Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Pháp luật về đảm bảo đầu tư trực tiếp ở nước cộng hoà dân chủ nhân dân lào thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.39 MB, 70 trang )


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO






B ộ T ư PHÁP





TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI








NOR KEO KOMMADAM

PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM ĐẦU T ư TRựC TIẾP
Ở NƯỚC CHDCND LÀO - THựC TRẠNG
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số :


60 38 50

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC








NGƯỜI HƯỚNG DẢN: TS NGUYỄN VIÉT TÝ

THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI H Ọ C LỮẬT HÀ NỘI
PHONG D O C ■

£j

HÀ NỘI - 2008

&


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biêt ơn sâu săc tới các thây - cô giáo của Khoa Pháp
luật kinh tế và tất cả các thầy cô giáo của trường Đại học Luật Hà Nội, đặc
biệt là thầy giáo TS : Nguyễn Viết Tý đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình,
động viên em trong q trình hồn thành luận văn tốt nghiệp này.

Cảm ơn các bạn cùng lớp khóa 14 mọi người ln ln giúp đỡ tơi trong thời
gian vừa qua và đã đóng góp ý kiến vào luận văn này cho nó đầy đủ và phù
hợp theo quy định của nhà trường đã đặt ra.
Em xin kính chúc tới các thầy cơ giáo, bạn bè đã tận tâm giúp đỡ em
thành cơng trong q trình viết luận văn tốt nghiệp này, hãy hạnh phúc an
khang thịnh vượng và thành công cho mọi việc trong sự nghiệp.
Xin trân thành cảm ơn !


M ỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ PHÁP LUẬT BẢO
ĐẢM ĐAU TƯ TRỰC TIẾP TẠI CHDCND LÀO

4

1.1.

Khái quát đầu tư trực tiếp

4

1.2.

Khái quát pháp luật bảo đảm đầu tư


6

1.3.

Khái quát về hệ thống pháp luật bảo đảm đầu tư trực tiếp ở Lào

10

1.4.

Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của chế định bảo đảm
đầu tư ở Lào

19

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CỦA CHDCND LÀO VỀ
BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

30

2.1.

Bảo đảm về vốn và tài sản của nhà đầu tư

30

2.2.

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ


34

2.3.

Mở cửa thị trường đầu tư liên quan đến thương mại

36

2.4.

Bảo đảm chuyển vốn, tài sản ra nước ngồi

38

2.5.

Bảo đảm đối đãi cơng bằng giữa các nhà đầu tư tại CHDCND Lào

39

2.6.

Bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, chính sách

46

2.7.

Bảo đảm giải quyết thoả đáng tranh chấp trong đầu tư


48

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA LÀO VỂ BẢO ĐẢM ĐẨU TƯ Ở LÀO

52

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp 52
tại CHDCND Lào
3.2. Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm 55
đầu tư ở Lào
3.3. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực thi các quy định của pháp 58
luật về bảo đảm đầu tư tại CHDCND Lào
KẾT LUẬN

62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

65


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VÃN
FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP


Tổng sản phẩm trong nước

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

MFN

Quy chế tối hệ quốc

TRIPS

Hiệp Định các vấn đề sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại

ASEAN

Tổ chức các nước Đông nam á

AFTA

Khu vực mậu dịch tự do các nước Đơng Nam á

CHDCND

Cộng hịa Dân chủ Nhân dân

VPTTCP

Văn phịng thủ tướng chính phủ


NDCM

Nhân Dân Cách Mạng

XHCH

Xã hội chủ nghĩa

CTN

Chủ tịch nước

CTƯBKHĐT Chủ tịch ủy ban kế hoạch và đầu tư
BOT

Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao

BTO

Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - khai thác

BT

Hợp đồng xây dựng - chuyển giao

QHNDTC

Quốc hội Nhân dân Tối cao

KCNC


Khu cơng nghệ cao

ĐTNN

Đầu tư nước ngồi

BTV

Ban thường vụ

TTG

Thủ tướng

TTGQTCKT

Trung tâm giải quyết tranh chấp kinh tế

VPGQTCKT

Văn phòng giải quyết tranh chấp kinh tế


1

NorKeo Kommadam

Cao học khố X IV


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1986, tại Đại hội lần thứ IV Đảng Nhân Dân Cách Mạng (NDCM)
Lào đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện đường lối đổi mới, Nhà
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật nhằm khuyên khích, phát triển kinh tế, phát huy nội lực, thu hẹp dần
khoảng cách giữa Lào với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư là
một trong những yếu tố then chốt để phát triển kinh tế đất nước. Để thu hút
được các nhà đầu tư, Nhà nước CHDCND Lào phải tạo được mơi trường đầu tư
an tồn, tức là hệ thống pháp luật về đầu tư phải hoàn thiện, thủ tục đầu tư đơn
giản. Khi tiến hành đầu tư điều mà nhà đầu tư quan tâm đầu tiên chính là sự an
tồn trong q trình đầu tư. Quy định bằng pháp luật chính là sự bảo đảm chắc
chắn nhất cho các nhà đầu tư, giúp họ yên tâm và mạnh dạn tiến hành các hoạt
động đầu tư. ý thức được điều đó, Nhà nước CHDCND Lào đã cố gắng hoàn
thiện dần các quy định về bảo đảm đầu tư trong các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan đến lĩnh vực đầu tư, cụ thể năm 1990 ban hành Luật đầu tư
nước ngoài và được thay thế bằng Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước
ngồi tại CHDCND Lào năm 1994, năm 1995 ban hành Luật khuyến khích đầu
tư trong nước tại CHDCND Lào và đã được sửa đổi bổ sung vào năm 2004.
Việc tìm hiểu các quy định về bảo đảm đầu tư, thấy được những ưu điểm cần
phát huy và chỉ ra những hạn chế để đưa ra những giải pháp khắc phục nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào là
hết sức cần thiết. Đó cũng là lý do tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về
bảo đảm đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào

-

thực trạng và phương


hướng hoàn thiện làm luận văn tốt nghiệp cao học luật.


2. T ình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến hoạt động đầu tư tại Lào đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu đề cập đến vấn đề này, ví dụ như: “Hồn thiện pháp luật kinh tế trong
quá trình đổi mới quản lý kinh tế của L à o Trong sách giáo khoa của TS.

