Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận môn triết học cao học quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, ý nghĩa quy luật trong sự phát triển kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.3 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: KHÁI NIỆM, QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

02
05

1.1.

Khái niệm về lực lượng sản xuất

05

1.2.

Khái niệm về quan hệ sản xuất

09

1.3.

Phương thức sản xuất

13

1.4.

Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất



14

Chương 2: Ý NGHĨA QUY LUẬT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

18

2.1.

Sự vận dụng quy luật vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam

18

2.2.

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá
trình cơng nghiệp hố - Hiện đại hóa nước ta hiện nay

22

2.3.

Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội cơ sở lý luận của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa trong giai đoạn
hiện nay

25


KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ

28

1


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

02

Chương 1: KHÁI NIỆM, QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

05

1.1.

Khái niệm về lực lượng sản xuất

05

1.2.

Khái niệm về quan hệ sản xuất


09

1.3.

Phương thức sản xuất

13

1.4.

Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất

14

Chương 2: Ý NGHĨA QUY LUẬT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

18

2.1.

Sự vận dụng quy luật vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam

18

2.2.

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất

và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá
trình cơng nghiệp hố - Hiện đại hóa nước ta hiện nay

22

2.3.

Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội cơ sở lý luận của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa trong giai đoạn
hiện nay

25

KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ

28

MỞ ĐẦU
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

2


1. Tính cấp thiết của tiểu luận
Xã hội lồi người đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là: Nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa.
Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà theo thời gian
tư duy của con người càng phát triển càng hồn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự
thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như cơ sở sản xuất. Từ khi sản
xuất chủ yếu bằng hái lượm săn bắt, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu thì

ngày nay trình độ khoa học đạt tới mức tột đỉnh. Khơng ít các nhà khoa học,
các nhà nghiên cứu đổ sức bỏ công cho các vấn đề này cụ thể là nhận thức
con người, trong đó có trường phái triết học. Với ba trường phái trong lịch sử
phát triển của mình chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và trường phái nhị
nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học đó là sự
thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất như
thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất xã hội. Tác
động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được
mác và Ănghen khái quát thành qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất. Từ những lý luận trên đưa Mác - Ănghen vươn lên
đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Không chỉ trên phương diện triết học mà cả
chính trị kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dưới những hình thức
và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức và mức độ khác nhau, dù con
người có ý thức được hay khơng thì nhận thức của hai ông về qui luật vẫn
xuyên suốt lịch sử phát triển.
Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa từ một nước nơng nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất
xã hội chủ nghĩa là một q trình lâu dài và đầy khó khăn, phức tạp. Kinh
nghiệm thực tế chỉ rõ, lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong trường
hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

3


đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Tình hình thực tế của nước ta địi hỏi phải coi trọng những hình thức
kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để

xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương xây
dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh
tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn tiểu luận "Quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, ý nghĩa
quy luật trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
lực lượng sản xuất, ý nghĩa quy luật trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất, ý nghĩa quy luật trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, .
5. Phạm vi nghiên cứu
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, ý
nghĩa quy luật trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

4


Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề tài sử dụng các phương pháp: hệ thống - cấu trúc, phân tích, tổng hợp.
7. Đóng góp của tiểu luận
- Góp phần nâng cao nhận thức về Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với

trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
8. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và phụ lục, tiểu luận thành
02 chương:
Chương 1: Khái niệm, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất.
Chương 2: Ý nghĩa quy luật trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

5


Chương 1
KHÁI NIỆM, QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.1. Khái niệm về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất (LLSX) là mối quan hệ của con người với tự nhiên
hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở
trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của
con người tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của loài người.
Trong cấu thành của lực lượng sản xuất, có thể có một vài ý kiến nào đó
khác nhau về một số yếu tố khác của lực lượng sản xuất, song suy cho cùng thì
chúng đều vật chất hoá thành hai phần chủ yếu là tư liệu sản xuất và lực lượng
con người. Trong đó tư liệu sản xuất đóng vai trị là khách thể, cịn con người là
chủ thể.
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động
và tư liệu lao động. Thơng thường trong q trình sản xuất phương tiện lao động

