Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.01 KB, 28 trang )

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
3.1. Định hướng hoạt động cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa của NHCT
Ba Đình trong thời gian tới
3.1.1. Định hướng phát triển chung
Theo mục tiêu định hướng của NHCT Việt Nam, Chi nhánh NHCT Ba Đình
đề ra các mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh doanh chủ yếu trong năm 2009 như
sau:
* Chỉ tiêu nguồn vốn: Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2009 đạt: 6.000
tỷ đồng. Trong đó huy động vốn VNĐ : 4.7000 tỷ đồng, ngoại tệ quy VNĐ: 1.300
tỷ đồng. Số dư điều chuyển vốn bình quân lên NHCT Việt Nam : 1.300 tỷ đồng.
* Dư nợ cho vay nền kinh tế: đến 31/12/2009 đạt 4.500 tỷ đồng. Trong đó :
Dư nợ VNĐ : 3.111 tỷ đồng. Ngoại tệ quy VNĐ : 1.389 tỷ đồng
Về cơ cấu dư nợ : Tỷ lệ cho vay không có BĐ bằng tài sản: 31% tổng dư nợ .
Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp nhà nước : 47% tổng dư nợ.
* Chỉ tiêu nợ xấu: đến 31/12/2009 : 90 tỷ đồng và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư
nợ giảm còn 2%.
Chỉ tiêu thu nợ ngoại bảng : phấn đấu thu 100% số nợ ngoại bảng của năm
2008.
* Chỉ tiêu thu dịch vụ đạt 40 tỷ đồng
* Chỉ tiêu thẻ : Thẻ ATM: 20.000 thẻ.
3.1.2. Định hướng cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong những năm qua, vai trò của các DNNVV ngày càng được khẳng định
trong nền kinh tế. Đảng và Nhà nước cũng đã có những quan điểm mới về
DNNVV: phát triển DNNVV là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nhà nước
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV phát huy tinh thần chủ động,
sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển trang thiết bị, công nghệ và nguồn
lực, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường,
tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Trên cơ sở đó, NHCT Ba Đình đã đề ra các chỉ tiêu cho vay đối với các


DNNVV như sau:
Dư nợ cho vay : 850 tỷ đồng
Trong đó dư nợ VNĐ : 650 tỷ đồng, Dự nợ ngoại tệ quy VNĐ :200 tỷ đồng.
Về cơ cấu dư nợ : Tỷ lệ cho vay không có BĐ bằng tài sản: 30% tổng dư nợ .
Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp nhà nước : 25% tổng dư nợ.
3.2. Giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNNVV tại NHCT Ba Đình
3.2.1. Mở rộng điều kiện cho vay, đa dạng hóa các hình thức cho vay đối
với DNNVV
3.2.1.1. Mở rộng điều kiện về đối tưọng vay vốn
Theo quyết định 072\QĐ - NHCT – HDQT về việc cho vay đối với khách
hàng trong hệ thống NHCT Việt Nam thì các khách hàng có đủ điều kiện như trong
điều 7 quy định mới được vay vốn.
Trong các điều kiện đó thì điệu kiện về trụ sở hoạt động đã được linh hoạt
hơn. Trước đây doanh nghiệp muốn vay vốn thì cần có trụ sở làm việc (đối với
pháp nhân) hoặc cư trú thương xuyên (đối với hộ gia đình, chủ doanh nghiệp tư
nhân) cùng địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc TW nơi Ngân Hàng Công Thương
đóng trụ sở. Hiện nay việc vay vốn đã thông thoáng hơn. Các doanh nghiệp ở
ngoài địa bàn của ngân hàng vẫn được phép vay vốn. Nhưng cần trình lên hội sở
chính ngân hàng công thương để được xét duyệt cho vay vốn. Tuy nhiên việc này
sẽ gây ít nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp vì thời gian chờ xét duyệt không
phải là ngắn thêm vào đó là thủ tục rườm rà cho nên có thể làm cho doanh nghiệp
mất đi cơ hội kinh doanh của mình.
Do đó để khai thác triệt cũng như mở rộng hoạt động tín dụng đối với
DNNVV ngân hàng có thể mở rộng điều kiện cho vay bằng cách có thể tăng thêm
quyền hạn xét duyệt cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài địa bàn đối với những
chi nhánh lớn, hoạt động có hiệu quả.
3.2.1.2. Mở rộng điều kiện về tài sản đảm bảo
Mặc dù đã có nhiều chính sách biện pháp phát triển cho vay vốn đối với
DNNVV song số lượng các doang nhgiệp có thể tiếp cận nguộn vốn tín dụng ngân
hàng còn ít. Nguyên nhân chủ yếu là do các DNNVV không thể đáp ứng được hầu