Luận Văn Thạc sĩ luật học


2

NorKeo Kommadam

Cao học khoá X IV

Xổm Xay x ỉ Hà Chắc năm 2006, NXBTP Viêng Chăn và gần đây là Luận văn
thạc sỹ Luật học của Souliya Pouangpadith về “Các biện pháp khuyến khích
và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Cơng Hịa Dân Chủ Nhân Dân
Lào

và trong cuộc Hội thảo theo chủ đề “Kinh nghiêm quốc tế về ưu đãi và

bảo đảm đầu tư” do Bộ K ế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới
tổ chức tháng 08/2004 và trong Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam được tổ
chức tháng 06/2005... Mỗi tác phẩm đề cập đến vấn đề đầu tư ở một góc độ
khác nhau. Nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp và
cụ thể về vấn đề bảo đảm đầu tư trong pháp luật của Lào.

3. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được viết trên cơ sở lý luận và phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật và đường lối phát triển kinh
tế của Đảng NDCM Lào. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: Phân tích, tổng hợp, so sánh,
suy diễn logic để nghiên cứu các nội dung cụ thể.
4. Đ ối tượng ngh iên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về bảo đảm
đầu tư; nội dung các quỵ định về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được tập trung làm rõ những vấn đề lý
luận về bảo đảm đầu tư. Thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật về bảo
đảm đầu tư trực tiếp của CHDCND Lào, nêu lên những ưu điểm và nhược
điểm và đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu qủa
của hoạt động đầu tư tại CHDCND.
5. Mục đích và Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn của đầu tư tại CHDCND Lào để nêu ra phương hướng hoàn thiện
pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào.
Từ mục đích trên nhiệm vụ nghiên cứu luận văn tập trung vào các vấn
đề sau:

Luận Văn Thạc sĩ luật học


3

NorKeo Kommadam


Cao học
XIV
______
•__ khố
__________

- Những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng các quy định pháp luật về
bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào.
- Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm đầu tư
trực tiếp ở CHDCND Lào.
6. N hững kết quả nghiên cứu mới của luận văn

- Luận văn trình bày một cách khoa học và cụ thể các khái niệm như:
đầu tư, pháp luật bảo đảm đầu tư, quá trình phát triển của các quy định pháp
luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp tại CHDCND Lào.
- Luận văn được đánh giá và phân tích cụ thể từng biện pháp bảo đảm
đầu tư và thực trạng các quy định pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở nước
CHDCND Lào.
- Luận văn đã giúp người đọc hiểu được nội dung các biện pháp và có
giá trị tham khảo đối với những người quan tâm tới vần đề đầu tư ở nước
CHDCND Lào.
- Luận văn đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
của pháp luật nước CHDCND Lào về bảo đảm đầu tư trực tiếp.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo đảm đầu tư trực tiếp
tại CHDCND Lào;
Chương 2: Thực trạng pháp luật của CHDCND Lào về bảo đảm đầu tư

trực tiếp;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật của Lào về bảo đảm đẩu tư ở Lào.

Luận Văn Thạc sĩ luật học


4

NorKeo Kommadam

Cao học khoả X IV

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM ĐẨU T ư
TRỰC TIẾP TẠI CHDCND LÀO
1.1. KHÁI QUÁT ĐÂU T ư TRỰC TIÊP
1.1.1. K hái quát về đầu tư trực tiếp

Đầu tư là của cải mà có thể bn bán được, hy vọng rằng nó sẽ tạo ra
thu nhập hay tăng thêm giá trị trong tương lai. Sự nhận thức về mặt kinh tế,
đầu tư là việc buôn bán sản phẩm mà khơng sử dụng trong ngày hơm nay
nhưng nó sẽ được sử dụng trong tương lai để tạo ra sự giầu có. v ề mặt tài
chính, đầu tư là của cải tiền tệ bn bán với ý của cải của nó sẽ thu nhận hoặc
tăng thêm giá trị trong tương lai và có thể bán với giá cao hơn.[l 8,tr 4,5]
- Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất
định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã đưa ra để đạt được kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động trí tuệ.
- Đầu tư theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng

các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vơ” hình
để hình thành tài sản mới trong tương tai.
Đầu tư trực tiếp là yếu tố góp phần tạo ra năng lực thực hiện hóa các
nguồn tiềm năng trong và ngồi nước, thơng qua hình thức sản xuất kinh
doanh đặc thù: chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý sang một nước
khác ngoài đất nước của chủ đầu tư.
Vốn đầu tư là việc loại vốn tích lũy được trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các cá nhân, tập thể và Nhà nước nhằm thực hiện đầu tư để mở rộng
sản xuất và dịch vụ hay tạo ra năng lực sản xuất mới. Trên giác độ quốc gia,
nguồn vốn đầu tư được chia làm hai loại là nguồn vốn trong nước và nguốn
vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, hoạt động đầu tư cũng được phàn chia thành

Luận Văn Thạc sĩ luật học


5

NorKeo Kommadam

Cao học khố X IV

hai hình thức cơ bản là đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Nguồn vốn
đầu tư bao gồm: những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, thiết bị,
vật tư..; những tài sản vơ hình như bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ
thuật, nhãn hiệu hàng hóa... Ngồi ra, các nhà đầu tư cịn có thể đầu tư bằng
cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu về tài sản khác như quyền thế chấp, cầm cố
tài sản, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ...
Như vậy, đầu tư trực tiếp là một hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo

lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Trong đó, nhà đầu tư có thể
thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý,
điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận
từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của pháp luật đầu tư
nước nào đó.
1.1.2.

Vai trị của đầu tư trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế - xã

hội ở nước CHDCND Lào
Đối với các nước đang phát triển, tác dụng chủ yếu của đầu tư trực tiếp
nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước là tăng tích lũy vốn và bù đắp sự thiếu
hụt ngoài tệ. Do thu nhập của các nước đang phát triển thấp nên tích lũy thấp
mà tỷ lệ nhu cầu đầu tư cao, FDI góp phần thu cho ngân sách Nhà nước thơng
qua việc đánh thuế vào các cơng ty nước ngồi. Thơng qua hợp tác với nước
ngồi, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giói.
Đầu tư là việc bỏ nhân lực, tài lực, vật lực vào một cơng việc, dựa trên
cơ sở tính tốn hiệu quả kinh tế - xã hội. Đầu tư bao giờ cũng có chủ thể xác
định, đối tượng, mục đích và cách thức thực hiện xác định. Đầu tư là việc sử
dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực vốn lớn hơn.
Vốn đầu tư là phần tích lũy xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa
vào tái sản xuất xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển
vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn.
Đầu tư là loại vốn tích lũy được trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
cá nhân, tập thể và Nhà nước nhằm thực hiện đầu tư đổ mở rộng sản xuất và