còn được gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong bất kỳ một nền sản xuất
nào công cụ sản xuất bao giờ cũng đóng vai trị là then chốt và là chỉ tiêu quan
trọng nhất. Hiện nay công cụ sản xuất của con người khơng ngừng được cải
thiện và dẫn đến hồn thiện, nhờ thành tựu của khoa học kỹ thuật đã tạo ra cơng
cụ lao động cơng nghiệp máy móc hiện đại thay thế dần lao động của con người.
Do đó cơng cụ lao động luôn là độc nhất, cách mạng nhất của LLSX.
Bất kỳ một thời đại lịch sử nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là sản
phẩm tổng hợp, đa dạng của toàn bộ những phức hợp kỹ thuật được hình thành
và gắn liền với quá trình sản xuất và phát triển của nền kinh tế. Nó là sự kết hợp
của nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất và trực tiếp nhất là trí tuệ con người
được nhân lên trên cơ sở kế thừa nền văn minh vật chất trước đó.

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

6


Nước ta là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, có nhiều nơi mà con
người chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ vào tiến bộ của khoa học kĩ thuật và
q trình cơng nghệ tiên tiến, con người có thể tạo ra được sản phẩm mới có ý
nghĩa quyết định tới chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân loại.
Chính việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn
hút mọi hoạt động cuả con người.
Tư liệu lao động dù có tinh sảo và hiện đại đến đâu nhưng tách khỏi con
người thì nó cũng khơng phát huy tác dụng của chính bản thân. Chính vậy mà
Lê-nin đã viết: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân, là người lao động”. Người lao động với những khinh nghiệm, thói quen
lao động, sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất với
tư cách là khách thể của LLSX, và nó chỉ phát huy tác dụng khi nó được kết hợp
với lao động sống của con người. Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “Sự

nghiệp phát triển kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, vị trí trung tâm thống
nhất tăng trưởng kinh tế với cơng bằng khoa học và tiến bộ xã hội.”
Người lao động với tư cách là một bộ phận của LLSX xã hội phải là
người có thể lực, có tri thức văn hố, có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có
kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề
nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa chú trọng đúng
mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát huy mọi
sức mạnh của nhân tố con người. Đành rằng năng lực và kinh nghiệm SX của
con người cịn phụ thuộc vào những TLSX hiện có mà họ đang sử dụng. Nhưng
tích cực sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển của LLSX một
cách đúng hướng. Xác định con đường đi lên của CNXH không qua giai đoạn
phát triển của CNTB, trong đó có vấn đề phát triển LLSX như thế nào là nhiệm
vụ quan trọng mang tính cấp bách ở nước ta. Nó khơng những ảnh hưởng đến

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

7


việc định hướng sự phát triển LLSX mà còn tác động trực tiếp đến tốc độ tăng
trưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội nước nhà.
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng đều có quy luật vận động và phát triển
của nó. Đối với LLSX cũng vậy, nó cũng tuân thủ sự vận động và phát triển
bằng biện chứng giữa tuần tự và nhảy vọt. Tuần tự trong LLSX được hiểu là một
quá trình biến đổi dần dần về số lượng của nó. Nhảy vọt trong LLSX là một quá
trùnh biến đổi sâu sắc căn bản về chất lượng của nó, là q trình biến đổi từ chất
cũ sang chất mới.
Mặc dù giữa hình thức phát triển nhảy vọt và tuần tự có sự khác nhau cơ
bản song chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hình thức phát triển này

làm tiền đề cho hình thức phát triển kia như là mối quan hệ nhân quả, chúng là
các giai đoạn phát triển của một quá trình thống nhất.
Giai đoạn phát triển tuần tự về mặt lượng, tự nó khơng làm thay đổi chất
lượng của LLSX mà chỉ tạo nên sự thay đổi những thuộc tính về lượng, chỉ là
bước chuẩn bị tiền đề để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, cao hơn,
mạnh hơn về chất. Sự phát triển có tính cách mạng của LLSX là bước nhảy vọt
căn bản tạo nên một chất lượng hoàn toàn mới trong kết cấu cấu trúc cũng như
trong mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành LLSX. Sự phát triển trong LLSX
có đặc tính làm thay đổi căn bản những tư liệu lao động, quy trình cơng nghệ cơ
sở khoa học của SX, yếu tố chủ quan trong LLSX.
Hành trang của chúng ta để đi lên CNXH là q thấp và lạc hậu, khơng
tập chung. Chỉ cần nhìn lại tình hình SX nơng nghiệp: cho đến năm 80 nông
nghiệp chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của nền SX nhỏ, nó chỉ mới đang ở ngưỡng
cửa của SX hàng hố. Hiện nay nơng nghiệp nước ta chiếm 70 % lực lượng lao
động XH, sức kéo trâu bò mới chỉ đảm bảo được 47% diện tích canh tác, sức
kéo bằng máy đảm bảo 37%, cịn lại 16% diện tích chưa có sức kéo phải dùng
sức người để thay thế.

