con, cũng khơng thể khẳng định có quan
hệ nuôi con nuồi, nếu bản thân những người này không muốn xác lập quan hệ
cha mẹ và con với nhau. Đây chính là yếu tố quan trọng để xác định khái niệm
con nuôi về mặt pháp lý.
Về mặt pháp lý, quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ nuôi cần được xác lập
thông qua thủ tục pháp lý là đăng ký ni con ni. Việc “nhận” một người
nào đó làm con nuôi mà không thực hiện thủ tục đăng ký ni con ni tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thì về ngun tắc khơng có giá trị pháp lý.
Người “con nuôi” và người nhận nuôi trong những trường hợp này không


13
đương nhiên có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của
pháp luật. Như vậy, khái niệm con ni dưới góc độ xã hội và góc độ pháp lý
khác nhau về hình thức cơng nhận mối quan hệ đó và hậu quả pháp lý của nó.
Tuy nhiên, là đối tượng điều chỉnh của pháp luật, con nuôi không thể là bất cứ
ai, mà phải là người có đủ những điều kiện do pháp luật quy định. Tùy theo
hoàn cảnh kinh tế xã hội, lịch sử trong mỗi giai đoạn nhất định, do sự chi phối
của đạo đức, tâm lý, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, pháp luật các nước
quy định khác nhau về điều kiện của người được nhận làm con nuôi. Quy định
về điều kiện của người được nhận làm con nuôi thể hiện ý chí của nhà nước

trong việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của người được nhận ni.
Qua những phân tích trên có thể hiểu khái niệm “con ni” dưới góc độ
pháp lý như sau: Con ni là người có đủ điều kiện do pháp luật quy định,
được một người hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con qua những thủ tục
pháp lý nhất định, mà giữa hai bên khơng có quan hệ huyết thống trực hệ,
không sinh thành ra nhau và không phải là anh chị em ruột của nhau.
Việc cho - nhận con nuôi là một quan hộ ý chí, mà khơng phải là một
quan hệ tự nhiên thuần tuý về mặt sinh học. v ề mặt xã hội, việc cho - nhận
con ni có thể xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, bị chi phối bởi quan điểm
của mỗi cá nhân về lợi ích, đạo đức, niềm tin, giá trị xã hội... cùng với tình
cảm, hồn cảnh cụ thể của họ. Song về mặt pháp lý, việc cho - nhận con nuôi
được xem xét trên cơ sở lợi ích tốt nhất của con ni chưa thành niên, phù hợp
với mục đích nhân đạo. Để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, xác lập trật tự
pháp lý trong lĩnh vực nuôi con nuôi, nhà nước cần điều chỉnh và bảo vệ lợi
ích hợp pháp của trẻ em được cho làm con ni. Vì vậy, việc xem xét quy
định về điều kiện của người được nhận làm con nuôi là một yêu cầu khách
quan. Tuy nhiên, về vấn đề này có hai chiều hướng tư duy khác nhau.
Xu hướng thứ nhất cho rằng, cần quy định điều kiện đối với người được


14
nhận làm con nuôi. Việc quy định điều kiện của người được nhận làm con
nuôi sẽ đảm bảo quyền được sống chung với cha mẹ đẻ của con - một quyền
tự nhiên cơ bản của trẻ em được Công ước quốc tế về quyền trẻ em công nhận
và bảo vệ. Khơng ai có quyền cách ly con khỏi cha mẹ đẻ của mình, trừ trường
hợp sự cách ly như vậy là cần thiết vì lợi ích của chính đứa trẻ [60, tr.256],
[76, tr.14]. Đồng thời quy định về điều kiện của người được nhận làm con
nuôi tạo cơ sở để kiểm sốt việc cho nhận con ni, ngăn chặn những hành vi
tiêu cực có thể xảy ra. Một số nước đã thể hiện quan điểm này qua việc quy

