Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.23 KB, 29 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA
NHTM
1.1. Tổng quan về NHTM.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của NHTM.
NHTM là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong nền
kinh tế, tổng tài sản có của NHTM luôn luôn có khối lượng lớn nhất trong toàn
bộ hệ thống ngân hàng. Mặt khác, khối lượng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản
tiền gửi không kỳ hạn mà nó có thể tại ra chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
cung tiền tệ M1 của cả nền kinh tế. Có nhiều khái niệm khác nhau về NHTM:
 Ở Hoa Kỳ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
 Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công
chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng chính họ
vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
 Ở Việt Nam: theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-05-1990 của Hội đồng Nhà nước
xác định: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh
toán”
Theo luật tổ chức tín dụng năm 1998: “NHTM là những tổ chức thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nhiệm vụ
thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và dịch vụ thanh toán.
1.1.2. Chức năng và vai trò của NHTM.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa, NHTM thực hiện các chức năng sau:
Những người có đồng tiền nhàn rỗi
NHTM Những người cần vốn
Nhận tiền gửi, ủy thác đầu tư…
Cho vay, đầu tư…
 Chức năng là trung gian tín dụng.
Đây là chức năng cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng


trong việc thúc đẩy nên kinh tế hàng hóa phát triển. Thực hiện chức năng này,
NHTM thực sự là “cầu nối” giữa những người có tiền nhàn rỗi muốn cho vay với
những người thiếu vốn cần vay. NHTM góp phần tạo lợi ích công bằng cho cả 3
bên trong quan hệ: Người gửi tiền, Ngân hàng và người vay tiền.
 Đối với người gửi tiền: Phát huy tối đa hiệu suất sinh lời từ đồng vốn tạm thời
nhàn rỗi hay nhận được các phương tiện thanh toán tiện ích, an toàn từ ngân hàng.
 Đối với NHTM: Sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay,
lãi suất huy động hay hoa hồng môi giới.
 Đối với người vay: Đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh, chi
tiêu hay thanh toán.
Khi thực hiện chức năng làm trung gian tín dụng, NHTM đa huy động triệt để
các vốn nhàn rỗi, điều hòa từ nơi thừa đến nơi thiếu. Kích thích quá trình luân
chuyển vốn của toàn xã hội và thúc đẩy quá trình tái sản xuất của các doanh
nghiệp.
 Chức năng làm trung gian thanh toán.
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán NHTM cung cấp các phương tiện
thanh toán cho nền kinh tế, tiết kiệm chi phí lưu thông và nâng cao khả năng tín
dụng.
Việc mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán làm cho
NHTM trở thành một trung tâm thanh toán của nền kinh tế. NHTM sẽ thừa lệnh
khách hàng thực hiện toàn bộ các nghiệp cụ ngân quỹ của khách hàng. Giúp cho
khách hàng và nền kinh tế chu chuyển vốn nhanh, an toàn và tiết kiệm.
Với chức năng trung gian thanh toán cũng cho phép NHTM tạo ra bút tệ để
mở rộng quy mô tín dụng.
Việc hệ thống NHTM thực hiện chức năng trung tâm thanh toán mang một ý
nghĩa rất to lớn:
 Trước hết đối với nền kinh tế, hệ thống ngân hàng sẽ cung cấp nhiều công cụ thanh
toán tiện ích như: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ rút tiền, ngân phiếu, ủy nhiệm
chi, ủy nhiệm thu…
 Thứ hai, khi sử dụng phương thức thanh toán, bản thân các chủ thể kinh tế sẽ tiết

kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian lại an toàn. Hệ thống NHTM lại
tích tụ được một số vốn khổng lồ để có thể mở rộng khả năng tín dụng.
Tóm lại, có thể nói chu chuyển tiền tệ ngày nay chủ yếu thông qua hệ thống
NHTM và do vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai
trò của NHTM sẽ được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quỹ của xã hội.
 Chức năng tạo tiền của NHTM.
Nghiệp vụ tạo tiền xuất phát từ cả 2 chức năng trên trong toàn bộ hệ thống
Ngân hàng.
Khi NHTM cho vay hoặc mua chứng khoán trong dân chúng thì NHTM mở
rộng thu hút tiền gửi và nhờ hoạt động trong hệ thống mà các NHTM đã tạo ra bút
tệ. Một NHTM đơn độc không thể mở rộng tiền gửi mà chỉ cho vay trong số tiền
dự trữ của mình. Vì vậy nghiệp vụ tạo tiền chỉ thực hiện thông qua hợp đồng của
toàn hệ thống.
Nghiệp vụ tạo tiền của NHTM có ý nghĩa toàn diện khá to lớn. Các khoản tiền
mới tạo ra thật sự thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở nguồn vốn mới
tạo ra, không phải trên cơ sở nguồn vốn tiền gửi ban đầu.
 Chức năng trung gian trong việc thực hiện chính sách kinh tế quốc gia.
Hệ thống NHTM mặc dù mang tính chất độc lập nhưng nó luôn luôn chịu
sự quản lý chặt chẽ của NHTƯ về mọi mặt. Đặc biệt NHTM phải luôn tuân theo
các quyết định của NHTƯ về việc thực thi chính sách tiền tệ.
 Để ổn định giá trị của đồng tiền về mặt đối nội và đối ngoại, lượng tiền cung ứng
cho lưu thông phải phù hợp với giá trị hàng hóa lưu thông. để làm được điều này
NHTƯ sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để điều hòa khối lượng tiền tệ
trong lưu thông và bắt buộc các NHTM phải chấp hành. Như vậy NHTM là chủ
thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ .
 Để gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, tín dụng phát ra từ các NHTM phải mang
lại hiệu quả, việc thu hút vốn nươc ngoài thông qua các ngân hàng thương mại
cũng phải được sử dụng đúng mục đích, yêu cầu của nền kinh tế...
 Tín dụng NHTM trên cơ sở cho vay mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề, tạo
ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện các mục tiêu và chính

sách xã hội cho Nhà nước.
Từ 4 chức năng chủ yếu trên của NHTM, ta rút ra được vai trò của NHTM
như sau:
☻ NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Hoạt động của NHTM là cung ứng tín dụng và làm trung gian thanh toán cho
các doanh nghiệp tiến hành hợp đồng sản xuất kinh doanh được thuận lợi. Từ đó,
góp phần quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
☻ NHTM là công cụ thực hiện chính sách của NHTW: Khi thực thi các công
cụ chính sách tiền tệ của NHTM thì mới có hiệu quả từ việc chấp hành tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, qui chế thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao hiệu quả cho vay và
đầu tư vốn trong nền kinh tế quốc dân.
1.2. Năng lực tài chính của NHTM.
1.2.1. Khái niệm về năng lực tài chính của NHTM.
Năng lực tài chính của NHTM được hiểu là khả năng của NHTM trong việc
đáp ứng, xử lý các vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh. Hay nói cách khác
thì năng lực tài chính là khả năng, là sức mạnh nội lực của ngân hàng giúp ngân
hàng có thể phản ứng linh hoạt trước mỗi sự thay đổi tích cực hay tiêu cực của thị
trường, như khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh kiếm lời hay chính là “sức đề
kháng” của ngân hàng trước những rủi ro phải đối mặt.
Năng lực tài chính quyết định khả năng sinh lời, khả năng mở rộng quy mô,
khả năng kiểm soát rủi ro, khả năng xử lý nợ xấu làm minh bạch hóa tài chính…
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của NHTM.
Năng lực tài chính của ngân hàng được thể hiện qua các chỉ tiêu như: Vốn của
ngân hàng, giới hạn an toàn hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng kiểm soát rủi
ro, khả năng kiểm soát và xử lý nợ xấu…
1.2.2.1. Nguồn vốn của NHTM.
(1) Khái niệm về vốn:
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hay huy động được,
dùng để cho vay, đầu tư hay thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
(2) Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện qua các chỉ tiêu về vốn:

