Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.37 KB, 23 trang )

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1. Khái niệm và các đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế XHCN dự trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sơ hữu tập thể, do đó nền kinh
tế XHCN có hai thành phần kinh tế và kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Để
phát triển kinh tế quốc doanh chúng ta đã thành lập rất nhiều doanh nghiệp nhà
nước. Các doanh nghiệp này đã được Đảng và Nhà nước quan tâm thích đáng.
Theo sắc lệnh số 104SL ban hành ngày 01/01/1048, DNNN được gọi là doanh
nghiệp quốc gia: “Doanh nghiệp quốc gia là một doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu
của quốc gia và do quốc gia điều khiển”. Các đơn vị kinh tế của nhà nước được gọi
là xí nghiệp quốc doanh, lâm trường quốc doanh, cửa hàng quốc doanh.
Thuật ngữ DNNN được sử dụng chính thức trong nghị định 388/HĐBT ngày
20/11/1991 ban hành về quy chế thành lập và giải thể DNNN, điều 1 của nghị định
đã nêu: “DNNN là một tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư và quản
lý với tư cách chủ sở hữu”.
Hiện nay khái niệm DNNN được định nghĩa trong luật DNNN như sau:
“DNNN là một tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản
lý, hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích thằm thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội do nhà nước giao”. DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ
dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong số vốn do
doanh nghiệp tự quản lý.
Theo từng thời gian điều kiện lịch sử mà chúng ta đã có những định nghĩa
tên gọi khác nhau nhưng tựu chúng lại điều là các doanh nghiệp nhà nước thuộc
thành phần kinh tế quốc doanh.
1.2. Các đặc điểm kinh tế của doanh nghiệp nhà nước
1.2.1. Sở hữu về vốn
Chủ sở hữu về vốn của các DNNN chính là Nhà nước. DNNN là tổ chức
kinh tế do nhà nước thành lập bởi lẽ tất cả các DNNN điều do cơ quan nhà nước có


thẩm quyền ký quyết định thành lập. Tài sản trongdn là một bộ phận tài sản của
Nhà nước. DNNN do Nhà nước đầu tư vốn nên nó thuộc sở hữu của nhà nước .
Sau khi thành lập, DNNN là một chủ thể kinh doanh nhưng không có quyền sở hữu
mà chỉ có quyền quản lý, sử dụng tài sản đó. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa
DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Ngoài bộ phận tài
sản thuộc sở hữu nhà nước DNNN còn có tài sản riêng. DNNN phải chịu trách
nhiệm độc lập với số tài sản này và cũng chỉ chịu trách nhiệm độc lập với số tài
sản này và cũng chỉ chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi
vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN có một cơ cấu tổ chức thống nhất, đó là: hội
đồng quản trị, giám đốc và bộ máy giúp việc hoặc giám đốc và bộ máy giúp việc
tuỳ theo quy mô của doanh nghiệp. DNNN có thể nhân danh mình tham gia các
quan hệ hệ pháp luật và có thể trở thành nguyên đơn hay bị đơn trong quan hệ tố
tụng. Là một đơn vị kinh tế, DNNN có nguồn thu để đảm bảo cho nguồn chi của
mình chứ không phải là cơ quan dự toán như các cơ quan khác của Chính phủ. Vì
vậy DNNN là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân.
DNNN là đối tượng quản lý trực tiếp của nhà nước nên phải thực hiện các
mục tiêu mà Nhà nước giao và cũng rất được Nhà nước quan tâm.
Như vậ các đặc điểm phân tích trên ta thấy lợi thế của ngân hàng khi cho các
DNNN vay là độ an toàn tương đối cao vì đã có Nhà nước hậu thuẫn. Mặt khác khi
cấp tín dụng cho các DNNN, các ngân hàng còn phải quan tâm đến chủ trương,
chính sách của Nhà nước đối với thành phần kinh tế này để có quyết định kịp thời,
đúng đắn.
1.2.2. Đặc điểm về sản xuất.
Trong những năm quann, kinh tế quốc doanh không ngứng phát triển, thực
sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt
Nam. Các DNNN có mức tăng trưởng khá, đảm bảo được cân đối chủ yếu của nền
kinh tế, đáp ứng các yêu cầu dịch vụ công cộng, giải quyết việc làm, thúc đẩy phát
triển văn hoá giáo dục và hình thành các trung tâm kinh tế mới. Đó là những thành
quả khá rõ.
Bên cạnh đó trong thời gian qua các DNNN còn có những tồn tại và còn có