định điều kiện của người được nhận làm con ni. Ví dụ: pháp luật Trung
Quốc quy định: trẻ em dưới 14 tuổi bị mồ cơi, bị bỏ rơi, trẻ trong gia đình khó
khăn khơng có khả năng ni dưỡng có thể được cho làm con nuôi (Điều 4
Luật nuôi con nuôi của nước CHND Trung Hoa ngày 4/11/1998, có hiộu lực
từ ngày 1/4/1999) [136]. Pháp luật Trung quốc còn quy định “việc nuôi con
nuôi không được trái với pháp luật về kế hoạch hố gia đình” (Điều 3) [136]
và người đã cho con làm con ni thì khơng được sinh con khác (Điều 19)
[136]. Đây là một quy định cần thiết khi thực hiện chính sách một con ở
Trung Quốc, nhằm ngăn chặn việc loại bỏ những đứa con khơng có giới tính
phù hợp vói mong muốn của cha mẹ đẻ. Ở Philippin thì trẻ em dưới 18 tuổi có
thể được cho làm con nuôi trong nước (Điều 8 Đạo luật về nhận con nuôi
trong nước năm 1998) [40] và dưới 15 tuổi nếu làm con ni người nước ngồi
[23, tr.208], [41], với điều kiện: sự chấm dứt quyền làm cha mẹ đối với những
đứa trẻ đó đã được tuyên bố theo thủ tục hành chính hoặc tư pháp, để thiết lập
tình trạng của trẻ là “có thể làm con ni một cách hợp pháp” (Điều 2, Điều
8) [40]. Như vậy, theo pháp luật một số nước, người được cho làm con ni là
trẻ em trong độ tuổi và hồn cảnh nhất định.
Xu hướng thứ hai cho rằng, việc quy định điều kiện đối với người được
cho làm con ni có thể dẫn tới hạn chế việc nuôi con nuôi, và ở mức độ nhất
định sẽ hạn chế quyền tự do dân sự của cá nhân trong việc cho - nhận con


15
nuôi. Nhà nước cần tôn trọng quyền tự định đoạt đó của cá nhân, trên cơ sở
phù hợp với đạo đức, không vi phạm các điều cấm của pháp luật. Do đó,
khơng cần quy định điều kiện đối với người được nhận làm con ni.
Theo chúng tơi, việc có cần quy định điều kiện của người được nhận làm
con nuôi hay khơng phải xuất phát từ mục đích của việc ni con ni, xem
xét lợi ích của các chủ thể có liên quan cần được pháp luật bảo vệ. Theo chúng
tơi, mục đích của việc ni con ni là xác lập quan hộ cha mẹ - con giữa

người được nhận làm con nuôi với người nhận nuôi con nuôi và nhà nước cần
quan tâm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của cả hai bên như nhau. Tuy
nhiên, trong trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc là người đã
thành niên có nhược điểm về thể chất, tinh thần hoặc cha, mẹ nuôi là người
già yếu cô đom, thì cần quan tâm bảo vộ lợi ích của những người này trước
tiên, vì họ là người “yếu thế” hơn. về mặt pháp lý, để có cơ sở bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của những người yếu thế hơn, cần quy định điều kiện
của người được nhận làm con nuôi trong từng trường hợp nuôi con nuôi cụ
thể. Có thể phân biệt hai trường hợp cơ bản sau:
Trường hợp thứ nhất: Người được nhận làm con nuôi là người chưa thành
niên. Việc người chưa thành niên được nhận làm con nuôi không được trái với
quyền được sống chung với cha mẹ đẻ của họ - một quyền tự nhiên cơ bản của
trẻ em. Điều đó có nghĩa là, trước hết, phải đảm bảo khả năng được sống
chung với cha mẹ đẻ của người chưa thành niên. Chỉ khi khả năng đó khơng
thể thực hiện được vì những lý do nhất định, và việc làm con nuôi là phù hợp
với lợi ích tốt nhất của trẻ, thì việc cho trẻ làm con nuôi mới đặt ra. Việc cho
con làm con ni, dù phù hợp vói nguyện vọng của cha mẹ đẻ, vẫn phải xuất
phát từ lợi ích của con, chứ khơng phải vì lợi ích của cha mẹ đẻ. Quy định
điều kiộn đối với người chưa thành niên được nhận làm con ni cịn là cơ sở
để đảm bảo quyền được sống trong môi trường ruột thịt của trẻ, nhằm giữ gìn
gốc gác dân tộc, văn hố, ngơn ngữ của trẻ [60, tr.262]. Bởi vì, việc cho trẻ em