Luận Văn Thạc sĩ luật học



NorKeo Kommadam_______

6

Cao học khoá X IV

dịch vụ hay tạo ra năng lực sản xuất mới. Trên giác độ quốc gia, nguồn vốn
đầu tư được chia làm hai loại là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước
ngồi. Do đó, hoạt động đầu tư cũng được phần chia thành hai hình thức cơ
bản là đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước.
Một yếu tố quan trọng khác đó là thơng qua hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài, Nước CHDCND Lào cịn có thể tiếp nhận được những cơng nghệ
hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, tăng thu ngân sách, phát triển ngành nghề
mới. Nó có tác dụng to lớn đối với q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước Lào. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngồi có vai trị hết sức quan
trọng đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung và đối với CHDCND Lào
nói riêng, nó đã góp phần giải quyết được những vẫn đề hết sức quan trọng đối
với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, không phải FDI chỉ mang lại những tác động tích cực cho
các bên mà nó cịn mang lại những tác động tiêu cực đến nền kinh tế xã hội
của các quốc gia nói chung và của Lào nói riêng. Các tác động tiêu cực đó
đước thể hiện ở một số điểm như: (i) Hoạt động FDI thúc đẩy sự phát triển
không đồng đều giữa thành thị với nơng thơn, đẩy nhanh q trình phân hố
giầu nghèo trong xã hội; (ii) Thông qua FDI, các nước tiếp nhận đầu tư có thể
tiếp nhận phải những thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường; (iii) Đầu tư
trực tiếp nước ngồi, trong đó cũng như các nhà đầu trong nước dẫn có thể làm
cho các doanh nghiệp đến sự cạnh tranh với nhau và bị phá sản.
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
1.2.1. K hái niệm bảo đảm đầu tư


Bảo đảm đầu tư có thể được hiểu là bảo tồn những lợi ích thiết thực,
chính đáng của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, hoặc là nói một cách cụ thể,
đó là bảo tồn vốn và các tài sản được các nhà đầu tư đưa vào sản xuất kinh
doanh, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho vốn và tài sản đó mang lại lợi
nhuận cho nhà đầu tư.
Chúng ta đều biết, các nhà đầu tư chỉ yên tâm và mạnh dạn bỏ vốn, tài

Luận Văn Thạc sĩ luật học


NorKeo Kommadam

7

Cao học khoá X IV

sản ra sản xuất, kinh doanh khi họ chắc chắn rằng vốn họ bỏ ra sẽ có lãi và cả
vốn lẫn lãi của họ đều được bảo đảm an toàn. Do vậy, bảo đảm đầu tư là một
trong những phương cách có tính chiến lược để khuyến khích đầu tư và thu hút
vốn đầu tư. Trong số các biện pháp bảo đảm đầu tư thì biện pháp chắc chắn và
có hiệu quả nhất là bảo đảm bằng pháp luật. Vì thế, các nhà nước muốn
khuyến khích, thúc đẩy đầu tư đều cố gắng xây dựng, ban hành và bảo đảm
thực hiện các quy định pháp luật về bảo đảm đầu tư [23, tr 343; 27 tr 12, 13].
Bảo đảm đầu tư là những cam kết của nước tiếp nhận đầu tư nhằm đảm
bảo an toàn về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn đối với tài sản, vốn, các
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành các hoạt
động đầu tư tại nước tiếp nhận. Đặc trưng của hoạt động đầu tư kinh doanh là
khả năng xảy ra rủi ro rất lớn, chính vì vậy, khi tiến hành đầu tư, các nhà đầu
tư thường chú trọng tới việc lựa chọn các biện pháp để giảm thiểu rủi ro trong
kinh doanh. Rủi ro có thể được giảm bớt bằng cách chính bản thân các nhà

đầu tư thiết kế và thực hiện những biện pháp bảo đảm riêng của mình (ví dụ
như tiến hành mua bảo hiểm đối với một số bộ phận của dự án đầu tư).
Ngoài ra, những khả năng rủi ro đó cũng có thể được cam kết giảm bớt
hoặc ngăn chặn không cho xảy ra bởi chính Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Hai cách
thức giảm thiếu rủi ro trên đây có những điểm phân biệt rõ nét, cụ thể: Nếu các
nhà đầu tư phải chi trả một khoản tải chính khơng nhỏ để có được sự an toàn nhất
định trong kinh doanh trong cách thức tự bảo đảm đầu tư thì đối vói việc sử dụng
những biện pháp bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư cam kết thực hiện thì
các nhà đầu tư không phải chi trả bất cứ một khoản tiền nào.
Khi các nhà đầu tư tự tiến hành bảo đảm đầu tư cho mình có nghĩa là
các nhà đầu tư đã cá biệt hóa dự án đầu tư của mình với một khả năng giảm
thiểu rủi ro có thể khơng tìm thấy ở các dự án đầu tư khác, mặc dù các dự án
đầu tư khác này có thể cùng địa bàn, cùng lĩnh vự đầu tư. Tuy nhiên, với các
biện pháp bảo đảm đầu tư do nhà nước tiếp nhận đầu tư quy định thì những
cam kết đó được áp dụng đối với tất cả các dự án đầu tư, không phân biệt về
quy mô vốn, nguồn gốc vốn cũng như lĩnh vực và địa bàn đầu tư.

Luận Văn Thạc sĩ luật liọc


NorKeo Kom madam

8

Cao học
khố XIV
______
•___________
__


Việc các nhà đầu tư mua bảo hiểm hoặc dùng một số biện pháp đảm
bảo tự thân khác cho dự án đầu tư của mình thì kết quả cũng chỉ có thể giảm
thiểu những rủi ro mà nguyên nhân là do những khuyết tật của nền kinh tế thị
trường hoặc do trình độ quản lý kinh doanh yếu kém của nhà đầu tư. Nếu sử
dụng các biện pháp bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư ban hành thì các
nhà đầu tư cịn tránh được cả những rủi ro về mặt lập pháp hoặc sự thay đổi
bất thường về mặt chính sách đối với các hoạt động kinh doanh của nước tiếp
nhận đầu tư.
1.2.2. Nội dung pháp luật về bảo đảm đầu tư