a) Quy mô vốn tự có.
 Vốn tự có là những giá trị tiền tệ ngân hàng tạo lập được thuộc sở hữu của ngân
hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng
dưới 10%) song lại là điều kiện pháp ký bắt buộc đối với 1 ngân hàng khi mới
thành lập, vì vốn tự có là yếu tố quyết định sức mạnh tài chính của 1 ngân hàng.
Một mặt, vốn tự có là cơ sở để ngân hàng tiến hành mọi hoạt động kinh doanh. Mặt
khác, nó được coi là “tấm đệm chốn đỡ rủi ro” khi ngân hàng gặp khó khăn đặc
biệt là nguy cơ mất khả năng thanh toán có thể dẫn ngân hàng tới phá sản.
 Vốn tự có bao gồm:
 Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật
quy định.
 Vốn điều lệ: là vốn do cổ đông đóng góp và được ghi vào trong điều lệ hoạt động
của ngân hàng và theo quy định phải bằng vốn pháp định.
 Vốn tự có bổ sung: vốn tự có của các NHTM không ngừng tăng lên theo thời gian
thông qua nguồn vốn bổ sung gồm:
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Với mục đích tăng cường vốn điều lệ ban đầu, là
vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bổ sung vốn pháp định. Luật của Việt
Nam quy định hàng năm phải tính 5% lợi nhuận ròng để lập quỹ này, còn mức tối
đa do NHTƯ quy định.
 Quỹ dự trữ đặc biệt: Dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh
của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Đây cũng là loại vốn được tính từ lợi
nhuận để bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động. Hàng năm ngân hàng phải trích
10% trên lợi nhuận ròng cho tới khi bằng vốn pháp định.
 Ngoài các quỹ trên, còn có phần lợi nhuận được phân bổ hay các quỹ nghiệp vụ
khác như: quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng, quỹ phúc lợi, khen thưởng, khấu
hao…
Một ngân hàng có vốn tự có lớn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, bởi nó là 1
nhân tố có khả năng tác động lớn tới tâm lý khách hàng khi lựa chọn ngân hàng để
thực hiện giao dịch và gửi tiền, từ đó tạo nên uy tín của ngân hàng. Mặt khác, giá
trị vốn tự có cũng chính là giới hạn mức thua lỗ tối đa mà ngân hàng có thể chịu

đựng được khi gặp phải rủi ro. Bởi vậy ngân hàng muốn hoạt động an toàn nhất
thiết phải duy trì được mức vốn đủ lớn, thể hiện năng lực tài chính của mình là đủ
mạnh.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, cạnh tranh trên mọi lĩnh vực, sản phẩm,
dịch vụ. Ngân hàng nào có mức vốn tự có thấp sẽ dễ dàng gặp phải khó khăn, đổ
vỡ do phải cạnh tranh với những ngân hàng có mức vốn lớn, quy mô hoạt động
mạnh. Nhất là đối với các nước đang phát triển khi hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện mở cửa hệ thống tài chính thì đây thực sự là vấn đề đáng quan tâm cho các
ngân hàng nhỏ với tỷ lệ vốn thấp. Do đó, các ngân hàng phải có kế hoạch tăng
cường vốn cho ngân hàng mình nhằm giúp cho ngân hàng có được nền tảng vững
chắc, chống được các rủi ro trong hoạt động, tận dụng lợi thế cạnh tranh. Một
nguồn vốn hùng mạnh sản xuất giúp các ngân hàng tiến hành thực hiện các kế
hoạch, các chiến lược dài hạn như mở rộng quy mô hay đầu tư, đổi mới trang
thiết bị công nghệ, dễ dàng thực hiện các mục tiêu của mình cũng như là căn cứ
để kiểm soát và giới hạn hoạt động của mình giúp ngân hàng thực hiện các hoạt
động kinh doanh và đầu tư có hiệu quả.
b) Quy mô vốn huy động.
 Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và các cá nhân trong xã hội. Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu
vốn của NHTM, đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, là vốn kinh doanh chính và là đòn bẩy để nâng cao năng lực tài chính của
ngân hàng. Vốn huy động luôn biến động nên ngân hàng không được phép sử dụng
hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với 1 tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả
năng thanh toán. Ngân hàng huy động vốn dưới 2 hình thức: Nhận tiền gửi của cá
nhân hay tổ chức và phát hành các công cụ nợ.
 Quy mô vốn huy động thể hiện khả năng huy động của ngân hàng, khối lượng vốn
được ngân hàng sử dụng để kinh doanh, đầu tư. Một ngân hàng có thể huy động
được 1 khối lượng vốn lớn, dễ dàng, trong 1 thời gian ngằn hẳn ngân hàng đó phải
có 1 tiềm lực tài chính đủ mạnh, có uy tín và có khả năng ảnh hưởng lớn tới thị
trường. Nhìn vào quy mô vốn huy động, khách hàng phần nào thấy được quy mô

