Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Hoàn thiện quy chế pháp lý cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.52 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

268


Hoàn thiện quy chế pháp lý cho tổ chức,



cá nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng tại Việt Nam



Nguyễn Thanh Huyền

**
<i>Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, </i>


<i> 144 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam </i>
Nhận ngày 26 tháng 10 năm 2011


<b>Tóm tắt. Cho tổ chức, cá nhân nước ngồi th rừng, đất rừng tại Việt Nam là một chủ trương đúng </b>
đắn của Đảng và Nhà nước. Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 2004 và Luật Đất đai năm 2003, sửa
đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định khá cụ thể về loại rừng và loại đất trồng rừng được phép cho các tổ
chức, cá nhân nước ngoài thuê. Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc lớn nhất ở đây lại là thủ tục cho thuê và
quy trình thẩm định việc cho thuê chưa cụ thể và rõ ràng. Nghiên cứu này chỉ ra các khiếm khuyết về
mặt pháp lý đối với vấn đề cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê rừng và đất rừng tại Việt Nam. Trên
<b>cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật. </b>


<b>1. Đặt vấn đề*</b>


Một trong những vấn đề “nóng” trên nghị
trường Quốc hội và trên nhiều diễn đàn trong
thời gian qua là vấn đề cho tổ chức, cá nhân
nước ngoài thuê rừng, đất trồng rừng. Có rất
nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này. Mặc dù
vậy, chúng ta cần phải khẳng định thu hút đầu
tư nước ngoài vào trồng rừng là một chính sách
đúng đắn, góp phần phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, tạo thêm việc làm cho người lao động, góp


phần bảo vệ mơi trường. Đây được xem là điểm
mới trong Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm
2004 so với Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng
năm 1991 [1]. Tuy nhiên, khi thực hiện chính
sách này trong thực tế lại gặp phải khơng ít khó
khăn do chúng ta chưa có những hướng dẫn chi
tiết và cụ thể, đồng thời thiếu sự phối hợp, thẩm
định chuyên ngành của nhiều cơ quan có thẩm
quyền. Vì vậy, nghiên cứu các quy định pháp


______


*


ĐT: 84-902050533.


E-mail:


luật về cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê
rừng, đất trồng rừng, chỉ ra những khiếm
khuyết về mặt pháp lý, trên cơ sở đó đề xuất
các khuyến nghị hoàn thiện quy chế pháp lý đối
với việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê
rừng và đất trồng rừng là vấn mang tính lý luận
<b>và thực tiễn sâu sắc. </b>


<b>2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận </b>


<i>2.1. Khái quát về tình hình cho tổ chức, cá nhân </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Theo Bộ Nông nghiệp - Phát triển Nông


thôn, từ báo cáo của các địa phương, đến tháng
12-2009, đã có 11 doanh nghiệp nước ngoài vào
Việt Nam để khảo sát và đầu tư trồng rừng ở 10
tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Kon
Tum, Khánh Hồ và Bình Dương. Lạng Sơn là
tỉnh có nhiều doanh nghiệp của Trung Quốc
vào khảo sát nhất (3 doanh nghiệp). Trong đó,
có 8 doanh nghiệp đã khảo sát và được Ủy ban
nhân dân các tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư,
gồm hai doanh nghiệp của Trung Quốc, hai
doanh nghiệp của Hàn Quốc, hai doanh nghiệp
của Đài Loan và 1 doanh nghiệp của Nhật Bản
[2].


Ủy ban nhân dân 10 tỉnh đã cấp giấy chứng
nhận cho nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trên
diện tích 305.353,4 ha. Trong đó, riêng Cơng ty
trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên InnovGreen
đã chiếm tới 87% diện tích (264.848 ha) tại 5
tỉnh (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ
An, Quảng Nam và Kon Tum) [2].


Tuy nhiên, hiện các tỉnh mới ra quyết định
cho phép khai thác 22,824,45 ha (bằng 11%
diện tích rừng được cấp giấy chứng nhận).
Trong đó, chỉ có 15.664,45 ha được phép cho
nước ngoài thuê 50 năm. Lạng Sơn cho thuê
485,7 ha; Quảng Ninh cho thuê 3.378,5 ha.
Hiện có thêm 3 doanh nghiệp của Nhật Bản,


Thụy Điển, Phần Lan đang khảo sát để lập dự
án [2].


Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trồng
rừng ở Việt Nam theo nhiều hình thức khác
nhau, như cho thuê đất trồng rừng; chỉ liên
doanh liên kết trồng rừng hoặc kết hợp cả hai.
Diện tích đã cho thuê là 15.664 ha (5,2%) và
diện tích cấp phép liên doanh, liên kết giữa các
nhà đầu tư với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
trong nước là 18.160 ha (bằng 5,7%) [2].


Từ những số liệu trên đây cho thấy, lĩnh
vực đầu tư vào trồng rừng đã được các nhà đầu
tư nước ngoài quan tâm và là một ngành kinh
doanh có tiềm năng phát triển mặc dù thời gian
thu hồi vốn chậm.


<i>2.2. Những quy định pháp luật cụ thể cho tổ </i>


<i>chức, cá nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng </i>


<i>tại Việt Nam </i>


2.2.1. Quy định về loại rừng và đất rừng
cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê


Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 2004
quy định tại khoản 4 Điều 25“Nhà nước cho
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức,


cá nhân nước ngoài thuê rừng sản xuất là rừng
trồng trả tiền một lần cho cả thời gian thuê hoặc
trả tiền hàng năm để thực hiện dự án đầu tư về
lâm nghiệp theo quy định của pháp luật về đầu
tư, kết hợp sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp -
ngư nghiệp, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng,
du lịch sinh thái - môi trường”. Như vậy, Luật
này đã xác định rõ, tổ chức, cá nhân nước ngoài
chỉ được phép thuê loại rừng sản xuất là rừng
trồng mà thôi, chứ không cho thuê các loại loại
rừng như các chủ thể trong nước. Trong trường
hợp đặc biệt, nếu tổ chức, cá nhân nước ngoài
thuê rừng tự nhiên để kết hợp kinh doanh cảnh
quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi trường
hoặc sản xuất kinh doanh lâm sản do Thủ tướng
Chính phủ quy định. (khoản 4 Điều 25 Luật
Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 2004 và khoản
3 Điều 21 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP).


Luật đất đai năm 2003, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 quy định tại khoản 1 Điều 75 “… Đất
rừng sản xuất được Nhà nước cho thuê thu tiền
thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc thu
tiền thuê đất hàng năm đối với tổ chức, cá nhân
nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư sản xuất
lâm nghiệp” và tại khoản 3 điều này quy định
“...tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất rừng
sản xuất được kết hợp kinh doanh cảnh quan, du
lịch sinh thái - môi trường dưới tán rừng” [3].



Như vậy, theo quy định của Luật Bảo vệ và
Phát triển Rừng năm 2004 và Luật đất đai năm
2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tổ chức, cá
<i><b>nhân nước ngoài được phép thuê rừng sản xuất </b></i>


<i><b>là rừng trồng và đất rừng sản xuất tại Việt Nam </b></i>


<b>[3,4]. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc
cho thuê đất rừng sản xuất cho các chủ thể là tổ
chức, cá nhân nước ngoài khi thực hiện các dự
<i>án đầu tư vào lĩnh vực lâm nghiệp. Trình tự, thủ </i>


<i>tục cho thuê đất rừng sản xuất đối với tổ chức, </i>


<i>cá nhân nước ngoài khi thực hiện dự án đầu tư </i>


<i>vào lĩnh vực lâm nghiệp. Quy định tại Điều 122 </i>


[3] và Điều 125 [5].


<i>jlll </i>


<b>bjk </b>



<b>Bước 1: Tổ chức, cá nhân nước ngồi có </b>


nhu cầu thuê đất liên hệ với cơ quan được Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh giao nhiệm vụ thỏa thuận


địa điểm hoặc Tổ chức phát triển quỹ đất nơi có
đất để được giới thiệu địa điểm sử dụng đất.


<b>Bước 2: Sau khi có văn bản thỏa thuận địa </b>


điểm hoặc văn bản cho phép đầu tư của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trên địa điểm đã được
xác định, Tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất
nộp hai bộ hồ sơ tại Sở Tài nguyên và Mơi
trường nơi có đất. Hồ sơ gồm có:


Cơ quan có thẩm quyền hoặc
Tổ chức phát triển quỹ đất
<b>Tổ chức, </b>


<b>Cá nhân nước ngoài </b>


Sở Tài nguyên
và Môi trường


Ủy ban nhân
dân cấp Tỉnh


Văn phòng đăng ký


quyền sử dụng đất Cơ quan thuế


- Đơn xin thuê đất


- Văn bản thoả thuận địa điểm



- Hoặc văn bản cho phép đầu tư của cơ quan nhà
nước


- Quyết định dự án đầu tư hoặc Bản sao GPĐT
- Văn bản xác nhận của Sở TN&MT


HS gồm


Liên hệ




(1)