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

8


Về trình độ văn hố và trình độ kỹ thuật của người lao động ở nước ta vẫn
đang còn thấp, năng lực quản lý còn kém, tỷ lệ cán bộ ở trình độ đại học đạt
3,7%. Có rất nhiều ngun nhân dẫn đến sự lạc hậu đó trong LLSX của nước ta
hiện nay: Một đất nước vừa thoát ra khỏi chế độ phong kiến nửa thuộc địa, lại bị
kìm hãm bởi 30 năm chiến tranh.
Trong một thời gian dài dường như chúng ta đã nhầm tưởng rằng cứ có
QHSX XHCN là có CNXH mà như quên đi rằng QHSX phải dựa trên cơ sở

LLSX hiện có chúng ta đã nóng vội, duy ý chí trong việc xác điịnh bước đi,
cũng như việc chọn lựa các hình thức tổ chức kinh tế. Chúng ta gần như đồng
nhất QHSX với quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất (TLSX), đã tuyệt đối hoá thành
phần kinh tế quốc doanh.
Trong LLSX chúng ta chỉ chú ý đến TLSX, gia tăng TLSX một cách
thuần tuý mà thiếu sự cân xứng cần thiết ở yếu tố con người cả về trình độ lẫn
thái độ lao động của con người. Bản thân con người là yếu tố chủ thể quan trọng
nhất trong sản xuất, song đặt trong cơ chế quản lý tập chung quan liêu bao cấp
nên con người đã trở thành thực thể thụ động, năng lực sáng tạo bị ức chế và
mất đi một cách tự nhiên. Tất cả những sai lầm đó đã tạo nên sự ngã gục trong
tiến trình phát triển của LLSX.Trong hồn cảnh hiện nay LLSX truyền thống
cịn là nguồn bổ sung quan trọng đối với giai đoạn chuyển tiếp của LLSX. Đi lên
sản xuất XHCN đòi hỏi tất yếu phải thực hiện: hiện đại hoá LLSX, kết hợp các
yếu tố truyền thống và hiện đại để tạo nên một sự phát triển ổn định, bình
thường của LLSX.
Trong thời đại ngày nay không thể đẩy nhanh hay rút ngắn thời hạn
phát triển tự nhiên của LLSX, thực hiện những bước nhảy vọt về chất, nếu
khơng có sự kết hợp trong nước với nước ngoài. Những tiến bộ to lớn của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay trên thế giới, cũng như tính quốc tế hố
ngày càng tăng của LLSX đã tác động mạnh mẽ đến nhiều quốc gia. Từ đó
chúng ta có thể tạo nên sự kết hợp những tiến bộ về LLSX vốn có trong nước để
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

9


đẩy nhanh và rút ngắn thời hạn của lịch sử tự nhiên, vươn lên kịp trình độ của
thế giới và trên cơ sở đó chúng ta có thể xây dựng một nền sản xuất hiên đại, mở
cửa hợp tác kinh tế với các nước bạn. Nó giúp cho việc xố bỏ tình trạng biệt
lập, khép kín và trì trệ về nền kinh tế và văn hố nước nhà.