16
làm con nuối người nước ngoài chỉ được coi là giải pháp cuối cùng khi khơng
thể tìm được một gia đình thích hợp cho trẻ tại nước gốc [19, tr. 168, tr.170].
Mặt khác, quy định về điều kiện của người được nhận làm con ni nhằm
ngăn chặn tình trạng lợi dụng việc cho nhận con nuôi để thực hiện những hành
vi bắt cóc, chiếm đoạt, mua bán trẻ em hoặc nhằm những mục đích trục lợi
khác, khơng phù hợp với mục đích của việc ni con ni. Ví dụ: cho con làm

con ni để được xuất cảnh đi nước ngồi; cho làm con ni của thương binh,
người có cơng với cách mạng để được hưởng chế độ ưu tiên, đãi ngộ của nhà
nước đối với những người này... Thực chất, đây là những hành vi lợi dụng sơ
hở của pháp luật để trục lợi mà khơng nhằm mục đích xác lập quan hệ cha mẹ
và con giữa hai bên. Bên cạnh đó cịn có hiện tượng lợi dụng việc cho con làm
con nuôi để sinh con thứ ba hoặc để cố sinh con trai mà không bị xử lý vi
phạm nghĩa vụ kế hoạch hố gia đình... Những hành vi trên đã làm cho việc
nuôi con nuôi bị biến dạng, khơng cịn đúng với bản chất nhân đạo của nó
nữa. Vì vậy, pháp luật cần quy định những điều kiện cần thiết đối với người
được nhận làm con nuôi là người chưa thành niên, để bảo vệ quyền, lợi ích của
họ, đồng thời ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, lợi dụng việc cho nhận
con ni nhằm những mục đích vụ lợi khác.
Trường hợp thứ hai: Người được nhận làm con nuôi là người đã thành
niên. Viộc làm con nuôi của người già yếu cô đơn hoặc làm con nuôi của
người là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự, tức là
nhận những người không có khả năng lao động làm cha mẹ ni để chăm sóc;
ni dưỡng, chỉ có tính khả thi đối với ngưòi đã thành niên. Việc xác lập quan
hộ cha mẹ và con giữa người đã thành niên với những người già yếu cơ đơn,
người bị tàn tật khơng có khả năng lao động là biện pháp có hiệu quả để giải
quyết một vấn đề xã hội phức tạp, đó là việc bảo trợ xã hội cho những đối
tượng khó khăn, những người yếu thế, thiệt thòi trong xã hội. Những đối tượng
này có xu hướng ngày càng tăng do việc hội nhập kinh tế quốc tế, do xu thế


17
tồn cầu hố, gắn liền với việc phân hố giàu nghèo trong nền kinh tế thị
trường. Mặt khác, đây là việc làm mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện truyền
thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, có ý nghĩa xã hội lớn lao, nên cần được pháp
luật công nhận, bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên và khuyến khích thực
hiện trong thực tế. Trong trường hợp này, người đã thành niên làm con nuôi

phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có khả năng để chăm sóc,
ni dưỡng cha mẹ ni. Việc xác lập quan hộ cha mẹ và con giữa hai bên phù
hợp với ý chí, tình cảm tự nguyện của các bên, phù hợp với đạo đức xã hội,
khơng vì mục đích vụ lợi khác, thì cần được pháp luật công nhận.
Nếu người được nhận làm con nuôi là người đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự, bị tàn tật, khơng có khả năng lao động thì họ lại là người cần được
bảo vệ. Trong trường hợp này, việc nuồi con ni hướng tới lợi ích của con nuôi.
Tuy nhiên, người được nhận làm con nuôi chủ yếu vẫn là trẻ em. Trẻ em
là người chưa trưởng thành đầy đủ về thể chất và tinh thần nên cần được
“ni”, tức là cần được chăm sóc, cho ăn uống, ni dưỡng, giáo dục để có thể
phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, đồng thời cần được bảo vệ về
mặt pháp lý. Vì vậy, cần quy định các điều kiộn cụ thể đối với người được
nhận nuôi là trẻ em để có cơ sở pháp lý bảo vệ trẻ em được nhận làm con nuôi.
1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi
Khái niệm nuôi con nuôi được xem xét dưới góc độ xã hội và pháp lý.
1.1.2.1. Khái niệm ni con ni dưới góc độ xă hội
t Ni con nuôi là một hiộn tượng xã hội xuất hiên từ lâu trong lịch sử,
nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của con người, thể hiện mối quan hệ gắn
bó của con người với nhau trên cơ sở những lợi ích chung. Với tư cách là một
quan hộ xã hội, nuôi con nuôi được E.A.Weinstein định nghĩa như sau trong
từ điển bách khoa tồn thư về các mơn khoa học xã hội:
“Theo nghĩa rộng và khơng mang tính pháp lý thì ni con ni được
định nghĩa như là một thực tiễn xã hội được thể chế hố, theo đó một cá nhản