hoạt động của ngân hàng, đánh giá được phần nào uy tín và hình ảnh về ngân hàng.
Vốn huy động là vốn chính để ngân hàng tiến hành kinh doanh, thực hiện cho vay
và đầu tư trên thị trường tài chính để kiếm lời. Chính vì thế, quy mô vốn huy động
quyết định quy mô hoạt động tín dụng, quy mô hoạt động đầu tư, tạo điều kiện gia
tăng lợi nhuận, bổ sung vốn tự có, góp phần củng cố và nâng cao năng lực tài
chính của ngân hàng.
c) Quy mô vốn đi vay.
 Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM và NHTƯ, hay giữa các NHTM với
nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào
vốn hoạt động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không
đủ hoạt động. Nói cách khác là ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng.
 Quy mô vốn vay thể hiện khả năng vay vốn của ngân hàng, nó cũng phản ánh năng
lực tài chính của ngân hàng bởi 1 ngân hàng mạnh có thể chủ đọng vay được 1
khối lượng vốn cần thiết, dễ dàng hơn so với các ngân hàng khác có năng lực tài
chính yếu, từ đó có thể tận dụng vốn đó để nắm bắt thời cơ kinh doanh hay đáp
ứng nhu cầu vốn khả dụng trong thanh toán, phòng ngừa rủi ro.
d) Quy mô vốn khác.
 Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được 1 khoản vốn
trong thanh toán: Vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo
chi, séc định mức và các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng chấp nhận hối phiếu
thương mại. Các khoản tiền tạm thời được trích từ tài khoản này nhập vào tài
khoản khác chờ sử dụng nên được coi là tiền nhàn rỗi.
 Quy mô vốn khác thể hiện khả năng gia tăng vốn của ngân hàng trong các hoạt
động cung ứng dịch vụ, nó cũng phần nào nói lên chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà
ngân hàng cung ứng.
e) Tỷ trọng từng loại vốn trong tổng nguồn vốn: Tỷ trọng của vốn tự có, vốn huy
động, vốn vay, vốn khác trong tổng nguồn vốn.
Cấu trúc vốn phân theo kỳ hạn là ngắn hạn, trung hay dài hạn, hoặc phân
theo chủ thể huy động vốn là cá nhân hay tổ chức, qua đó đánh giá cơ cấu nguồn
vốn hiên tại của ngân hàng đã đảm bảo phát huy tốt nhất năng lực tài chính của

ngân hàng hay chưa.
f) Tỷ lệ an toàn vốn.
Đánh giá khả năng và ý thức của 1 ngân hàng trong việc thực hiện đảm bảo an
toàn về vốn, cho thấy khả năng chống đỡ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng,
lành mạnh hóa tài chính. Theo yêu cầu của ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) và
chuẩn mực an toàn hoạt động ngân hàng của Ủy ban Basel, tỷ lệ an toàn vốn được
đánh giá qua hệ số đủ vốn CAR. Một ngân hàng được xem là đủ vốn khi tỷ lệ vốn
cấp I chia cho tài sản có đã điều chỉnh rủi ro tối thiểu bằng 4% và tổng vốn cấp I và
II chia cho tài sản có đã điều chỉnh rủi ro tối thiểu bằng 8%. Trong đó, vốn cấp I là
vốn nòng cốt gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ , quỹ dự phòng tài
chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, và lợi nhuận không chia. Vốn cấp 2 là vốn
bổ sung gồm 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được đánh giá lại theo
quy định của pháp luật, 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu
tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật,
trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành, các công
cụ và dự phòng chung. Tổng vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp I. Thông
thường khi nhắc đến CAR, hệ số này được hiểu là CAR loại II. Tỷ lệ này đã chỉ
cho chúng ta thấy quy mô vốn chủ sở hữu của các ngân hàng càng nhỏ thì càng hạn
chế hoạt động các ngân hàng. Nếu các ngân hàng có quy mô nguồn vốn nhỏ mà
vẫn mở rộng hoạt động của mình đến mức làm cho hệ số CAR bị thấp hơn mức tối
thiểu thì rủi ro đối với hoạt động của ngân hàng sẽ là rất lớn. Đây cũng chính là
thực tế mà các NHTM Việt Nam đã phải đối mặt trong suốt những năm qua. Việc
tăng cường năng lực tài chính của các NHTMNN Việt Nam để đáp ứng được yêu
cầu về tỷ lệ an toàn vốn cũng như để nâng cao năng lực cạnh tranh là 1 việc làm
không hề đơn giản. Nó đòi hỏi 1 khối lượng vốn đầu tư khổng lồ so với tiềm lực tài
chính còn rất hạn hẹp của nền kinh tế Việt Nam.
g) Vòng quay của vốn:
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của các ngân hàng là
do năng lực quản trị tài chính hạn chế, đặc biệt trong việc hoạch định nguồn tài trợ
dài hạn và quản trị vốn ngắn hạn, thể hiện qua tình trạng thiếu vốn, mất tính thanh