Luật đầu tư đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật khác có
liên quan như: Luật doanh nghiệp, Luật phá sản, Luật thuế... Trong đó, Luật
doanh nghiệp quy định việc thành lập cơng ty, hình thức, lồi hình, kể cả việc
góp vốn của người đầu tư. Pháp luật bảo đảm đầu tư có thể được hiểu theo hai
nghĩa như: theo nghĩa rộng, pháp luật bảo đảm đầu tư bao gồm các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để: (i) Bảo toàn vốn đầu
tư và các tài sản khác của nhà đầu tư; (ii)Tạo một môi trường thuận lợi cho
nhà đầu tư; (iii) Thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư đối với các
lợi nhuận sinh ra tư hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, bảo đảm công
bằng và thỏa đáng giữa bên đầu tư và bên nhận đầu tư, bảo đảm giải quyết kịp
thời, thỏa đáng và đúng pháp luật các tranh chấp phát sinh trong quá trình đầu
tư [27, tr 67- 86].
Theo nghĩa hẹp thì đó là sự bảo đảm bằng pháp luật vốn các tài sản
khác được các nhà đầu tư đưa vào sản xuất, đưa vào kinh doanh. Vốn là vấn đề
được quan tâm hơn cả nên yêu cầu bảo đảm vốn được đặt lên hàng đầu.
Không thể bỏ vốn ra và yên tâm sản xuất kinh doanh nếu thiếu các biện pháp
về bảo toàn vốn đầu tư và các tài sản khác của nhà đầu tư. Nhà nước Lào đã
thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư về vốn và tài sản của họ, bất
kể vốn đầu tư của họ dưới hình thức nào.
Trong lĩnh vực bảo tồn vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư thì pháp

luật bảo đảm đầu tư phải bảo đảm cho vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư sẽ

Luận Văn Thạc sĩ luật học


NorKeo Kommadam

9

Cao học khố X IV

được đảm bảo khơng bị trưng dụng, trưng thu hoặc bị tịch thu bằng các biện
pháp hành chính; xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi khơng bị quốc hữu hóa.
Pháp luật bảo đảm đầu tư phải tạo mối trường đầu tư thuận lợi cho nhà
đầu tư, bao gồm mơi trường chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý mà quan trọng
nhất là môi trường pháp lý. Pháp luật bảo đảm đầu tư đặc biệt quan trọng khi
thu hút vốn đầu tư nước ngồi, vì trước khi quyết định đầu tư vào một nước,
nhà đầu tư thường xem xét đến mức độ ổn định của tình hình chính trị, tiềm
năng phát triển của nền kinh tế và mơi trường đầu tư của nước đó. Và họ chỉ
thực sự yên tâm đầu tư khi tin tưởng rằng hoạt động đầu tư của họ bảo đảm sẽ
sinh lợi.
Theo tư duy mới, đầu tư nói chung, nhất là đầu tư trực tiếp của nước
ngồi là một loại hình thị trường, bên cạnh các thị trường hàng hóa, lao động.
Trên thị trường này, mọi hoạt động diễn ra theo cơ chế cạnh tranh, theo quy
luật cung cầu, theo so sánh lực lượng giữa đầu tư công nghệ và tiềm năng kinh
tế. Sự điều tiết của nhà nước được thể hiện trong các quy định của pháp luật về
đầu tư, tạo ra một hành lang pháp lý, trong đó nhà đầu tư có tịan quyền đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vấn đề lời hay lỗ, tồn tại hay
phá sản, mở rộng hay thu hẹp phạm vi kinh doanh trong phạm vi giấy phép
kinh doanh của mình, trước hết và chủ yếu thuộc về quyền hạn và trách nhiệm

của chủ đầu tư. Do đó, nếu mơi trường pháp lý khơng tốt cho hoạt động đầu tư
nước ngồi thì lợi ích đầu tư khó được bảo đảm .
Khi xem xét pháp luật này cần phân biệt giữa bảo đảm đầu tư với
khuyến khích đầu tư. Cả hai biện pháp này đều nhằm tới một mục đích thu hút
vốn đầu tư, nhưng bảo đảm đầu tư được các nhà đầu tư xem xét đầu tiên. Bảo
đảm đầu tư là những quy định tối thiểu được pháp luật dành cho nhà đầu tư mà
căn cứ vào đó, họ lựa chọn hình thức kinh doanh... Khi đó, nhà nước mới áp
dụng biện pháp khuyến khích đầu tư chủ yếu là thuế. Như vậy, bảo đảm đầu tư
được áp dụng cho mọi nhà đầu tư, nó như một nền tảng, cơ sở mà dựa trên nó,
khuyến khích đầu tư được áp dụng chỉ cho một số nhà đầu tư trong một số
lĩnh vực được nhà nước đặc biệt quan tâm, chú trọng.

Luận Văn Thạc sĩ luật học


NorKeo Kommadam

10

Cao học khố X IV

Tóm lại, về pháp luật bảo đảm đầu tư phải bao hàm tất cả những nội
dung trên. Pháp luật bảo đảm đầu tư được thể hiện trong các vãn bản quy
phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật như: Hiến pháp, Luật Đầu tư, luật liên
quan đến lĩnh vực đầu tư cũng như các văn bản pháp quy khác, trong các điều
ước quốc tế về bảo đảm đầu tư nước ngoài do các bên hữu quan ký k ết... Nhờ
sự phát triển của khoa học pháp lý, của kỹ thuật xây dựng pháp luật cũng như
nhờ sự tham khảo kinh nghiệm của các nước khác và kinh nghiệm áp dụng
luật đầu tư trong thực tế mà các quy định của pháp luật về đầu tư ở nước
CHDCND Lào ngày càng phát triển theo chiều sâu, ngày càng được chính xác

hóa, chọn lọc và đúc rút được kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới và
ngày càng phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước Lào.
1.3.

KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM ĐẨU TƯ TRỰC

TIẾP Ở LÀO
1.3.1.

C ác quy định về bảo đảm đầu tư trực tiếp theo H iến pháp

năm 1991

Nghị định năm 1991 về Luật khuyến khích và đầu tư trực tiếp nước
ngồi tại CHDCND Lào đã quy định, tài sản và vốn đầu tư của nhà đầu từ
nước ngoài tại Lào sẽ được bảo đảm bằng pháp luật của Lào, không bị nhà
nước trưng thu, trưng dụng, quốc hữu hóa. Trường hợp cần thiết sử dụng vào
lọi ích chung, nhà đầu tư nước ngồi sẽ được Nhà nước bồi thường nhanh
chóng, hợp lý và hữu hiệu (Điều 3). Nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư
vào CHDCND Lào theo hai hình thức: (i) Liên doanh với một hoặc nhiều nhà
đầu tư Lào; (ii) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (Điều 4).
Liên doanh với một hoặc nhiều nhà đầu tư Lào là hình thức đầu tư
nước ngoài, được thành lập và đăng ký kinh doanh theo pháp luật CHDCND
Lào, cùng sở hữu vốn kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài
với một hoặc nhiều nhà đầu tư Lào. Việc điều hành, tổ chức hoạt động của
liên doanh và mối quan hệ giữa điều chỉnh bởi hợp đổng được đăng ký giữa
các bên và điều lệ về liên doanh phù hợp với pháp luật của CHDCND Lào
(Điều 5).