hết các điều kiện và một trong số đó là điều kiện về tài sản đảm bảo. Đặc biệt là
đối với các doanh nghiệp mới thành lập thì khi đó tình hình và chiến lược kinh
doanh chưa rõ có mang lại hiệu quả hay không thì tài sản đảm bảo là điều kiện vô
cùng quan trọng để có thể cho vay vốn.
Ngân hàng xem tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ khi doanh nghiệp không có
khả năng trả nợ khi đến hạn. Thực tế cho thấy, hầu hết các ngân hàng khi cho vay
vốn đều rất quan tâm đến tài sản đảm bảo và một số còn xem đây là điều kiện quan
trọng nhất để có thể quyết định cho vay hay không. Trong khi đó các DNNVV có
vốn sở hữu thấp, hoạt động kinh doanh còn mang tính nhỏ lẽ. Do đó, tài sản thế
chấp đã trở thành điều kiện ngăn cản doanh nghiệp tìm đến vốn vay của ngân hàng.
Theo báo cáo kết quả kinh doanh của NHCT Ba Đình trong thời gian gần
đây, cho thấy chi nhánh đang phát triển cho vay vốn ít cần đảm bảo hơn, tuy nhiên
trường hợp đó chỉ ưu tiên cho những khách hàng truyền thống, các DNNVV hoạt
động kinh doanh có uy tín, hiệu quả cao trên thị trường, có chiến lược kinh doanh
rõ ràng, định hướng.
Các ngân hàng cần phải có chính sách và biện pháp hợp lý để phát huy thế
mạnh, thu hút khách đến với mình.
Để mở rộng cho vay DNNVV, một trong những hình thức cho vay vốn
không có tài sản đảm bảo được áp dụng phổ biến hiện nay là cho vay vốn tín chấp.
Đây là hình thức cho vay dựa trên uy tín và hoạt động thực tế của doanh nghiệp.
Hình thức này hiện nay chỉ được các ngân hàng áp dụng cho các khách hàng có
quan hệ lâu năm và thân thiết với ngân hàng. Tuy nhiên để có thể cho vay được thì
đòi hỏi DNNVV phải cam kết về mục đích sự dụng, phải chứng minh tình hình tài
chính của mình là lành mạnh, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả và ổn
định.
Bên cạnh đó cần có một tổ chức có uy tín đứng ra bảo lãnh cho DNNVV. Và
sự ra đời của quỹ bão lãnh tín dụng cho các DNNVV chính là cơ sở cho việc phát
triển hình thức cho vay tín chấp. Mở ra giải pháp thúc đẩy mở rộng tín dụng đối
với các DNNVV.
3.2.1.3. Đa dạng hoá về các hình thức cho vay đối với DNNVV