không ít những khó khăn, đó là:
Về máy móc, thiết bị công nghệ dùng cho sản xuất kinh doanh còn thiếu
thốn, dây chuyền sản xuất công nghệ còn lạc hậu, do vậy hàng hoá sản xuất ra chất
lượng còn chưa cao, mẫu mã không phù hợp, sản phẩm sản xuất ra chưa đáp ứng
yêu cầu thị hiếu người tiêu dùng, khả năng cạnh tranh không cao. Một số doanh
nghiệp khi có vấn đầu tư, những việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh
không hợp lý thiếu tính toán đến hiệu quả kinh doanh và khả năng thu hồi vốn.
Về thị trường: các DNNN hiện nay đang gặp nhiều khó khăn trong khai thác
thị trường trong và ngoài nước.
Thị trường trong nước bị sức ép của hàng ngoại, hàng nhập lậu và sự lũng
loạn của việc làm hàng giả, trốn thuế của tư nhân làm cho hàng hoá của DNNN
giảm sức cạnh tranh. Do phải chấp hành nghiêm chỉnh các khoản nộp vào ngân
sách nnn, chi phí quản lý cao, nên nó cũng là một trong những yếu tố làm giá thành
sản phẩm của doanh nghiệp cao, không được thị trường chấp nhân. Mặc dù phải bỏ
ra đầu tư một số vốn lớn để đổi mới công nghệ những sản phẩm mới ra được thời
gian ngắn, chưa kịp thu hồi vốn thì hàng ngoại nhập tràn vào, có chất lượng cao
hơn và có giá cả lại thấp hơn. Lúc này các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ gặp khó
khăn trong tiêu thụ, tồn kho sản phẩm cao nên kinh doanh dễ thua lỗ. Đồng thời
các DNNN còn bị cạnh tranh ngay cả với các doanh nghiệp nước ngoài đang kinh
doanh tại Việt Nam. Chính vì vậy sức ép với các DNNN là rất lớn.
Các DNNN làm háng xuất khẩu cũng gặp không ít những thăng trầm qua
khủng hoảng kinh tế thời gian vừa qua. Bước sang thiên niên kỷ mới, nền kinh tế
Việt Nam được tiếp thêm sức bật mới, quá trình hội nhập khu vực thế giới cùng
nhiều hiệp định trước tiên là hiệp định thương mại Việt - Mỹ, sau đó là gia nhập
AFTA, APEC, WTO.. đang xúc tiến khẩn trương. Các doanh nghiệp trong nước
đồng thời phải đối mặt với những thách thức lớn, khốc liệt.
1.2.3. Khả năng tài chính
Nguồn vấn kinh doanh: Mặc dù Nhà nước đã sắp xếp, chấn chỉnh các
DNNN theo hướng thu hẹp nhằm nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh của
DNNN: năng xuất - chất lượng - hiệu quả nhưng thực thế vẫn còn có DNNN có

mức vốn điều lệ thấp hơn vốn pháp định. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê
hiện vẫn còn 25% DNNN có quy mô vốn ít hơn 1 tỷ đồng nên năng lực sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn trong khi kinh doanh cỡ nhỏ của các
nước trong khu vực cũng có số vốn trên dưới 1 triệu USD. Do thiếu vốn để hoạt
động nên các DNNN phải vay để sản xuất kinh doanh và qua thực tế cho thầy 80%
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là do vay ngân hàng.
Còn vốn tự có của doanh nghiệp ít ỏi, vốn ngân sách cấp thì nhỏ giọt, kể cả các
công trình xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Hiệu quả sử
dụng vốn của DNNN còn thấp. Tài sản cố định trong khu vực quốc doanh chiếm
70-80% nhưng chỉ cung cấp 44% tổng sản phẩm trong nước. Nhiều doanh nghiệp
chưa bảo toàn được vốn. Vốn bị chiếm dụng trong khâu thanh tón ngày càng gia
tăng nhất là công nợ phải trả phát sinh từ vài năm nay vẫn chưa được giải quyết và
tiếp tục tái diễn. Đành rằng quan hệ nợ nần giữa các doanh nghiệp là tất yếu và cấn
thiết nhưng chỉ nên giới hạn ở mức độ nhất định vì khi vượt qua giới hạn đó sẽ làm
cho tài chính của doanh nghiệp xấu đi, vốn bị kẹt không quay vòng được trong khi
vẫn phải trả lãi ngân hàng.
1.2.4. Đặc điểm về quản lý
Bên cạnh những giám đốc làm việc quên mình, đầy năng lực và trách nhiệm,
trong các DNNN còn có rất nhiều nhà quản lý điều hành non kém về trình độ, chưa
đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, không đủ sức đưa doanh nghiệp đứng vững
và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gắt gao. Một điểm yếu hiện nay
nữa là DNNN chịu sự chi phối của nhiều cơ quan, nhiều cấp, nhiều người nên khó
có thể quuy trách nhiệm cho một người, trách nhiệm vật chất của giám đốc đối với
DNNN chưa đủ độ chặt, cơ chế quản lý, giám sát lỏng lẻo, kém hiệu lực. Đây là kẽ
hở lớn để cho những hiện tượng tham nhũng và tiêu cực nảy sinh và phát triển.
Có thể nói những yếu kém hiện nay của DNNN không thuộc về bản chất của
loại hình doanh nghiệp này. Chúng ta hy vọng với sự hỗ trợ về vốn của ngân hàng
và nỗ lực của bản thân trong tương lại không xa các DNNN hoàn toàn xứng đáng
với vai trò, nhiệm vụ và vị trí của nó trong xã hội.
2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước.