Luận Văn Thạc sĩ luật học



NorKeo Kommadam_________________ 11___________________ Cao học khoá X IV

Nhà đầu tư trong liên doanh phải góp vốn tối thiểu là 30% tổng đầu tư
của liên doanh, vốn góp của một bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài
trong liên doanh sẽ được chuyển đổi sang tiền Lào theo tỷ giá hối đoái của
ngân hàng Lào và phù hợp với pháp luật của CHDCND Lào (Điều 6).
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngồi là hình thức đầu tư nước
ngồi của một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngồi, mà khơng có sự tham gia
của nhà đầu tư Lào, được đăng ký theo pháp luật CHDCND Lào, có thể là một
cơng ty mới hoặc một chi nhánh hoặc một văn phòng đại diện của một cơng ty
nước ngồi (Điều 7).
Nếu một đầu tư nước ngồi là một chi nhánh hoặc văn phịng đại diện
của một cơng ty nước ngồi thì phải có điều lệ công ty phù hợp với pháp luật
của Lào và được ủy ban quản lý đầu tư nước ngoài (FIMC) của CHDCND Lào
phê chuẩn. Việc thành lập và đăng ký đầu tư nước phải phù hợp với Nghị định
về doanh nghiệp của CHDCND Lào (Điều 8, 9).
Nhà nước bảo đảm việc đầu tư và quyền sở hữu của nhà đầu tư và quyền
sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở pháp luật CHDCND Lào, nhà đầu
tư nước ngoài được phép thuê đất và chuyển giao các lợi ích phát sinh từ hợp
đồng thuê đất bất động sản, được phép sở hữu các lọi ích từ đất và động sản
khác và chuyển giao các lợi ích phát sinh từ mối quan hệ sở hữu các loại sản đó.
Nhà đầu tư nước ngồi được tự do vận hành doanh nghiệp của mình
trong khn khổ pháp luật CHDND Lào, Chính phủ khơng can thiệp vào việc
quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Điều 10).
Nhà đầu tư nước ngồi phải ưu tiên cho cơng dân Lào trong việc tuyển
dụng lao động, tuy nhiên các doanh nghiệp nước ngồi, có quyền sử dụng các
chuyển gia và người lao động nước ngoài, trong trường hợp cần thiết, nếu có
sự phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền. Nhà đầu tư nước ngồi có nghĩa vụ

nâng cao trình độ, kỹ năng cho người lao động Lào thông qua việc đào tạo ở
Lào hoặc ở nước ngồi. Chính phủ CHDCND Lào tạo thuận lợi cho các nhà
đầu tư nước ngồi và thành viên gia đình của họ được vào lãnh thổ Lào, đi lại,

Luận Văn Thọc sĩ luật học


NorKeo Kommadam

12

Cao học khoả X IV

lưu trú trên lãnh thổ Lào, rời khỏi lãnh thổ Lào. Tất cả những người này phải
tuân thủ pháp luật CHDCND Lào. Người nước ngoài làm việc tại Lào phải
chịu thuế thu nhập cá nhân tối đa 10% (Điềul 1, 12).
Việc quản lý doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài phải sử dụng hệ
thống kế tốn tài chính quốc gia CHDCND Lào, tài khoản của nhà đầu tư
nước ngồi được kiểm tốn định kỳ bởi cơ quan tài chính có thẩm quyền phù
hợp với các quy định kế toán được tại CHDCND Lào (Điều 14).
Nhà đầu tư nước ngoài được phép chuyển thu nhập và vốn từ hoạt động
đầu tư nước ngoài về nước hoặc sang nước thứ 3 thông qua một ngân hàng Lào
hoặc ngân hàng nước ngoài thành lập tại Lào, phù hợp với pháp luật điều chỉnh
hoạt động ngoài hối và kim loại qúy của CHDCND Lào. Đối với người nước
ngoài làm việc tại Lào, sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế, phí, lệ phí cũng có
quyền chuyển lợi nhuận của mình về nước hoặc nước thứ 3 (Điều 15).
Trong trường hợp ngoại lệ, nếu có quyết định đặc biệt của Chính phủ
CHDCND Lào, nhà đầu tư nước ngồi có thể được hưởng ưu đãi và lợi ích đặc
biệt như được giảm hoặc miễn thuế lợi tức hoặc thuế xuất nhập khẩu vật liệu
và phương tiện sản xuất, phụ tùng và các tư liệu khác (Điều 16,17, 18).

Các nhà đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào phải hoạt động kinh
doanh phù hợp với pháp luật CHDCND Lào, tuân thủ các nguyên tắc bảo vệ
môi trường, bảo vệ sức khỏe và an tồn cho người lao động, thực hiện chính
sách bảo hiểm cho người lao động theo quy định của pháp luật của CHDCND
Lào (Điều 20).
Trường hợp có tranh chấp xảy ra giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhau
hoặc giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư Lào, các bên phải tiến hành
thương lượng thơng qua hịa giải. Nếu hịa giải khơng thành, các bên có quyền
đề nghị các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của
CHDCND Lào hoặc áp dụng hình thức khác để giải quyết tranh chấp như:
Hình thức của CHDCND Lào, của nước ngoài hoặc của quốc tế theo sự lựa
chọn các bên (Điều 21).

Luận Văn Thạc sĩ luật học


13

NorKeo Kommadam

1.3.2.

Cao học khoá X IV

Các quy định về bảo đảm đầu tư trực tiếp theo Luật Đầu tư

nước ngoài tại Lào
Các văn bản pháp luật của Lào hiện nay về đầu tư trực tiếp nước ngồi
đã có những quy định bảo đảm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Hiến pháp
năm 2003 (sửa đổi và bổ sung hiến pháp năm 1991), Chính phủ Lào bảo đảm