THƯ VIỆN
ĨRưÒ N G Đ A ' H O C I Ụ À Ĩ H À n ô i


18
thuộc về một gia đình hoặc một nhóm mang tính chất gia đình do sinh ra tiếp

nhận những liên hệ mới mang tính chất gia đình và những liên hệ mới này được
xã hội coi như ngang bằng với những mối liên hệ ruột thịt và thay thể một phần
hoặc tồn bộ những mối liên hệ đó” (Theo E.A.Weinstein, “Adoption”, in
International Encyclopedia of the Social Sciences, New York, 1968, p.97). ■*
Theo định nghĩa trên, việc nuôi con nuôi được hiểu là việc một cá nhân
được tiếp nhận vào một gia đình và tạo ra những liên hệ mới “mang tính chất
gia đình”, có thể thay thế một phần hoặc tồn bộ những mối liên hệ ruột thịt.
Những quan hệ mang tính chất gia đình này được xã hội thừa nhận và có giá
trị như quan hệ ruột thịt. Vì lẽ đó, nhận ni con ni làm hình thành quan hộ
cha mẹ và con giữa hai bên như giữa cha mẹ đẻ và con.
Là một quan hệ xã hội, việc nuôi con ni khơng địi hỏi các điều kiện
chặt chẽ mà chủ yếu nhằm đáp ứng các nhu cầu và lợi ích của con người. Các
nhu cầu, lợi ích đó xuất hiện một cách khách quan, thể hiện rất đa dạng. Lợi ích
mà các bên trong quan hê ni con ni muốn đạt được có thể là lợi ích về tinh
thần hoặc lợi ích về vật chất. Đó có thể là lợi ích của cá nhân, gia đình, dịng
họ, như nhận ni con ni để có con, khắc phục việc vơ sinh và để có người
nối dõi, kế tục thờ cúng tổ tiên. Việc nhận ni con ni có thể hướng tói
những lợi ích về vật chất như để có thêm lao động cho gia đình, để được cấp
thêm đất đai... Trong xã hội phong kiến Việt Nam, việc nuôi con ni cịn “nhằm
khuếch trương quyền thế của gia đình. Ở xã hội Việt Nam, tầm cỡ và sự giàu có
của một gia đình gắn chặt với thế lực xã hội và chính tjfẶỊ\21, tr.142]. Samuel
Baron, người được Chúa Trịnh Căn nhận làm con ni [127, tr.143], cho rằng:
“Người Đàng Ngồi thường có tham vọng có nhiều gia nhân và nhiều bà con
họ hàng, cho nên họ có phong tục ni con nuôi lẫn nhau (không phân biệt con
trai hay con gái) trong dịng họ của mình...” [127, tr.142]. Theo Insun Yu thì
“v/ệc ni con ni kiểu này có tính chất một quan hệ họ hàng giả tưởng, và
mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi tương tự như giữa ông chủ với