Con người có thể tác động đến quá trình phát triển của LLSX, sự tác động
này được thể hiện ở chỗ con người có thể đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển
của LLSX thông qua những hoạt động phù hợp hay không phù hợp với những
quy luật vận động của LLSX với quy luật phù hợp của QHSX. Mặc dù TLSX,
vốn khoa học và kỹ thuật đều là những yếu tố cần thiết để thực hiện sản xuất,
xong tất cả phải thông qua hoạt động của con người mới đem lại những hiệu quả
kinh tế, những giá trị mới. Những yếu tố trên sẽ tồn tại dưới dạng tiềm năng và
nó sẽ trở thành vơ hiệu hố khi nó khơng được đặt trong mối quan hệ giữa tư
liệu lao động và người lao động, đối tượng lao động.
1.2. Khái niệm quan hệ sản xuất
Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan hệ
với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất. Nói cách
khác quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay
khơng cũng buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi
hoạt động sản xuất cũng như kết quả lao động những quan hệ sản xuất này
mang tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được
hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai.
Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính
quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào
ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất
của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

10


xuất và là cơ sở của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
- Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất: tức là quan hệ giữa người với tư

liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu. trong hệ
thống các quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trị
quyết định đối với các quan hệ xã hội khác.
+ Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất. Nó biểu hiện thành chế độ sở hữu – đặc trưng cơ
bản của phương thức sản xuất.
+ Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tế – xã hội xác
định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ln có vai trị quyết định đối với các
quan hệ xã hội khác. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của
các quan hệ sản xuất.
+ Một cách chung chất, có thể hiểu quan hệ sở hữu là quan hệ giữa các
tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất.
Ví dụ:


Quan hệ giữa địa chủ sở hữu đất với tá điền không sở hữu đất là
quan hệ sở hữu.



Quan hệ giữa tư sản có nhà máy với cơng nhân khơng có nhà
máy là quan hệ sở hữu.

+ Chính các mối quan hệ sở hữu này đã quy định địa vị của từng tập đoàn
người (địa chủ – tá điền; tư sản – công nhân) trong hệ thống sản xuất xã hội.
Đến lượt mình, địa vị của từng tập đồn người trong hệ thống sản xuất lại quy
định cách thức mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, cách thức mà các
tập đồn tổ chức quản lý trong q trình sản xuất.
+ Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân

phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

11


xuất xã hội. Trong các hình thái – kinh tế xã hội mà loài người đã từng trải qua,
lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu
sản xuất:
Sở hữu cơng cộng: Là loại hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về
mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ sở đó nên về nguyên tắc, các thành
viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và phân phối sản
phẩm. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã
hội trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội trở thành quan hệ hợp tác,
tương trợ lẫn nhau.
Sở hữu tư nhân: Trong các chế độ tư hữu, do tư liệu sản xuất chỉ nằm
trong tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về
số ít người đó. Do vậy, các quan hệ xã hội trở thành bất bình đẳng: quan hệ
thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội này tiềm tàng trở thành đối
kháng gay gắt. Đến nay, lịch sử loài người chứng kiến 03 chế độ sở hữu tư nhân
điển hình:Chế độ chiếm hữu nơ lệ; Chế độ phong kiến; Chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Trong đó, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại
hình sở hữu này. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chứng minh rằng chế độ tư bản chủ
nghĩa khơng phải là hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử loài người. Chủ
nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn
cũng sẽ đóng vai trị phủ định đối với chế độ tư hữu.
- Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: tức là quan hệ giưuã
người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ
thống các quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các
quan hệ có khả năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng

mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm
biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.
+ Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý
sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp, quy mô, tốc
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

12


độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các
nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ chức vận hành các nhân
tố đó, các quan hệ này có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các q trình khách
của sản xuất.
+ Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất ln có xu hướng thích
ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy, việc
sử dụng hợp lý các loại quan hệ này sẽ cho phép toàn bộ hệ thống sản xuấ vươn
tới tối ưu. Ngược lại, các quan hệ tổ chức và quản lý có thể làm biến dạng quan
hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội.


Ví dụ:
Khi xét đơn thuần trong các mối quan hệ công việc tại Tập đồn Alibaba,

thì quan hệ giữa Mã Vân – Chủ tịch với Trương Dũng – CEO, hoặc quan hệ giữa
Trương Dũng với các Giám đốc bộ phận… là những quan hệ trong tổ chức và
quản lý sản xuất. Rõ ràng, nếu những quan hệ này được tổ chức khoa học thì
doanh thu của Alibaba sẽ phát triển.
Ngược lại, nếu những quan hệ này có vấn đề, hoạt động kinh doanh của
Alibaba sẽ gặp rắc rối.
+ Ngày nay, nhờ ứng dụng được những thành tựu to lớn của khoa học

quản lý hiện đại và những tiến bộ của công nghệ thơng tin, nên vai trị của các
quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản xuất, đặc biệt là đối với việc điều hành
sản xuất ở tầm vĩ mô, đã tăng lên gấp bội.
- Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm: tức là quan hệ chặt chẽ với nhau
cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để làm
cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng
cao phúc lợi cho người lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý,
trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao
động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của
toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

13


sản xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãn sự phát
triển của xã hội.
+ Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản
phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận
động của toàn bộ nền kinh tế – xã hội. Mặc dù phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu
và vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất, song do có khả năng kích thích trực
tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là chất xúc tác của các
quá trình kinh tế – xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu
của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Ngược lại, các
quan hệ này có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.