Loại hình DNNVV rất đa dạng về quy mô, ngành nghề kinh doanh, rất linh
hoạt, vì vậy nhu cầu về khối lượng vay vốn, thời hạn vay, phương thức trả gốc lãi...
là không giống nhau. Chính vì vậy mà ngân hàng với phương châm “Lấy hiệu quả
kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu phục vụ”, phải đưa ra những loại hình tín
dụng phù hợp với từng yêu cầu của khách hàng.
Một thực tế là ngân hàng công thương Ba Đình thực hiện cho vay trung và
dài hạn còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng dư nợ. Vì vậy ngân hàng cần phải
đẩy mạnh cho vay trung dài hạn để giúp các DNNVV có thể đầu tư tài sản cố định,
máy móc thiết bị hiện đại để sản xuất những sản phẩm tăng tính năng công dụng
phù hợp với yêu cầu thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngân hàng nên bổ sung loại hình cho thuê tài sản đối với DNNVV đây là
hình thức rất nhiều ưu việt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp không đủ vốn tự có
để mua tài sản mà tránh được tình trạng mua phải tài sản lạc hậu, lỗi thời. Mặt khác
đối với ngân hàng cũng sẽ tránh được rủi ro do ứ đọng vốn vì không phải bỏ tiền
trước để mua tài sản, việc giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa hai bên.
Nên linh hoạt trong hoạt động cho vay đối với từng đối tượng khách hàng.
Vẫn biết cho vay các DNNVV là có nhiều rủi ro song không hẳn tất cả các
DNNVV đều làm ăn kém hiệu quả, đều đưa ra những phương án vay vốn không
thuyết phục. Phải mạnh dạn đánh giá xem xét mức độ tín nhiệm của DNNVV để
có thể cho vay tín chấp đối với DNNVV. Không phải tất cả các DNNVV đều có tài
sản thế chấp vì thế ngân hàng nên căn cứ vào hiệu quả của phương án vay vốn,
nguồn chính để trả nợ khoản vay là lợi nhuận mang lại từ phương án sản xuất. Nếu
được ngân hàng có thể tư vấn thiết lập phương án, cũng như thực hiện phương án.
Đồng thời có thể góp chung vốn để cùng thực hiện. Như vậy sẽ tăng mức độ tín
nhiệm giữa ngân hàng với khách hàng, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Ngoài ra ngân hàng có thể đa dạng hoá phương thức hoàn trả bằn cách hai
bên có thể thoả thuận kỳ hạn trả nợ hoặc không. Có thể trả nợ làm nhiều lần nhưng
không có kỳ hạn cụ thể, mà việc trả nợ tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của doanh
nghiệp. Việc trả nợ cũng tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của doanh nghiệp. Hình
thức này chỉ có thể áp dụng đối với các doanh nghiệp có độ tin tưởng rất cao, có

mối quan hệ khăng khít lâu bền với ngân hàng.
Thông thường ngân hàng cũng như nhiều ngân hàng khác chỉ thực hiện cho
vay trực tiếp giữa ngân hàng với doanh nghiệp, thì ngân hàng có thể cấp tín dụng
gián tiếp thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn
trong thời hạn thanh toán. Đây là hình thức mua bán nợ và chưa được thực hiện
phổ biến ở các ngân hàng.
Cũng không nằm ngoài mục tiêu phục vụ tốt nhất mọi nhu cầu đa dạng
của các DNNVV, ngân hàng nên đa dạng hoá hình thức cho vay đối với
DNNVV. Ngoài các hình thức cho vay truyền thống thông qua việc cầm cố thế
chấp tài sản, ngân hàng nên tìm cũng như phát triển các hình thức vay mới như:
Chiết khấu giấy tờ có giá: Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp sở
hữu các chứng từ có giá như hối phiếu, trái phiếu, tín phiếu ngân hàng chưa đến
hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp lại có nhu cầu đột xuất về chi tiêu, doanh
nghiệp có thể đem những chứng từ này đến ngân hàng xin chiết khấu. Đây là một
hình thức cấp tín dụng gián tiếp, giúp doanh nghiệp thoả mãn vốn lưu động không
thường xuyên, nhanh, dễ dàng góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn.
Trong thời gian tới khi Nhà nước ban hành pháp lệnh về thương phiếu thì
hình thức này nên được áp dụng một cách phổ biến hơn tại ngân hàng, như vậy vừa
giúp cho các doanh nghiệp tăng vốn hoạt động vừa giúp ngân hàng tăng một khoản
thu đáng kể.
Hình thức hùn vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với khách hàng : Đây là một
hình thức tín dụng được áp dụng khá phổ biến ở nước ngoài, nó giúp ngân hàng
không những mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện thâm nhập vào thị trường
từ đó tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp, vừa trực tiếp giám sát,
quản lý vốn vay và có thu nhập cao do là người trực tiếp đầu tư vốn vào kinh
doanh. Hơn nữa, do có sự công tác của các chuyên gia ngân hàng chắc chắn doanh
nghiệp sẽ làm ăn hiệu quả hơn, dần dần đưa khu vực DNNVV phát triển ngày càng
mạnh hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Cho vay bảo lãnh : Hoạt động này chưa phát triển tại ngân hàng vài năm qua.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, có những DNNVV thiếu vốn nhưng không đủ