thực hiện ổn định, lâu dài chính sách đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Lào, đồng
thời sửa đổi, bổ sung chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nguyên tắc
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Trong Điều 3 Luật đầu nước ngồi
của nước Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào, tài sản đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài đã được đảo bảm bằng pháp luật CHDCND Lào.
Đầu tư nước ngồi có ý nghĩa là sự chuyển vốn gồm có: Tài sản, kỹ
thuật và kinh nghiệm vào nước CHDCND Lào, bởi nhà đầu tư nước ngồi
nhằm mục đích kinh doanh. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc pháp nhân
nước ngoài đến đầu tư ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư trong nước là người hợp
vốn hoặc người hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài, gồm cá nhân
hoặc pháp nhân công dân Lào sống tại CHDCND Lào. Tài sản là bằng tiền tệ,
các đồ vật tài sản về trí tuệ. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp
liên doanh và hợp tác kinh doanh theo hợp đồng đã ký với nhau tại CHDCND
Lào (Điều 2) [1, tr 132,134].
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố góp phần tạo ra năng lực thực hiện
hóa các nguồn tiềm năng trong và ngồi nước, thơng qua hình thức sản xuất
kinh doanh đặc thù: chuyển vốn, cơng nghệ và kinh nghiệm quản lý sang một
nước khác ngoài đất nước của chủ đầu tư.
Sự bảo đảm đầu tư nước ngoài là như: Tài sản và mọi sự đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài ở nước CHDCND Lào sẽ được bảo đảm bởi pháp luật của
Lào, các tài sản đầu tư này không bị thu hồi, tịch thu gồm cả Quốc hữu hóa,
ngoại trừ có sự cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh và lợi ích Quốc gia. Nhà
nước trung mua, trung dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư nước ngồi sẽ
được thanh toán hoặc bồi thường theo pháp luật, trừ trường hợp vì lợi ích cơng
cộng và được bồi thường nhanh chóng, hợp lí hữu hiệu. Nhà nước đã khẳng

Luận Văn Thạc sĩ luật học


NorKeo Kommadam


14

Cao học khoá X IV

định: “Nhà nước Lào khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngồi đầu tư vốn
tại CHDCND Lào, bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp vốn, tài sản và các quyền
lợi khác của nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm vốn và tài sản hợp pháp của nhà
đầu tư nước ngồi khơng bị tịch thu hoặc quốc hữu hoá” (Điều 15).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào hiện nay Nhà nước rất
coi trọng các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, bằng cách cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào hầu hết các ngành và lĩnh vực quan
trọng nhất của nền kinh tế quốc dân (trừ quốc phòng và một số ngành thuộc
lĩnh vực ảnh hưởng đến an toàn và an ninh quốc gia). Pháp luật về đầu tư nước
ngoài tại Lào ngày càng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản
xuất - kinh doanh của nhà đầu tư. Đặc bịêt là các quy định về cải cách thủ tục
hành chính, các đường lối, chính sách của Đảng NDCM Lào trong quan hệ
hợp tác kinh tế với nước ngoài. Cụ thể là tranh thủ được vốn và kỹ thuật hiện
đại, kinh nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến, đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý giỏi và đội ngũ công nhân kỹ thuật cao, nhanh chóng tạo chỗ đứng
vững chắc trong sự phân công lao động quốc tế tạo được thế mạnh trên thị
trường quốc tế. Vì vậy, để khuyến khích các tổ chức và cá nhân nước ngoài
đầu tư vốn và kỹ thuật vào Lào, Luật đầu tư định ra một khung pháp lý khá
hoàn chỉnh và hấp dẫn, trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền của Lào, bình
đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với luật chơi kinh tế trong môi trường
cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và phù hợp với phong tục tập quán và
thơng lệ quốc tế.
Do có nhiều thuận lợi và đảm bảo lơị ích của người đầu tư, chỉ hơn một
năm sau khi ban hành Luật đâu tư nước ngoài (năm 1988), đã có nhiều cơng
ty từ nhiều nước đến trình đơn xin phép vào đầu tư tại Lào với hơn 100 dự án,

trong đó đã cấp giấy phép đầu tư hơn 80 dự án với trị giá hơn 70 triệu USD.
Mặc dù, Nhà nước đã ban hành luật khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Lào đã được gần 10 năm nhưng trong thời gian hiện nay vẫn
đang có nhiều mảng xám.

Luận Văn Thạc sĩ luật học


15

NorKeo Kommadam

1.3.3.

Cao học khoả X IV

C ác quy định về bảo đảm đầu tư trực tiếp theo Luật khuyên

khích đầu tư trong nước của Lào

Luật về khuyến khích đầu tư trong nước CHDCND Lào quy định
nguyên tắc, quy chế và điều khoản thi hành về sự khuyến khích, bảo hộ, bảo
đảm và quản lý đầu tư trong nước của Lào với mục tiêu tăng cường, nhằm
động viên mọi bộ phận, lĩnh vực kinh tế đầu tư với sự hợp tác về kinh tế trong
nước, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, lực lượng cốt yếu, nguồn vốn và trí tuệ
của mình nhằm tăng cường năng lực sản xuất có hiệu quả, để phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần giải quyết đời
sống của nhân dân tốt lên và xây dựng đất nước giầu mạnh (Điều 1).
Đầu tư trong nước là sự bỏ vốn và tài sản, kỹ thuật và kinh nghiệm vào
sản xuất kinh doanh của cá nhân, đặc biệt các nhà đầu tư là người Lào, người

ngoài kiều, người ngoài quốc tịch, đã được sinh sống vững chắc ở nước
CHDCND Lào, kể cả người Lào đã sống ở nước ngoài (Điều 2).
Nhà đầu tư trong nước có thể đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh trong tất cả các ngành nghề và mọi lĩnh vực đầu tư của CHDCND Lào,
ngồi trừ các cơng trình liên quan tới an ninh Quốc gia, có hiệu quả xấu tới
mơi trường hiện tại hoặc trong tương lai, về sức khỏe, văn hóa tốt lành của
quốc gia. Nhà nước khuyên khích nhà đầu tư trong nước đầu tư vào cơng trình
của các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư riêng mà đã quy định trong Điều 9 và 10
của Luật này. Nhà nước đề ra chỉ tiêu Chính sách về thuế, thuế thu nhập, nội
quy, các điều khoản thi hành, về sự cung cấp thông tin, phục vụ và thuận lợi
khác cho nhà đầu tư nước ngồi (Điều 3). Nhà đầu tư có thể tham gia đầu tư
vào mọi lĩnh vực kinh tế, mọi ngành kinh tế theo quy định của luật doanh
nghiệp, trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà đầu tư phải bảo đảm tổng số
vốn đã đăng kí kinh doanh (Điều 4) [1, tr 104, 105].
Việc bảo đảm đầu tư trong nước, tài sản, vốn của các nhà đầu tư sẽ được
Nhà nước bảo đảm bằng các quy định cụ thể của pháp luật. Nhà nước không
tịch thu vốn và tài sản đầu tư của các doanh nghiệp khi đầu tư vào trong nước.
Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng những tài sản, vốn