Ví dụ:
- Quan hệ giữa ơng chủ – người trả lương và công nhân – người
nhận lương là quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Nếu mức

lương hợp lý sẽ kích thích người lao động tăng năng suất, góp phần
tăng hiệu quả kinh doanh.
- Ngược lại, nếu mức lương q thấp, cơng nhân có xu hướng đình
cơng, làm đình trệ sản xuất.
Nếu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất

sở hữu quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình
thái kinh tế xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trị
chi phối các quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải biến chúng để chẳng những
chung không đối lập mà phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế
xã hội mới.

1.3. Phương thức sản xuất

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

14


Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình
độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng tạo thành cách thức sản xuất trong
một giai đoạn nhất định của lịch sử.
– Về mặt kết cấu, ta có thể cơng thức hóa như sau:


Lực lượng sản xuất + Quan hệ sản xuất => Phương thức sản xuất =
Cách thức sản xuất vật chất.

Phép “+” ở đây không phải là phép cộng giản đơn, mà là biểu thị mối
quan hệ biện chứng, gắn bó xoắn xuýt lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan

hệ sản xuất.
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản
xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Với một cách thức nhất định
của sự sản xuất xã hội, trong đời sống xã hội sẽ xuất hiện những tính chất, kết
cấu và đặc điểm tương ứng về mặt xã hội.
Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của
mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay
đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội…
được chuyển sang một chất mới.
Nhờ có phương thức sản xuất, ta có thể phân biệt được sự khác nhau
của những thời đại kinh tế khác nhau. Dựa vào phương thức sản xuất đặc
trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta hiểu thời đại lịch sử đó thuộc về hình
thái kinh tế – xã hội nào. C. Mác khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác
nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào”.
1.4. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

15


Thứ nhất, về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động và người
lao động. Khi công cụ sản xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản
xuất ra một sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động của nhiều người. Công
cụ sản xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra các vật phẩm thì LLSX
mang tính chất xã hội.
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà đặc biệt là công cụ sản xuất,

là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Đồng thời nó cũng là
trình độ sản xuất và tiêu chuẩn đánh giá sự khác nhau giữa các thời đại, xã hội
khác nhau. Chính cơng cụ sản xuất và phương tiện lao động kết hợp với lao
động sáng tạo của con người là yếu tố quyết định đến năng xuất lao động.
Thứ hai, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển , biến
đổi của các hình thức của quan hệ sản xuất.
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc, con
người khơng ngừng cải tiến hồn thiện và chế tạo ra các công cụ sản xuất mới.
Đồng thời sự tiến bộ của cơng cụ tri thức khoa học, trình độ chun môn kỹ
thuật và mọi kỹ năng của người lao động cũng ngày càng phát triển. Yếu tố năng
động này của LLSX địi hỏi QHSX phải thích ứng với nó. LLSX quyết định sự
hình thành, phát triển của QHSX từ đó nó quy định sự phát triển và biến đổi của
quan hệ sở hữu. Sự lớn mạnh của LLSX đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chúng ta biết rằng, các quan hệ sở hữu
XHCN xuất hiện khi LLSX đã trở nên mâu thuẫn với hình thức chiếm hữu tư
bản tư nhân. Nhưng nó vẫn chưa hồn tồ xã hội hố trong phạm vi toàn xã hội.
Chúng ta thấy rằng chỉ có thể phát triển nền sản xuất hàng hố dựa trên cơ sở đa
dạng hố các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế mới tạo ra sự liên kết và
tính đan xen giữa chúng thì mới có thể đưa một nền sản xuất lớn thúc đẩy cho
LLSX phát triển. Trên cơ sở đó xác lập mối quan hệ sản xuất mới và quan hệ sở
hữu nói riêng.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