(2) Nộp


Chỉ đạo
(3)


Nộp


(4)


(5)
(6)


- QĐ giao đất cho thuê đất
- Cấp GCNQSDĐ
- Ký Hợp đồng thuê đất



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Đơn xin thuê đất


- Văn bản thoả thuận địa điểm


- Hoặc văn bản cho phép đầu tư của cơ
quan nhà nước


- Quyết định dự án đầu tư hoặc Bản sao
Giấy phép đầu tư


- Văn bản xác nhận của Sở Tài nguyên và
Môi trường


<b>Bước 3: Sở Tài nguyên và Mơi trường có </b>


trách nhiệm thẩm tra và chỉ đạo Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất làm trích lục bản đồ
địa chính hoặc đo địa chính khu đất đối với
những nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao
hồ sơ địa chính.


<b>Bước 4: Văn phịng đăng ký quyền sử dụng </b>


đất có trách nhiệm gửi số liệu địa chính cho cơ
quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính.


<b>Bước 5: Sở Tài nguyên và Môi trường có </b>


trách nhiệm thẩm tra hồ sơ địa chính; xác minh


trên thực địa.


<b>Bước 6: Sở Tài ngun và Mơi trường trình </b>


Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định ký hợp
đồng cho thuê đất; chỉ đạo Phòng Tài nguyên
và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
đất tổ chức bàn giao đất trên thực địa.


Trong quy trình cho thuê đất nêu trên,
chúng ta có thể thấy, việc cho thuê đất được
quy định khá chặt chẽ. Tuy nhiên, thủ tục còn
khá phiền hà ở Bước 3, Bước 4, Bước 5 - sau
khi Văn phịng đăng ký quyền sử dụng đất làm
trích lục bản đồ địa chính hoặc đo địa chính khu
đất đối với những nơi chưa có bản đồ địa chính,
trích sao hồ sơ địa chính thì Sở Tài nguyên và
Môi trường lại tiến hành thẩm tra hồ sơ địa
chính; xác minh trên thực địa. Đây là thủ tục
khá phiền hà và không hiệu quả, chúng ta có thể
nâng cao tính chịu trách nhiệm của Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất mà không cần Sở
Tài nguyên và Môi trường thẩm tra lại hồ sơ địa
chính và xác minh trên thực địa.


Bên cạnh đó, quy trình này chưa thể hiện
được trách nhiệm thẩm định của các cơ quan
chức năng khác đối với việc xác định đất rừng
nào thuộc lĩnh vực an ninh quốc phòng và đối



với những dự án cho thuê đất do Thủ tướng
Chính phủ quyết định.


2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ
chức, cá nhân nước ngoài


Chủ rừng là tổ chức, cá nhân nước ngoài
thuê rừng sản xuất là rừng trồng thì được khai
thác sử dụng rừng nhưng phải đảm bảo duy trì
diện tích, phát triển trữ lượng, chất lượng của
rừng và tuân theo quy chế quản lý rừng, phần
diện tích rừng do chủ rừng tự bỏ vốn gây trồng
thì được tự quyết định việc khai thác rừng và
các sản phẩm được tự do lưu thông trừ những
loài quý hiếm khi khai thác phải theo quy định
của Chính phủ.


Về các quyền tài sản của chủ rừng nước
ngoài được quy định như sau:


- Nếu chủ rừng trả tiền thuê đất trồng rừng
cho cả thời gian thuê thì được chuyển nhượng,
tặng cho, cho thuê lại quyền sử dụng và tài sản
gắn liền với đất thuê; thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc sở hữu
của mình gắn liền với đất tại các tổ chức tín
dụng được phép hoạt động tại Việt Nam trong
thời hạn thuê đất. Chủ rừng được chuyển
nhượng, tặng cho, cho thuê lại, rừng sản xuất là
rừng trồng, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng


đất và giá trị rừng sản xuất là rừng trồng với các
tổ chức, cá nhân khác để phát triển sản xuất
kinh doanh. Cá nhân được để lại thừa kế rừng
sản xuất là rừng trồng theo quy định của pháp
luật. (Xem thêm Điều 119 [3]).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>2.3. Đề xuất các khuyến nghị hoàn thiện quy </i>