Luận Văn Thạc s ĩ luật học


16

NorKeo Kommadam

Cao học khố X IV

đầu tư đó thì các nhà đầu tư sẽ được bồi thường và thanh toán theo quy định
của pháp luật CHDCND Lào (Điều 5). Nhà nước bảo đảm về việc khuyến

khích mọi thành phẩn kinh tế trong nước đầu tư vào, sản xuất, kinh doanh thực
hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần ổn định và phát triển
nền kinh tế quốc gia. Theo luật này, tài sản của nhà đầu tư kể cả người đầu tư
trong nước sẽ được bảo đảm bởi pháp luật, bao gồm nhiều trong lĩnh vực luật.
Với mục tiêu tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, khuyến khích đầu tư
trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, hệ thống pháp luật của Lào ngày
càng được hoàn thiện và đổi mới để phù hợp với yêu cầu mới. Nhà đầu tư
trong nước có quyền và lợi ích như: (i) được Nhà nước tạo thuận lợi trong việc
thành lập và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài theo
quy định của pháp luật; (ii) được Nhà nước bảo đảm quyền và lợi ích đã thu
được hoạt động kinh doanh của ninh; (iii) Làm chủ sở hữu tài sản như (có
quyền quản lý, sử dụng, quyền được để lại thừa kế tài sản đã thu được từ việc
đầu tư của mình); (iv) được các cơ quan tổ chức tín dụng tạo thuận lợi trong
việc xin cấp tín dụng; (v) được Nhà nước giúp đỡ về chuyên gia, kỹ thuật và
thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh; (vi) được Nhà nước khuyên khích,
thúc đẩy về thị trường kể cả giá trị hàng hóa từ việc sản xuất của mình. Đối
với nhà đầu tư trong nước có nơi cư trú tại nước, sau khi đã thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ lệ phí khác, có thể gửi lợi nhuận và nguồn vốn trong hoạt động kinh
doanh và lợi nhuận khác đúng theo pháp luật về nơi cư trú của mình hoặc sang
nước thứ 3 thơng qua tổ chức tín dụng tại CHDCND Lào theo tỷ giá hối đối
của ngân hàng trong thời điểm đó.
Nhà đầu tư trong nước và thành viên gia đình kể cả chuyên gia, cán bộ
với tư cách là lao động nước ngoài của doanh nghiệp đầu tư trong nước sẽ
được tạo điều kiện thuận lợi trong việc xin cấp hộ chiếu ra vào nhiều lần và
sinh sống tại Lào trong thời hạn lâu dài theo quy định của Nhà nước; được bảo
đảm về sở hữu trí tuệ đã đăng ký tại cơ quan hữu quan của CHDCND Lào. Có
quyền khởi kiện lên cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp bị xâm phạm,
thiệt hại về lợi ích trong hoạt động kinh doanh.

Luận Văn Thạc sĩ luật học



1.3.4.

Cao học
XIV
______
•___khoả
___________

17

NorKeo Kommadam

Các Nghị định của Chính phủ quy định về hoạt động bảo

đảm đầu tư trực tiếp ở Lào
Theo Nghị quyết của Quốc hội nước CHDCND Lào về quy định thông
qua Luật sửa đổi một số điều Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước
ngồi của Lào, căn cứ Điều 53 khoản 2 Hiến pháp và Điều 3 khoản 2 luật Quốc
hội Nước CHDCND Lào về quyền và nghĩa vụ của Quốc hội; đề nghị của Thủ
tướng Chính phủ số 31/VPTTCP.TK ngày 04/06/2004, ngày 22/10/2004, kỳ
họp thứ 6 của Quốc hội khóa V đã thơng qua Luật sửa đổi một số điều của Luật
khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài [1, tr 101, 129]
Nền kinh tế của nước CHDCND Lào là nền kinh tế nhiều thành phần.
Mọi thành phần kinh tế đều được Nhà nước khuyến khích để phát triển và mở
rộng năng lực sản suất, kinh doanh; thực hiện việc chuyển đổi từ kinh tế tự
nhiên sang nền kinh tế hàng hóa gắn với nền kinh tế khu vực và thế giới; thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu ổn định, phát triển và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Mọi thành phần kinh tế đều phải

tuân theo pháp luật và hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cho nên, Chính phủ Lào đã khẳng định sự tơn trọng của mình
đối với quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và đặc biệt là quyền tự do
kinh doanh của nhà đầu tư, đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật tất cả
các loại hình doanh nghiệp mà pháp luật cho phép hoạt động, cụ thể như: Bảo
đảm tuyệt đối quyền sở hữu về tài sản của các nhà đầu tư nước ngồi trong
q trình đầu tư. Trong trường hợp có những tranh chấp kinh tế giữa các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp khác, Nhà nước Lào
sẽ khơng có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các tranh chấp này sẽ được xét xử bởi tòa án
hoặc bất kỳ một phương thức nào do các bên thỏa thuận và được pháp luật cho
phép. Các cơ quan Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư
nước ngoài, đặc biệt là các thủ tục hành chính, các nhà đầu tư nước ngồi được
phép lựa chọn cơ quan xét xử các tranh chấp kinh rấ hoăc đưac áp dung các
quy định của bản án của tịa án, trọng tài nước ngồi Wmjtmrc!ng hơp các
TRỢỠNGĐẬI H Ọ b LÚẠT HA^lộl
P H Ỏ N G oộc

Luận Văn Thạc sĩ luật học

2 'fS-^


NorKeo Kommadam

18

Cao học khố X IV

quốc gia thỏa thuận cơng nhận và thi hành các quyết định của tòa án, trong tài

nước ngoài theo các hiệp định về tương trợ tư pháp. Điều 3 Luật đầu tư năm
1994 quy định về việc tài sản hợp pháp của nhà đầu tư khơng bị quốc hữu hóa,
khơng bị tịch thu bằng biện pháp hành chính trừ trường hợp thật cần thiết, vì
lý do quốc phịng, an ninh và lợi ích Quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng
dụng tài sản của các nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh tốn hoặc bồi
thường theo giá trị thị trường tại thời điểm công bố, việc trưng mua, trưng
dụng, việc thanh toán hoặc bồi thường phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Biện pháp bảo đảm đầu
tư, đầu tiên này được áp dụng đối với tất cả nhà đầu tư có hoạt động đầu tư
theo pháp luật của Nhà nước CHDCND Lào, không phân biệt mức độ bảo hộ
nhiều hay ít, dựa trên bất kỳ một tiêu chí nào.
Trên cơ sở nguyên tắc mỗi bên cùng có lợi và hoạt động theo pháp luật
Lào, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được đầu tư và tiến hành sản
xuất kinh doanh trong tất cả các kinh tế như ngành nông nghiệp, lâm nghiệp,
công nghiệp chế biến, ngành năng lượng khai thác khoảng sản, thủ công giao
thông vận tải, xây dựng, du lịch thương mại, dịch vụ... Nhà nước luôn tôn
trọng các thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng và cũng sẩn sàng đứng ra giải
quyết nếu như theo yêu cầu của hai bên đặt ra, còn nếu hai bên thỏa thuận nhờ
một cơ quan nào có thẩm quyền nước thứ ba đứng ra giải quyết thì Nhà nước
Lào cũng khơng ngăn cấm mà cịn tơn trọng biện pháp giải quyết đó của các
nhà đầu tư.
Việc bảo hộ nhà nước đối với các hoạt động đầu tư bao gồm sự bảo đảm
về giải quyết tranh chấp xẩy ra trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Tuy
nhiên, một khía cạch liên quan nhà nước có thể bảo đảm cho các nhà đầu tư
một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với thông lệ quốc tế, đề cao quyền
lợi hợp pháp của các nhà đầu tư và để độ tin cậy cũng như độ an toàn về mặt
thực thi các quyết định trong giải quyết tranh chấp về đầu tư.