16


Thứ ba, sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Mặc dù sự đa dạng hố các hình thức sở hữu bị chi phối bởi LLSX với
tính cách là hình thức đa dạng hố các hình thức sở hữu nói riêng hay QHSX nói
chung cũng có tác động trở lại đối với LLSX. Khi quan hệ sở hữu phát triển nó

thúc đẩy LLSX phát triển theo mối quan hệ sở hữu hay hình thức sở hữu đó phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Khơng những thế mà nó định hướng và
tạo điều kiện cho LLSX phát triển.
Nếu quan hệ sở hữu phát triển lạc hậu hơn so với LLSX thì tất yếu
QHSH sẽ là siềng xích kìm hãm sự phát triển của LLSX. Trong quan hệ sản xuất
chiếm hữu nô lệ ra đời bằng những hình thức lao động khổ sai, thích ứng với
trình độ phát triển của LLSX và chế độ chiếm hữu nô lệ đã đạt được những kỳ
tích to lớn trong lịch sử văn minh nhân loại.
Tóm lại: Quy luật về sự phù hợp của QHSX nói chung, QHSH nói riêng
với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy luật chung của sự phát triển
xã hội. Dưới tác động của quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ
thấp đến cao của phương thức sản xuất, tuy nhiên sự phù hợp này phải là sự phù
hợp biện chứng, sự phù hợp không loại trừ mâu thuẫn.
LLSX như chúng ta đã thấy luôn luôn nằm trong quan hệ biện chứng với
quan hệ sản xuất. LLSX được phát triển nhanh hay chậm về số lượng hay chất
lượng cũng như tốc độ hiệu quả phù hợp của nó phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề
như: QHSX có phù hợp với nó hay khơng. Chẳng hạn khi LLSX chưa phát triển
đến một trình độ cao, nhu cầu xã hội chưa phải là một tất yếu thì việc đa dạng
các quan hệ sở hữu thơng qua sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau,
sẽ mở ra những khả năng cho LLSX tiếp tục phát triển. Ngược lại, nếu giữa
LLSX và QHSX có những mâu thuẫn thì khơng những QHSX lỗi thời mà ngay
cả QHSX đi quá với LLSX cũng sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Nhưng QHSX ln ln được đổi mới hoàn thiện cho phù hợp với LLSX thì khi
đó q trình biến đổi tích luỹ về lượng của LLSX sẽ nhanh hơn, mâu thuẫn giữa
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

17


chúng sẽ được giải quyết kịp thời. Do đó bước nhảy vọt trong sự phát triển của

nó có thể diễn ra sớm hơn. Chính việc hồn thiện QHSX quyết định những nhịp
độ tiến bộ kkoa học kỹ thuật vào sự tiến bộ của hệ thống LLSX.
Trước đây nói đến CNXH chúng ta thường nói đến chế độ cơng hữu về tư
liệu sản xuất giữa hai hình thức tồn dân và tập thể. ở nước ta từ Đại hội thứ 6
của Đảng đến nay đã hơn mười 10 năm thực hiện đường lối đổi mới chuyển từ
nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN Thành tựu đạt được trong 10 năm qua đã khẳng định tính đúng
đắn của đường lối đó đến nay.
Với quan điểm đó phải chăng đa dạng hố các hình thức sở hữu chỉ khi
LLSX còn thấp kém, còn khi LLSX phát triển cao thì lại đi đến đơn nhất hố.
Thực tế lịchsử cho thấy LLSX xã hội không ngừng phát triển, phân công lao
động ngày càng sâu, cùng với sự phát triển của LLSX thì hình thức về tư liệu
SX càng trở nên đa dạng. Khi phân công lao động trong mỗi nước cũng như
quốc tế cũng như khu vực ngày càng sâu khi LLSX xã hội hố cao thì các hình
thức SH về TLSX ngày càng trở nên đa dạng. Trong các nước tư bản phát triển
cũng như trong các nước khác đều xuất hiện rất nhiều hình thức sở hữu về
TLSX khác nhau. Rõ ràng xu hướng ngày càng đa dạng hố các hình thức sở
hữu về TLSX gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất của phân công
lao động trong xã hội là một xu hướng tất yếu, là một quá trình lịch sử- tự nhiên
và là một quy luật phát triển của xã hội. Đó cũng chính là q trình xã hội hóa
sản xuất cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất./.