19

người tuỳ thuộc'1' [127, tr.143]. về mặt xã hội, quan hệ nuôi con nuôi như vậy
thường nảy sinh ở những gia đình có mối quan hệ quen biết hoặc có quan hệ
họ hàng thân thích. Việc nhận con ni trong những trường hợp này làm hình
thành quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên, nhưng chưa theo pháp luật.
f Mặt khác, việc ni con ni cịn nhằm đáp ứng những nhu cầu tinh thần
của cá nhân như sự yêu thương, thông cảm, muốn chia sẻ giúp đỡ, cưu mang trẻ
em mồ côi, những người bất hạnh. Việc nhận nuôi con ni trong nhiều trường
hợp cịn thể hiện nhu cầu về đạo đức, lòng nhân ái, sự hướng thiện của con
người, thể hiện những giá trị xã hội mà con người muốn hướng tới và đạt được.
Trong đời sống xã hội, các bên có thể xác lập quan hệ cha mẹ và con trên danh ■
nghĩa từ những lý do khác nhau, như sự kính trọng, lịng cảm phục, sự biết ơn
hoặc vì những lý do khác. Ví dụ: sự chăm sóc của bạn bè đối với cha mẹ của
đồng đội đã hy sinh. Những người còn sống tự nhận trách nhiệm phụng dưỡng
và coi cha mẹ của bạn mình đã hy sinh như cha mẹ của mình. Đây là một hiện
tượng xã hội tương đối phổ biến ở Việt Nam sau chiến tranh, được điều chỉnh
bằng các chuẩn mực đạo đức mà khơng đương nhiên có giá tri pháp lý. Các
bên trong những quan hệ đó khơng địi hỏi gì về mặt quyền lợi, khơng cần
được cơng nhận về mặt pháp lý, mà chỉ xử sự với những tình cảm tự nhiên
chân thành và thực hiộn những yêu cầu cơ bản của đạo lý làm người.
Như vậy, dưới góc độ xã hội, nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội được
thiết lập giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con ni
nhằm hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực tế với những mối liên hệ
gia đình mới, đ ể thoả mãn những nhu cầu tình cảm, đạo đức hoặc lợi ích nhất
định của các bêru
1.1.2.2.

Khái niệm ni con ni dưới góc độ pháp lý

Dưới góc độ pháp lý, khái niệm ni con ni được xem xét ở ba khía
cạnh: là một sự kiện pháp lý, là một quan hệ pháp luật hoặc là một chế

định pháp lý.


20
*

Khái niệm nuôi con nuôi với ỷ nghĩa là một sự kiện pháp lý

Sự khác nhau giữa quan hệ cha mẹ và con theo huyết thống và quan hệ
cha mẹ nuôi và con nuôi là ở chỗ: quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ được hình
thành một cách tự nhiên trên cơ sở huyết thống qua sự kiện mang thai và sinh
con, còn quan hệ giữa cha mẹ ni với con ni là một quan hệ ý chí, được
hình thành trên cơ sở pháp lý, mà khơng gắn gì với huyết thống sinh học.
“Nếu như quan hệ giữa cha, mẹ đẻ và con đẻ là quan hệ gia đình “huyết
thống ” được hình thành do việc sinh đẻ thì quan hệ giữa cha, mẹ ni và con
ni là quan hệ “nhân tạo” được xác lập về mặt pháp lý” [2, tr.13]. Quan
điểm này cũng được nhiều nhà luật học thừa nhận. f
Trước đây, tiến sĩ luật khoa Trần Văn Liêm cho rằng, ni con ni, cịn
gọi là “sự nghĩa dưỡng” được hiểu như sau: “Nghĩa dưỡng là một hành vi
pháp lý tạo nên giữa hai người những mối quan hệ về phụ hệ hay mẫu hệ có
tính cách giả tạo và dân sứ \ Người cha hay người mẹ nuôi được gọi là người
đứng nuôi và đứa trẻ được nuôi gọi là “dưỡng tử” hay “nghĩa tử” [72, tr.424].
Theo giáo sư Vũ văn Mẫu thì: “Sự nghĩa dưỡng hay ni con ni có mục đích
tạo nên những dây liên lạc phụ hệ, hoàn toàn giả định” [81, tr.255]. Quan
điểm của cả hai tác giả này đều cho rằng việc nuôi con nuôi tạo ra mối quan
hệ cha mẹ và con có tính chất giả định mà thơi. Theo các tác giả này thì có thể
hiểu, tính cách “giả định” của quan hộ này là ở chỗ, giữa người nuôi và con
nuôi chỉ tồn tại liên hộ về mặt pháp lý của quan hộ cha mẹ và con, chứ khơng
tồn tại quan hộ đó theo huyết thống. Do đó, nếu quan hệ này không được công
nhận về mặt pháp lý thì nó cũng khơng có hiệu lực trong thực tế.

Theo tác giả Francoise Dekeiner thì “ni con ni là một cách thực hiện
hợp pháp một quan hệ dòng giống theo pháp lý, khơng có liên quan gì với thực
tế sinh học” [38, tr.68]. Định nghĩa này chỉ rõ quan hệ nuôi con nuôi được xác
lập giữa những người không có quan hệ huyết thống với nhau nhưng làm hình
thành quan hệ cha mẹ và con về mặt pháp lý. So với hai khái niệm trên thì


×