khoản.
Vòng quay của vốn =
Vòng quay vốn càng cao thê hiện tốc độ luân chuyển vốn càng cao, hiệu quả
sử dụng vốn là tốt. Ngược lại, vòng quay vốn thấp chứng tỏ khả năng luôn chuyển
vốn chậm, ngân hàng sử dụng vốn không hiệu quả.
Khi được so sánh trong một khoảng thời gian, nó sẽ cho biết mức độ ngân
hàng có thể phát triển mà không cần phải đầu tư thêm vốn. Nhìn chung, ngân hàng
có biên lợi nhuận cao thì có vốn quay vòng thấp và ngược lại. Nó còn được gọi là
quay vòng vốn cổ đông (Equity Turnover).
1.2.2.2. Khả năng sinh lời.
Khả năng sinh lợi (profitability): là thước đo hiệu quả bằng tiền, là điều kiện
cần nhưng chưa đủ để duy trì cân bằng tài chính. Việc đánh giá khả năng sinh lợi
phải dựa trên một khoảng thời gian tham chiếu. Khái niệm khả năng sinh lợi được
áp dụng trong mọi hoạt động kinh tế sử dụng các phương tiện vật chất, con người
và tài chính, thể hiện bằng kết quả trên phương tiện. Khả năng sinh lợi có thể áp
dụng cho một hoặc một tập hợp tài sản.
Ở cấp độ doanh nghiệp, khả năng sinh lợi là kết quả của việc sử dụng tập hợp
các tài sản vật chất và tài sản tài chính, tức là vốn kinh tế mà doanh nghiệp nắm
giữ. Nhìn chung, khả năng sinh lợi cần ít nhất đủ để đáp ứng được hai đòi hỏi cấp
bách:
 Đảm bảo duy trì vốn cho doanh nghiệp (đầu tư).
 Trả được các khoản lãi vay và đảm bảo hoàn trả khoản vay.
Lãi thu được từ các hoạt động sinh lợi trong năm tài khoá có thể được trích
chia cho cổ đông hoặc vẫn duy trì dưới dạng vốn dự trữ (reserve). Nếu không tính
tới thuế và lãi, khả năng sinh lợi của tài sản phải cho phép tích luỹ đủ tiền để đảm
bảo vốn sản xuất kinh doanh, đảm bảo hoàn trả nợ, đóng góp vào việc tăng vốn và
trả lợi nhuận đầu tư vốn cho các cổ đông.
Mọi quyết định và thay đổi về việc nắm giữ tài sản không chỉ làm nảy sinh
vấn đề tài chính mà còn làm nảy sinh cả vấn đề sinh lợi. Nếu khả năng sinh lợi
không đủ lớn, doanh nghiệp sẽ không đủ phương tiện để đáp ứng nhu cầu của

nhiều yếu tố sản xuất kinh doanh khác nhau. Thặng dư khi đó sẽ không đủ để duy
trì cân bằng tài chính.
Cần chú ý là khả năng sinh lợi của tài sản chỉ là một phần vấn đề nảy sinh từ
khả năng sinh của các nguồn vốn thực hiện. Trên thực tế, rủi ro trong hoạt động
của doanh nghiệp do các cổ đông gánh chịu. Lợi nhuận mà họ thu được không chỉ
phụ thuộc vào khả năng sinh lợi của tài sản mà còn phụ thuộc vào chi phí đi vay.
Yêu cầu về tỷ lệ sinh lợi tối thiểu phù hợp với khả năng bảo toàn vốn cho doanh
nghiệp và trả lợi nhuận đầu tư vốn sẽ kết nối trước hết chức năng tài chính với mọi
quyết định sử dụng tiền (tức là việc tạo hoặc thay đổi cấu trúc tài sản). Các kỹ
thuật ước lượng và tính toán khả năng thanh toán và khả năng sinh lợi sẽ được đề
cập trong các bài viết sắp tới.
Khả năng sinh lời của 1 ngân hàng được đo bằng các chỉ tiêu: Doanh số cho
vay, lợi nhuận, các tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu (ROE)…
Doanh số, cơ cấu cho vay và đầu tư: Đây là những chỉ tiếu phản ánh tình
hình, quy mô, khả năng cung ứng tín dụng đối với nền kinh tế, hiệu quả sử dụng
vốn của ngân hàng, từ đó quyết định kết quả kinh doanh, lợi nhuận của ngân
hàng. Một cơ cấu danh mục đầu tư và cho vay hợp lý và bảo đảm an toàn giúp
ngân hàng sử dụng có hiệu quả tối đa khối lượng vốn khả dụng của mình.
Một ngân hàng có các chỉ tiêu thu nhập, lợi nhuận cao là cơ sở tốt để ngân

×