Nếu dự vào mục đích hoạt động của chúng thì sẽ có DNNN hoạt động kinh
doanh và DNNN hoạt động công ích. DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt
động sản xuất cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Đây là những lĩnh vực kinh
doanh có lãi hoặc nhà nước không khuyến khích kinh doanh do đó nhà nước phải
đầu tư vào để đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội. Còn các DNNN hoạt động
kinh doanh thì phải hạch toán kinh doanh lâýy thu bù chi và đảm bảo có lãi.
Nếu dựa vào quy mô và hình thức cảu doanh nghiệp thì có DNNN độc lập,
doanh nghiệp thành viên và Tổng Công ty Nhà nước. DNNN độc lập là doanh
nghiệp không ở trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp thành
viên là doanh nghiệp nằm trong cơ cấu tổ chức cảu doanh nghiệp lớn hơn. Tổng
Công ty Nhà nước có quy mô lớn bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn
bó với nhau vì mục đích kinh tế, tài chính, công nghệ thông tin, đào tạo nghiên cứu
tiếp thị hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật do Nhà
nước thành lập nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công, chuyên môn hoá và
hợp tác hoá để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả
kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn Tổng Công ty, đáp ứng nhu cầu của
toàn ngành kinh tế.
Nếu dựa vào cơ cấu quản lý nội bộ doanh nghiệp thì DNNN được phân chia
thành DNNN có Hội đồng quản trị DNNN không có hội đồng quản trị. DNNN có
hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý hoạt động của doanh nghiệp chịu
trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan quản lý Nhà nước được Chính phủ uỷ
quyền về sự phát triển của doanh nghiệp. DNNN không có hội đồng quản trị là
DNNN mà ở đó chỉ có giám đốc quản lý hoạt động của doanh nghiệp theo chế độ
một thủ trưởng.
Việc phân loại DNNN theo các tiêu thức khác nhau có ý nghĩa rất quan trọng
đối với hoạt động tín dụng cuả ngân hàng bởi lẽ đối với các loại hình DNNN khác
nhau ngân hàng sẽ có các yêu cầu khác nhau về thủ tục pháp lý cũng như kinh tế
khi xét duyệt một dự án xin vay. Từ đó ngân sách xác định hình thức cho vay, lãi
xuất, thời hạn cho vay cũng như các yêu cầu về đảm bảo một cách hợp lý nhất đảm