Luận Văn Thạc sĩ luật học



19

NorKeo Kommadam

1.4.

Cao học khố X IV

Sơ LƯỢC Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

của chê

ĐỊNH BẢO ĐẢM ĐẦU Tư Ở LÀO

1.4.1 Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1991
Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ đã kết thúc, Đảng
NDCM Lào lãnh đạo đất nước cách mạng theo con đường xã hội chủ nghĩa,
Đảng nhân Dân cách Mạng Lào lãnh đạo tất cả mọi việc của đất nước, Nhà
nước là đi theo sự nghịêp và con đường chính trị của Đảng, trong ngày 1/ 2/
1975 Nhà nước CHDCND Lào đã khởi đầu Đại hội lớn nhất của Quốc hội tại
Thủ đô” Viêng Chăn. Đại hội nêu nhiều vấn đề sẽ cần phải giải quyết và bổ
sung, với công việc kế hoạch sáng tạo để phát triển đường lối chính trị, kinh tế
- xã hội, quản lý nhà nước, về việc bảo hộ - bảo đảm đời sống của người nhân
dân trong nước cũng như ngoài nước, làm thế nào cho nó nâng cao ngày càng
tốt lên để thốt khỏi ra sự nghèo nàn, ngu dốt và lạc hậu và có thể được bước
qua đi tới sự giàu mạnh và huy hồng.
Ngịai ra cịn có vấn đề khác nữa mà Nhà nước cần thiết củng cố giải
quyết, bổ sung và phương hướng hoàn thiện trong tương la i...
Thời gian đó vì đất nước mới vừa giải phóng xong, các hệ thống công

tác, cách thức quản lý đất nước được điầu hành theo Nghị quyết, Nghị định
của Chính phủ cũng như lệnh mệnh trực tiếp Chủ tịch nước, chưa ban hành
pháp luật nào để áp dụng điều chỉnh. Để điều hành đất nước cũng chưa có
hiến pháp và văn bản pháp luật chính, chỉ có Nghị quyết, Nghị định Chính phủ
và mệnh lệnh của Chủ tịch nước. Cơ sở kinh tế vẫn còn yếu kém, gốc rễ của
người dân phần lớn là dựa vào thiên nhiên. Công nghệ sản xuất kinh doanh,
kinh tế thị trường và thương mại rất là hẹp, chưa được mở rộng ra nước ngoài.
Cho nên, việc phát triển đất nước rất là gặp nhiều vấn để khó khăn. Việc ngoại
giao, trong khu vực Châu Á cũng có một số nước thì có con đường chính trị
gần giống và giúp đỡ nhau trong nhiều bên việc, bởi không phân biệt là bên
nào như: Nước Việt Nam, Trung Quốc, Nga, Cu Ba... đặc biệt là nước Việt
Nam. Việt Nam và Lào là ngoài nước láng giềng đã từng cùng nhau đứng lên
đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương và

Luận Văn Thạc sĩ luật học


NorKeo Kommadam

20

Cao học khoá X IV

giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng của mỗi dân tộc, hai quốc gia đã có
quan hệ rất khăng khít trên nhiều lĩnh vực, có sự tương đồng về nhiều mặt
như: chính trị, kinh tế, văn hóa... Hai nước ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác
ngày 18/7/1977, cùng nhau đồng lòng coi trọng phát triển trên tất cả các lĩnh
vực, với tinh thần hữu nghị truyền thống, tình đồn kết đặc biệt thành quan hệ
hợp tác toàn diện, ưu tiên cho các lĩnh vực như trên hoặc coi đây là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước.

Đầu tư là sự nghiệp mới của Đảng trong thời gian đó, vì đất nước Lào
vừa ra khỏi nước thuộc địa, cho nên đầu tư trực tiếp nước ngoài là vấn đề đã
được Đảng và Nhà nước quan tâm từ những năm 1980. Điều đó chứng tỏ rằng
Đảng và Nhà nước đã thấy được vai trò và những mặt tích cực của FDI trong
sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Theo đại hội của Đảng lần thứ IV, năm
1986 đã đánh dấu bước đổi mới từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung sang cơ
chế quản lý kinh tế thị trường. Do nhu bước đầu tiên của sự đổi mới kinh tế
thương mại còn gọi là kinh tế thương mại trong giai đoạn đột phá của Lào, đã
và đang tiếp tục vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp cao
quý của đất nước. Tại đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV 11/1986 đã rút ra
được từ thực tiễn 10 năm bảo vệ và xây dựng đất nước và không ngừng tăng
cường, củng cố tình đồn kết, chiến đấu mở rộng sự hợp tác toàn diện với các
nước láng giềng và các nước XHCN anh em khác. Đại hội đã chính thức tiến
hành cơng cuộc đổi mới tồn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đẩy
mạnh và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngồi. Hội đồng nhân dân tối cao
của Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngồi tại Lào vào ngày 25/7/
1988. Nhìn lại Điều lệ năm 1988, ta thấy hiện thái độ và mong muốn của Nhà
nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi: “Chính phủ nước CHDCND Lào
hoan nghênh việc đầu tư nước ngồi ở Lào trên ngun tắc tơn trọng độc lập,
chủ quyền của Lào và hai bên cùng có lợi ”(Điều 1: Luật đầu tư nước ngoài
năm 1988). Tuy nhiên, những quy định này tại thời điểm năm 1988 chỉ có thể
xem như một lời tun ngơn, cịn khả năng thực thi của nó thì rất kém.
Sau khi Đảng và Nhà nước Lào thực hiện chính sách mở cửa cho các

Luận Văn Thạc sĩ luật học


×