<i>chế pháp lý về cho thuê rừng, đất rừng đối với </i>


<i>tổ chức, cá nhân nước ngồi </i>


Khuyến khích đầu tư nước ngồi vào trồng
rừng và phát triển kinh tế rừng là một chủ
trương đúng đắn. Tuy nhiên, thực hiện những
dự án đầu tư này không chỉ liên quan đến pháp
luật về đầu tư mà nó cịn liên quan đến nhiều
lĩnh vực như: An ninh quốc phòng, quy hoạch
đất đai, quy hoạch lâm nghiệp... Trong khi đó,
Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 2004, Luật
Đất đai năm 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009
mới chỉ quy định mang tính chất khung như:
Xác định loại rừng, loại đất rừng được thuê,
trình tự thủ tục thuê cũng như xác định quyền
tài sản của chủ rừng này theo quy định của Bộ
Luật Dân sự năm 2005 mà chưa có những
hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Vì vậy, trong thời
gian vừa qua, khi thực hiện việc thu hút đầu tư
nước ngoài vào trồng rừng đã bộc lộ một số
khiếm khuyết như việc thẩm định dự án trước


khi cho thuê chưa có sự kết hợp của các cơ
quan chức năng liên quan. Ví dụ, thẩm định về
dự án đầu tư thuộc cơ quan quản lý đầu tư; thẩm
định về diện tích đất thuộc thẩm quyền của cơ
quan tài nguyên và môi trường; thẩm định về an
ninh quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng; thẩm
định về diện tích đất có rừng trồng thuộc Bộ Nơng
nghiệp và Phát triển Nông thôn…


Để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, khuyến khích áp dụng khoa học công
nghệ tiên tiến vào phát triển kinh tế rừng, cũng
như tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu tư, các
cơ quan quản lý nhà nước, trong thời gian tới
những quy định pháp luật về cho tổ chức, cá
nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng cần hoàn
thiện theo các hướng sau đây:


Thứ nhất: Cần lập danh mục xác định rõ vị
trí, diện tích rừng, đất rừng sản xuất mà chủ
rừng nước ngoài được thuê.


Để lập danh mục xác định rõ vị trí, diện tích
rừng, đất rừng sản xuất mà chủ rừng nước ngoài
được thuê có liên quan mật thiết đến vấn đề
thống nhất giữa quy hoạch bảo vệ phát triển
rừng với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế


hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh. Vấn đề này đã được quy định tại khoản


1 Điều 13 Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm
2004 [3]. Tuy nhiên, chúng ta chưa có một văn
bản hướng dẫn cụ thể nào. Vì vậy, Chính phủ
cần giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan chức
năng ở cả trung ương và địa phương xác định diện
tích đất trồng rừng sản xuất nào nằm vào vùng
trọng yếu về an ninh quốc phịng thì quy định chỉ
giao, cho thuê cho các tổ chức, cá nhân trong
nước. Những diện tích đất trồng rừng nào được
phép cho nước ngoài thuê. Việc xác định này cần
được ghi rõ trên bản đồ và trên thực địa.


Thứ hai: Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục
cho thuê và xác định rõ thẩm quyền của trung
ương và của địa phương trong việc cho tổ chức,
cá nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng.


Cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về
trình tự, thủ tục giao, cho thuê rừng, đất rừng
nói chung cho các chủ rừng vì trong thực tế
giao, cho thuê đất rừng thuộc quyền quản lý,
thẩm định của cơ quan tài nguyên môi trường;
giao rừng, cho thuê rừng thuộc quyền quản lý,
thẩm định của cơ quan nông nghiệp và phát
triển nông thôn. Khi giao, cho thuê rừng, đất
rừng trên thực tế cần được thực hiện đồng bộ.


Quy định thật cụ thể những diện tích rừng,
đất rừng nào khi cho thuê thuộc thẩm quyền của
UBND cấp tỉnh, những diện tích rừng, đất rừng


nào thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính
phủ và thủ tục thực hiện như thế nào. Vì hiện
nay, chúng ta mới quy định trong Luật Bảo vệ
và Phát triển Rừng năm 2004 và Luật đất đai
năm 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009 thủ tục
giao, cho thuê rừng thuộc thẩm quyền của Ủy
ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh mà chưa quy định trình tự, thủ tục đối
với những diện tích thuộc quyền quyết định của
Thủ tướng Chính phủ do Bộ Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn đề nghị và Bộ Tài nguyên
và Môi trường đề nghị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Ngay tại khoản 3 Điều 8 Luật Bảo vệ và
Phát triển Rừng năm 2004 và Điều 7 Nghị định
số 23/2006/NĐ-CP có quy định Bộ Tài ngun
và Mơi trường, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng và
các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối
hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ và
phát triển rừng [4,6]. Tuy nhiên, trong thời gian
vừa qua, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chưa xây dựng được cơ chế phối hợp cụ thể
trong việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê
rừng, đất rừng. Vấn đề này cần được quy định
cụ thể trong một thông tư liên bộ hoặc một nghị
định của Chính phủ chỉ rõ trách nhiệm của các
cơ quan cụ thể là gì. Ví dụ: Khi thẩm định việc
cho thuê đất rừng sản xuất mà trên đó có rừng