bảo hiệu quả cao cho món vay về phía ngân hàng và doanh nghiệp.
3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
DNNN là đơn vị kinh doanh thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Kinh tế
quốc doanh thực ra không phải là thành phần riêng có của chủ nghĩa xã hội. Ở hầu
hết các nước trên thế giới hiện nay đều có kinh tế quốc doanh. Khu vực này ở các
nước cố tỷ trọng khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước.
Ở nước ta sự hình thành thành phần kinh tế này do chính sách quốc hữu hoá
và được ưu tiên phát triển trong 40 năm qua ở miền Bắc và 20 năm trong cả nước.
Trong thời gian qua DNNN có mặt ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh
tế và giữ vai trò quan trọng thể hiện cụ thể ở những mặt sau:
Thứ nhất, DNNN chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, nắm giữ
những ngành then chốt, có những ngành độc quyền. Hiện nay chúng ta đang xây
dựng và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có
điêù tiết của Nhà nước, các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển,
bình đẳng với nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trước pháp luật. Sự
bình đẳng này không có nghĩa là chúng có vị trí như nhau trong nền kinh tế. Trong
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phạm vi hoạt động của kinh tế quốc doanh
sẽ thu hẹp nhưng nó vẫn giữ vai trò chủ đạo bởi nó vẫn sẽ được tồn tại và phát
triển ở những ngành, những lĩnh vực then chốn của nền kinh tế. Các DNNN giúp
nhà nước đủ sức thực hiện chức năng điều tiến vĩ mô, can thiệp vào thị trường,
khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. DNNN chính là công cụ vật
chất của nhà nước để can thiệp vào nên kinh tế.
Thứ hai, DNNN bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường mục tiêu cảu các doanh nghiệp là lợi nhuận,
chính vì vậy cõn ngành, những lĩnh vực kinh doanh mang lại ít lợi nhuận hoặc
không có lợi nhuận thì các thành phân kinh tế khác không đầu tư vào. Lúc này
DNNN với tư cách là công cụ của nhà nước sẽ đầu tư tham gia vào các ngành này
để đảm bảo nhu caàu của nền kinh tế, bảo đảm lợi ích công cộng.
DNNN còn góp phần đảm bảo hiệu quả xã hội thông qua việc hướng dẫn các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà

nước. DNNN luôn là người đi đầu trong lĩnh vực này là tấm gương để các doanh
nghiệp khác noi theo.
Thứ ba, DNNN là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, là đòn bẩy kinh tế
để thông qua đó thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội như đảm bảo công bằng
xã hội, giải quyết công ăn việc làm và tăng trưởng. DNNN với vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế sẽ góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi để hoà
nhập với khu vực và thế giới, từng bước công nghiệp hoá, hiệnn đại hoá đất nước,
rút ngắn khoảng cách so với các nước. DNNN với đội ngũ cán bộ công nhân được
đào tạo rèn luyện thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ
đảm bảo cho nền kinh tế Việt Nam không bị chệch hướng mà đi đúng theo con
đường xã hội chủ nghĩa đã chọn.
DNNN cũng tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi vốn lớn mà các
thành phần kinh tế khác không đủ sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
Chính vì những lý do trên mà đánh giá của DNNN không thể chỉ dựa vào lỗ lãi
trước mắt mà phải tính đến hiệu quả kinh tế lâu dài.
II. Tín dụng nâng hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNN.
1. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Tín dụng với đặc trưng cơ bản của nó tồn tại và phát triển trong nền kinh tế
là một tất yếu khách quan. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì các quan hệ tín
dụng ngày càng được mở rộng. Bên cạnh việc mở rộng các quan hệ tín dụng
thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước. Tuy nhiên với những ưu việt
của mình phục vụ cho sự phát triển sản xuất kinh doanh thì tín dụng ngân hàng
đóng vai trò quan trọng hơn cả.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các doanh nghiệm và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng đóng
vai trò tổ chức trung gian. Vì vậy trong quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và
cá nhân, ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Đối với cho vay
trong tín dụng ngân hàng là tiền tệ. Vì vậy tín dụng ngân hàng ra đời đã khác phục
được những hạn chế của tín dụng thương mại về qui mô, thời gian và phương
hướng vận động. Nền kinh tế càng phát triển thì khối lượng tín dụng ngân hàng

được thực hiện càng lớn và chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng số khối lượng tín
dụng thực hiện trong nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là do tín dụng ngân hàng đóng một
vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường đối voới lĩnh vực sản xuất, lưu
thông hàng hoá cũng như lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
1.1. Tín dụng ngân hàng đáp ứng đủ nhu cầu vốn để duy trì quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh được liên tục và ngày càng mở rộng.
Sự thiếu vốn là quá trình xảy ra thường xuyên ở các doanh nghiệp. Chính
trong quá trình tập trung và phân phối vốn, tín dụng ngân hàng đã biến các bộ phận
vốn lẻ tẻ nằm trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như bộ phận tiền để dành
trong dân thành nguồn vốn để cho vay, đã góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bù đắp được nhu cầu thiếu vốn tạm thời, giúp
cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục.

×