điều kiện vay vốn theo quy định thì ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng nhờ
một tổ chức nào đó đứng ra bảo lãnh khoản vay. Khi áp dụng hình thức này ngân
hàng cần yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải có đầy đủ giấy tờ cần thiết. Việc bảo lãnh
phải dưới ký kết bằng văn bản và phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Đây
là hình thức cấp tín dụng có dộ rủi ro thấp phù hợp với cho vay các DNNVV nên
ngân hàng cần khẩn trương đưa vào thực tế để vừa đáp ứng được nhu cầu vay vốn
của khách hàng và vừa tăng thu nhập, mở rộng tín dụng cho ngân hàng.
Cho vay bảo đảm bằng các khoản sẽ thu : Các doanh nghiệp bán hàng nhưng
chưa thu được tiền do người mua chịu, điều này làm cho các doanh nghiệp bị thiếu
vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp thiếu vốn tức thời bằng
cách cho vay trên một tỷ lệ nào đó đối với các khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp
phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ đó. Việc cầm cố này có thể thông báo hoặc
không thông báo cho khách hàng thiếu nợ của doanh nghiệp tuỳ thuộc vào sự thoả
thuận của hai bên.
3.2.1.4. Đa dạng hoá phương thức cho vay
Mỗi doanh nghiệp thì cần một loại cho vay khác nhau. Đặc biệt là đối với
các DNNVV. Vì là loại hình doanh nghiệp rất đa dạng về ngành nghề kinh doanh
nên nhu cầu vay vốn là rất khác nhau. Tuy nhiên các hình thức cho vay của ngân
hàng đối với loại hình doanh nghiệp này là tương đối ít. Hiện tại ngân hàng chủ
yếu áp dụng các phương thức cho vay sau: cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay
trả góp, cho vay từng lần. Đối với DNNVV thì hầu như chỉ áp dụng đối với hình
thức cho vay từng lần. Điều này đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp
khi muốn vay vốn theo hạn mức hoặc vay vốn theo dự án, đồng thời cũng hạn chế
khả năng mở rộng vốn tín dụng của ngân hàng đối với DNNVV.
Do đó để mở rộng hoạt động cho vay vốn hơn nữa, ngân hàng cần đa dạng các
hình thức cho vay khác nhau cũng như cần xây dựng các gói sản phẩm phù hợp với
DNNVV như :thấu chi, bao thanh toán, cho thuê tài chính, góp vốn, đầu tư, …, cho
vay đối với các doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, có chiến lược
kinh doanh rõ ràng, lâu dài và có uy tín với ngân hàng.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả huy huy động các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vay

vốn của khách hàng, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn
Huy động vốn là công việc đầu tiên một ngân hàng phải thực hiện để tạo
điều kiện cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn ngân hàng phải dồi
dào thì ngân hàng mới đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Vì
vậy tổ chức tốt công tác huy động vốn cũng góp phần quan trọng vào việc hỗ trợ
vốn cho các DNNVV. Các DNNVV hiện nay rất khó khăn trong việc tìm nguồn
vốn tài trợ trung và dài hạn. Mặt khác, ngân hàng cho vay chủ yếu là ngắn hạn. Vì
vậy ngân hàng cần có những biện pháp nhằm thu hút lượng vốn trung và dài hạn
tạo cơ sở, điều kiện cho việc mở rộng cho vay trung dài hạn đối với DNNVV. Để
làm được điều này ngân hàng cần thực hiện tốt công tác Marketing với các biện
pháp sau:
Thứ nhất: Biện pháp liên quan đến lãi suất. Để tăng cường huy động vốn
ngân hàng cần xây dựng chính sách lãi suất hợp lý. Cụ thể lãi suất phải phù hợp
với thời hạn của nguồn tiền huy động; phải có mục tiêu trọng điểm tức là nhằm vào
đối tượng cụ thể nào đó như những người có thu nhập cao sẽ có những điều khoản
ưu đãi, hoặc dựa vào tổng thể mối quan hệ của khách hàng với ngân hàng. Ví dụ
khách hàng sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, có mối quan hệ lâu
dài, uy tín với ngân hàng thì ngân hàng sẽ có ưu đãi về lãi suất tiền gửi đối với
khách hàng đó. Việc xác định lãi suất hợp lý làm cho ngân hàng tối đa hoá lợi
nhuận và tuỳ vào từng thời kỳ mà ngân hàng có chính sách lãi suất cụ thể.
Thứ hai: Chính sách sản phẩm. Ngân hàng cần tăng cường việc cung ứng
các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng, đa dạng hoá về chủng loại sản phẩm dịch
vụ nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng cụ thể: Tăng cường thêm các dịch
vụ uỷ thác, bảo quản tài sản tư vấn...; đa dạng về thời hạn huy động, phương thức
huy động.
Thứ ba: Chính sách phân phối. Thực tế ngân hàng có mạng lưới kênh phân
phối còn nhiều hạn chế vì vậy trong thời gian tới ngân hàng nên thành lập thêm
một số chi nhánh, tăng cường đội ngũ cán bộ nhằm tìm hiểu rõ số dân cư, thu nhập
và nhu cầu các sản phẩm dịch vụ như thế nào, đối thủ cạnh tranh ra sao... từ đó
phân bố mạng lưới giao dịch hợp lý chứ không phải chia đều các chi nhánh ở các