trồng thì Bộ Tài nguyên và Môi trường phải
phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn để cùng thực hiện đồng bộ, xác định
giá trị quyền sử dụng đất, định giá tài nguyên
rừng…Đối với những diện tích rừng, đất rừng
sản xuất thuộc vị trí liên quan đến an ninh quốc
phịng cần có sự thẩm tra của Bộ Quốc
phòng…; liên quan đến di tích lịch sử cần sự
thẩm tra của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du
lịch….


Thứ tư: Quy định cụ thể về quyền và nghĩa
vụ đối với chủ rừng nước ngoài.


Hiện nay, quy định về các quyền tài sản
cũng như các nghĩa vụ của chủ rừng là tổ chức,
cá nhân nước ngoài chủ yếu căn cứ vào phương
thức trả tiền thuê đất, thuê rừng. Nếu chủ rừng
này trả tiền thuê đất, thuê rừng cho cả thời gian
thuê thì các quyền tài sản của họ khơng khác gì
so với các hộ gia đình, cá nhân được nhà nước
giao đất rừng sản xuất. Nếu so sánh với các tổ
chức kinh tế, cá nhân trong nước được nhà
nước cho thuê rừng và đất rừng sản xuất thì chủ
rừng nước ngồi có phần được ưu đãi hơn nhiều
vì tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước khi thuê
rừng sản xuất, đất rừng sản xuất không được
phép trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
th. Vì vậy, họ khơng có các quyền tài sản đối
với đất được thuê như quyền chuyển nhượng,


cho thuê lại, thế chấp, góp vốn…


Đây là vấn đề chúng ta cần quy định cụ thể
không nên có sự phân biệt giữa các nhà đầu tư
trong nước như nhà đầu tư nước ngồi về hình
thức trả tiền thuê đất, thuê rừng sản xuất nhằm
mục đích tạo ra sự cơng bằng, cũng như lợi thế
cạnh tranh trên thương trường cho các doanh
nghiệp. Theo quy định của Luật đất đai năm
2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Luật Bảo vệ
và Phát triển Rừng năm 2004 thì các quyền tài
sản của các chủ rừng phụ thuộc vào hình thức
trả tiền thuê đất, thuê rừng hàng năm hay một
lần cho cả thời gian thuê.


Về quyền được khai thác đối với rừng sản
xuất là rừng trồng do nhà đầu tư nước ngoài bỏ
vốn đầu tư, hiện nay Luật Bảo vệ và Phát triển
Rừng năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi
hành cho phép nhà đầu tư toàn quyền khai thác.
Chủ rừng tự bỏ vốn gây trồng, chăm sóc, ni
dưỡng thì được quyền tự quyết định việc khai
thác rừng trồng, nếu khai cây rừng trồng là cây
gỗ quý, hiếm thì khi khai thác phải thực hiện
theo quy định của Chính phủ [khoản 2 Điều 57
Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 2004].
Đây được xem như là quy định q rộng mở và
thơng thống. Chúng ta cần quy định cụ thể về
diện tích khai thác, thời gian khai thác tránh
tình trạng diện tích rừng bị khai thác trắng gây


ra nguy cơ xói mịn đất, hoang hóa…


<b>Tài liệu tham khảo </b>


[1] Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 1991.


[2] Lâm Nguyên, “Cho thuê đất rừng tràn lan” Thứ
năm, 10/06/2010, 15:38 (GMT+7) www.
sggp.org.vn


[3] Luật đất đai năm 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
[4] Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 2004.


[5] Nghị định số 88/2009/NĐ-CP Ngày 19 tháng 10 năm
2009 Về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
[6] Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm


2006 - Hướng dẫn Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng
năm 2004.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>



To improve regulations on hiring forest and forest land


of foreigners in Vietnam



Nguyen Thanh Huyen



<i>VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam</i>



</div>

<!--links-->

×