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

18


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


19


Chương 2
Ý NGHĨA QUY LUẬT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Sự vận dụng quy luật vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ giữa những
năm 80 và được triển khai mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực từ đó đến nay. Quá
trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra
nhiều lý luận quan trọng mà việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phụ thuộc
vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào việc giải quyết
chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết cho việc tiếp tục hoạch
định và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 30 năm ở miền Bắc và
hơn 10 năm trên phạm vi toàn quốc nếu tính đến thời điểm bắt đầu đổi mới.
Ngơi nhà xã hội chủ nghĩa mà chúng ta muốn xây dựng có thể có nhiều đặc
trưng, nhưng có hai đặc trưng chất lượng quan trọng nhất mà dứt khoát chúng ta
phải đặt đến, đó là vừa giàu có hơn, vừa cơng bằng hơn so với trong chủ nghĩa
tư bản. Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế sản xuất
của nước ta lại chậm phát triển, đời sống nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn. Sự
khó khăn này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ một trong những
nguyên nhân quan trọng nhất là: không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh tranh
chấp. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) nhịp độ tăng giá
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


20


trị sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu… khơng đạt
chỉ tiêu đề ra. Nhìn chung, năng xuất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa
tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp
thiếu thị trường tiêu thụ trong cả nước và nước ngồi. Hệ thống tài chính-ngân
hàng cịn yếi kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ
cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất thốt nhiều. Nhịp
độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngồi giảm, cơng tác quản lý, điều hành
cơng tác này cịn nhiều vướng mắc và thiếu sót. Quan hệ một số mặt chưa phù
hợp. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trị chỉ đạo, chưa
có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp
nhà nước.
Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải
quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nơng thơn cịn ở mức cao. Các hoạt động
khoa học và công nghệ chưa được đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cơ chế chính sách khơng đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát
triển. Một số cơ chế, chính sách cịn thiếu, chưa nhất qn, chưa sát với cuộc
sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy
định về quản lý nhà nước khơng cịn phù hợp, chưa bổ sung những cơ chế,
chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, nhà nước
ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế
quốc dân và xét về thực chất là theo đường lốiđẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. điều đó có nghĩa là đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi,

thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó là hồn tồn mâu thuẫn với quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. để
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

21


khắc phục những mâu thuẫn có thể phát sinh địi hỏi phải thiết lập quan hệ sản
xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.Những chính sách mới của đảng và nhà nước đã thúc đẩy nền
kinh tế nước ta phát triển một cách mạnh mẽ.Sự thúc đẩy nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa nền kinh tế nước ta sang
một bước đi mới. Mọi người được tự do kinh doanh buôn bán, các doanh
nghiệp kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng trước
pháp luật…Tất cả đều nhằm vào mục tiêu duy nhất là thúc đẩy nền kinh tế
nước nhà.
Để làm rõ hơn về nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ, chúng ta sẽ
đi phân tích nền sản xuất nơng nghiệp trong thời gian này. tại đại hội lần thứ
VI, Đảng ta đã nhận định:"…Lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong
trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển
khơng đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản
xuất ( Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Nxb sự thật, HN, 1987, tr.57)Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội phải kể
đến yếu tố chủ quan của việc đảng lãnh đạo, Nhà nước phát động tính tích cực
xã hội của quần chúng bằng những lợi ích vật chất và tinh thần yêu nước vốn
có của họ. Tuy nhiên, theo nhận định trên của đảng, ta thấy rằng, không thể cho
rằng những yếu tố tiên tiến của quan hệ sản xuất mãi là tiền đề sự thúc đẩy phù
hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chúng chỉ tác động tích cực
trong một thời gian ngắn và cuối cùng, vẫn phải tuân thủ quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của nước ta trong thời gian chuẩn
bị vào những năm đầu bước vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thơn đã làm rõ nhận định trên của đảng. Tại thời điểm đó nền sản
xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều nơi, nhiều vùng nơng thơn bị đói kém.
Khi đó có người cho rằng, nguyên nhân sản xuất chậm phát triển là do
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