địa bàn, giúp cho khách hàng tiếp cận với ngân hàng dẫn dàng hơn.
Hiện nay kênh phân phối hiện đại đang rất phổ biến và mang lại hiệu quả
cao như thông qua các ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng tại nhà,... Ngân hàng
cần nghiên cứu và ứng dụng để đưa các kênh này đi vào thực thế ở ngân hàng mình
nhằm thu hút khách hàng về phía mình.
Thứ tư: Ngân hàng phải không ngừng nâng cao trình độ công nghệ, cải tiến
quy trình giao dịch với khách hàng, đơn giản hoá thủ tục nhằm nâng cao chất
lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Đi đôi với việc ứng dụng công nghệ tiên
tiến hiện đại ngân hàng phải nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng để tránh lãng phí
nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là những ứng dụng của công nghệ thông tin.
Thứ năm: Các biện pháp về tâm lý. Ngân hàng cần tạo lập và củng cố uy tín
với khách hàng bằng cách:
- Tăng khả năng thanh toán chi trả
- Ngân hàng phải thực hiện tốt khâu tuyển dụng và đào tạo nhân viên bao
gồm trình độ nhân viên và phong cách giao dịch với khách hàng.
- Củng cố xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật khang trang, an toàn, đầy đủ tiện
nghi.
- Ngân hàng phải xây dựng chính sách kinh doanh hợp lý tức là phải kết hợp
hài hoà 3 mục tiêu: lợi nhuận, an toàn và kinh doanh lành mạnh. Nếu quá chú trọng
lợi nhuận sẽ mất an toàn hoặc kinh doanh không lành mạnh sẽ làm giảm uy tín của
ngân hàng.
Bên cạnh việc tạo lập uy tín với khách hàng ngân hàng cần tăng cường tuyên
truyền quảng cáo, xây dựng hình ảnh tốt với khách hàng. Ngoài ra ngân hàng có
thể áp dụng phương pháp chọn mẫu điều tra nhu cầu khách hàng nhằm thoả mãn
tốt nhất nhu cầu của khách. Tuỳ từng giai đoạn từng thời kỳ mà ngân hàng lựa
chọn và đưa ra các biện pháp cho phù hợp.
3.2.3. Nâng cao công tác thẩm định chất luợng khách hàng và thẩm định
dự án
Thẩm định khách hàng và thẩm định dự án là hai buớc quan trọng nhất trong
quá trình cho vay của NHTM. Nếu công tác thẩm định chính xác thì ngân hàng có

một khoản tín dụng an toàn, còn ngược lai nếu thẩm định không tốt thì ngân hàng
sẽ gặp rất nhiều rủi ro khi cho vay. Đặc biệt là đối với các DNNVV có tình hình tài
chính không ổn định và tài sản đảm bảo còn nhiều hạn chế.
Vì vậy quy trình thẩm định cần phải được tiến hành một cách khoa học và
khách quan để vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng vừa đáp ứng nhu cầu của khách
hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Do đó nâng cao chất lượng công tác thẩm
định truớc khi cho vay sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Công tác thẩm
định đối với doanh nghiệp có chất luợng phải phản ánh chính xác, trung thực, kịp
thời các thông tin về doanh nghiệp liên quan đến việc cho vay.
Các cán bộ tín dụng cần phải có trình độ chuyên môn cao, có khả năng nhận
định và đánh giá tình hình của doanh nghiệp. Muốn vậy, ngân hàng cần tổ chức các
lớp huấn luyện kỹ năng thu thập, phân tích và đánh giá cho các cán bộ thẩm định,
để có thể rút ra đuợc những kết luận về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp một cách chính xác, nhanh chóng.
Mặt khác, các thông tin trực tiếp và gián tiếp thu thập liên quan đến dự án
sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thẩm định dự án. Vì vậy ngân hàng cần
thiết lập mạng thông tin nội bộ chặt chẽ, cơ chế truyền tin thông suốt giữa các bộ
phận có liên quan trong toàn hệ thống ngân hàng để có được cái nhìn bao quát về
mọi mặt của khách hàng.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật giúp cho các cán bộ thẩm
định rút ngắn thời gian thẩm định và tăng tính chính xác của kết quả thẩm định.
Chính vì thế, việc đầu tư cho công nghệ máy móc kỹ thuật cũng là một hoạt động
chiến lược. Tuy nhiên nó cần phải được tuân thủ theo các yêu cầu về tiết kiệm mới
có thể đảm bảo chất lượng thẩm định trước khi cho vay.
Ngoài ra, công tác thẩm định gồm nhiều bước thực hiện, vì thế để nâng cao
chất lượng thẩm định cần tổ chức các bước một cách khoa học, hợp lý, đồng bộ,
phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cán bộ. Đồng thời kiểm tra giám sát chặt
chẽ theo các tiêu chuẩn đã đề ra.
Trên cơ sở thực hiện tốt các biện pháp trên đây, ngân hàng sẽ nâng cao chất
lượng thẩm định dự án. Từ đó kết quả của công tác thẩm định có độ tin cậy cao.

Khả năng chịu tổn thất do rủi ro khi cho vay nhất là đối với các DNNVV sẽ thấp
hơn, giúp ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2.4. Đổi mới, xây dựng và vận hành một chính sách lãi suất linh hoạt
Lãi suất ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nhu cầu vay vốn của
khách hàng, lãi suất của các ngân hàng cạnh tranh, lãi suất của Ngân hàng Nhà
nước, quy định của Chính phủ, chi phí hoạt động của ngân hàng, lãi suất huy
động, lợi nhuận ngân hàng,.. Mục đích của việc thiết lập chính sách lãi suất là
mở rộng tín dụng đối với DNNVV và đem lại một mức lợi nhuận hợp lý.
Các DNNVV vì có số vốn không lớn cho nên việc sử dụng vốn vào sản xuất
kinh doanh phải được tính toán cẩn thận, chi tiết, kỹ càng về các khoản chi phí,
trong đó có lãi vay ngân hàng. Do vậy một mức lãi suất hợp lý sẽ thu hút được sự
quan tâm của các doanh nghiệp. Thực tế là trong quá trình xét duyệt cho vay các
DNNVV, cán bộ tín dụng luôn có sự thận trọng trước những rủi ro tiềm ẩn, họ phải
mất rất nhiều thời gian, chi phí kiểm tra do đó làm cho lãi suất đầu ra có xu hướng
tăng lên. Cộng với những khoản chi phí phát sinh trong quá trình giao dịch, những
khoản vay này có thể sẽ trở nên đắt đối với các doanh nghiệp, khiến việc vay vốn
bị hạn chế. Vì thế nếu lãi suất vay được giảm đi thì sẽ khuyến khích được các
doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong việc vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Sự linh hoạt trong chính sách vay vốn ở đây phải được thể hiện có nhiều
mức lãi suất khác nhau đối với từng loại doanh nghiệp và phải chủ động trong
việc áp dụng mức lãi suất hợp lý cho từng khách hàng, trong từng thời kỳ cụ thể.

×