22


giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó thể
hiện giữa một bên là yêu cầu phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất theo
hướng tất yếu chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn với một bên là chế độ sở
hữu phân tán. Theo một số nhà nhận định, đây là mâu thuẫn vốn có và mâu
thuẫn là phổ biến trong các nền sản xuất. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến
trình độ cao thì tự bản thân chế độ tư hữu nhỏ không thể nào tồn tại như cũ, nó
buộc phải thay đổi. Nhìn lại q trình chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở nước ta
trước đây Đảng ta đã rút ra được sự cần thiết của quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tại Đại hội IX Đảng ta nhận định: "Cần phải nhân rộng mơ hình hợp
tác, liên kết Cơng nghiệp và nơng nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ
nông thôn, phát triển các loại hình trang trại quy mơ phù hợp trên từng địa bàn"
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 32). Trong sản xuất nông nghiệp, sự đa
dạng của các thành phần kinh tế đã tạo ra cơ chế quản lý với nhiều hình thức
sản xuất nơng nghiệp mới phù hợp với những quan điểm đổi mới không ngừng
của Đảng và nhờ đó, tạo ra sự biến đổi mới trong các Hợp tác xã nông nghiệp
trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất. Điều đó càng khẳng định ý nghĩa to lớn
của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.

Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào để khẳng định rằng quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết sự phù hợp đó
thể hiện ở chỗ, hiệu quả sản xuất ngày càng cao (năm sau cao hơn năm trước),
mặc dù đất bị thiên tai nhiều bề và ít nhiều chịu ảnh hưởng của tình trạng suy
thối kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Điều quan trọng nữa, khi nói quan
hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất không thể khơng nhìn vào đời sống
của nơng dân, thực tế cho thế qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng
đề ra, đời sống của nông dân từng bước được nâng cao, điều kiện nhà ở và học
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

23


tập của con em nông dân cũng khá hơn trước.
Như vậy thực trạng nền kinh tế có phát triển khơng? Lực lượng sản xuất
có phát triển khơng đó chính là tiêu thức để đánh giá sự phù hợp của quan hệ sản
xuất vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Một quy luật có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế của mỗi quốc gia.
2.2. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong q trình cơng nghiệp
hố - Hiện đại hóa nước ta hiện nay.
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động khơng ngồi biện
chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề cơng nghiệp hố gắn chặt với
hiện đại hố, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào
cơng nghiệp hố - hiện đại hố và muốn thành cơng trên đất nước thì phải có
tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan
trọng. Ngồi ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong q trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố với
tiềm năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao

động nhưng cơng cụ của chúng ta cịn thơ sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước
ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề
của đất nước về cơng nghiệp hố - hiện đại hố trước hết trên cơ sở một cơ
cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp
qui luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn,
những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp
hố - hiện đại hố đất nước vì dân giàu nước mạnh cơng bằng văn minh hãy
cịn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức
đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

24


Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta gần 40 năm qua đã chứng minh rằng:
quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất khơng chỉ khi nó
trở nên lạc hậu, mà cả khi nó được áp đặt một hình thức đi trước q xa so với
lực lượng sản xuất, một lần nữa quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại thể hiện rõ tính tất yếu và
tính phổ biến mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý muốn chủ quan của con người. Dù
mong muốn đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng thực hiện cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, chúng ta cũng khơng thể bất chấp quy luật, mà trái
lại phải tôn trọng và hành động đúng quy luật khách quan. Đó là một trong
những bài học lớn mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã chỉ rõ.
Đảng ta đã nhận thức đúng quy luật khách quan nên đã có những đướng
lối, chủ trương đúng đắn, kịp thời. Chỉ thị 100- CT/ TƯ của ban bí thư ngày 131- 1981 về khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới. Nhưng cái
mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội là

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986.
Với Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã dứt khốt đoạn tuyệt với cơ chế
hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển dần kinh tế sang cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mới khuyến khích phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng quan hệ kinh tế với các
nước, các khu vực trên thế giới, động viên mọi người làm giàu trong khuôn khổ
luật pháp cho phép.
Đường lối của đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân lao
đọng hứng khởi hưởng ứng và đã đem lại nguồn sinh khí mới, tạo đà cho nền
kinh tế phát triển nhanh chóng và dần dần đi vào thế ổn định. Sau tám năm thực
hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

25


×