Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm của sinh viên một số trường đại học trên địa bàn thành phố hồ chí minh​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.42 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ HỌC

NGUYỄN THỊ NGỌC THƯ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

HÀNH VI BẮT NẠT TẠI NƠI LÀM
THÊM CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học

Thành phố Hồ Chí Minh, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM TP HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ HỌC

HÀNH VI BẮT NẠT TẠI NƠI LÀM THÊM
CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Thư
Người hướng dẫn: Th.S Đào Thị Duy Duyên

Thành phố Hồ Chí Minh, 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn của
Th.S Đào Thị Duy Duyên. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong
luận văn này là trung thực, chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nghiên
cứu nào khác.
TpHCM, ngày 25 tháng 04 năm 2019
Nguyễn Thị Ngọc Thư


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BN
BBN

Bắt nạt
Bị bắt nạt

CK

Chứng kiến

ĐTB

Điểm trung bình

NLT

Nơi làm thêm

SVBBN


Sinh viên bị bắt nạt

SVCK

Sinh viên chứng kiến

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TT

Thứ tự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI BẮT NẠT TẠI NƠI LÀM
THÊM CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH......................................................................................6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành vi bắt nạt sinh viên tại nơi làm
thêm.................................................................................................................................................... 6
1.1.1. Nghiên cứu ngoài nước về hành vi bắt nạt sinh viên tại nơi làm thêm....6
1.1.2. Nghiên cứu tại Việt Nam về hành vi bắt nạt sinh viên tại nơi làm thêm .. 8

1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm của sinh
viên................................................................................................................................................... 12
1.2.1. Lý luận về hành vi..................................................................................... 12
1.2.2. Lý luận về hành vi bắt nạt........................................................................ 15
1.2.3. Lý luận về hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm của sinh viên.....................22


CHƯƠNG 2 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HÀNH VI BẮT
NẠT TẠI NƠI LÀM THÊM CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.....................................................32
2.1. Tổ chức nghiên cứu................................................................................................ 32
2.1.1. Địa bàn nghiên cứu.................................................................................... 32
2.1.2. Khách thể nghiên cứu................................................................................ 32
2.1.3. Quá trình nghiên cứu................................................................................ 34
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm của sinh
viên một số trường đại học trên địa bàn TPHCM......................................................... 40
2.2.1.Phần dành cho sinh viên bị bắt nạt tại nơi làm thêm…………………...40
2.2.2. Phần dành cho sinh viên chứng kiến vụ bắt nạt tại nơi làm thêm.........63
2.2.3. So sánh về mức độ ảnh hưởng của hành vi bắt nạt đến sinh viên, đến công

việc làm thêm của sinh viên theo giới tính, theo kinh nghiệm làm thêm và theo
trường học.................................................................................................................... 69

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...............................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TRONG ĐỀ TÀI.............................78
PHỤ LỤC 1 - BIỂU ĐỒ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI........................82


PHỤ LỤC 2 - BẢNG HỎI DÙNG TRONG KHẢO SÁT ĐỀ TÀI.................84
PHỤ LỤC 3 - BẢNG HỎI PHỎNG VẤN CHO SINH VIÊN CHỨNG KIẾN HÀNH

VI BẮT NẠT TẠI NƠI LÀM THÊM........................................................................ 94


DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN


TÊN BẢNG

SỐ
TRANG

Bảng 2.1 - Đặc điểm của khách thể nghiên cứu

32

Bảng 2.2 - Mã hóa các thang đo

40

Bảng 2.3 - Quy điển trung bình các thang đo

40

Bảng 2.4 - Sinh viên tự đánh giá chung về trải nghiệm bị bắt nạt tại
nơi làm thêm

41

Bảng 2.5 - Tần số, tỉ lệ % mức độ bị bắt nạt tại nơi làm thêm của
SV toàn mẫu dựa trên thang đo biểu hiện hình thức bắt nạt tại nơi

42

làm thêm.
Bảng 2.6 - Xếp loại các nhóm hình thức bắt nạt


43

Bảng 2.7 - Nhóm hình thức bắt nạt bằng cơng việc

43

Bảng 2.8 - Nhóm hình thức bắt nạt bằng cách tẩy chay

46

Bảng 2.9 - Nhóm hình thức bắt nạt bằng cách tấn công cá nhân
hoặc cuộc sống cá nhân

47

Bảng 2.10 - Nhóm hình thức bắt nạt bằng cách đe dọa bằng lời nói

48

Bảng 2.11 - Nhóm hình thức bắt nạt bằng cách lan truyền tin đồn

49

Bảng 2.12 - Nhóm hình thức bắt nạt bằng bắt nạt thể chất

50

Bảng 2.13 - Đối tượng thực hiện hành vi bắt nạt sinh viên tại nơi
làm thêm


51

Bảng 2.14 - Nhận thức của sinh viên về đặc điểm của đối tượng dễ
bị bắt nạt tại nơi làm thêm

52

Bảng 2.15 - Cách phản ứng của sinh viên với tình trạng bị bắt nạt
tại nơi làm thêm

54

Bảng 2.16 - Ảnh hưởng của hành vi bắt nạt đến tâm lý của sinh
viên bị bắt nạt tại nơi làm thêm

56

Bảng 2.17 - Ảnh hưởng của hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm đến

57


cảm xúc của sinh vên
Bảng 2.18 - Ảnh hưởng của hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm đến
thái độ của sinh viên
Bảng 2.19 - Ảnh hưởng của hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm đến
hành vi của sinh viên
Bảng 2.20 - Ảnh hưởng của hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm đến
tâm lý và thể chất của sinh viên
Bảng 2.21 - Ảnh hưởng của hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm đến

công việc của sinh viên
Bảng 2.22 - Thống kê về số sinh viên đã từng chứng kiến vụ bắt
nạt tại nơi làm thêm
Bảng 2.23 - Các trường hợp sinh viên từng chứng kiến vụ bắt nạt
tại nơi làm thêm
Bảng 2.24 - Đối tượng bắt nạt sinh viên qua chứng kiến của sinh
viên chứng kiến vụ bắt nạt tại nơi làm thêm
Bảng 2.25 - Cách phản ứng của sinh viên khi chứng kiến vụ bắt
nạt tại nơi làm thêm
Bảng 2.26 - Khác biệt về ảnh hưởng của hành vi bắt nạt đến sinh
viên, công việc của sinh viên theo giới tính
Bảng 2.27 - Khác biệt về ảnh hưởng của hành vi bắt nạt đến sinh
viên, công việc của sinh viên theo kinh nghiệm làm thêm
Bảng 2.28 - Khác biệt về ảnh hưởng của hành vi bắt nạt đến sinh
viên, công việc của sinh viên theo trường học

58

60

61
62
63
64

65

66

70


70

71


DANH MỤC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

TÊN BIỂU ĐỒ

SỐ TRANG

1.Tần số và tỉ lệ % SVBBN khi đi làm thêm

83

2.Ảnh hưởng của bắt nạt đến tâm lý của sinh viên

83

3.Ảnh hưởng của hành vi bắt nạt đến sinh viên

84


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại Việt Nam, hành vi bắt nạt đang dành sự quan tâm lớn từ các nhà giáo dục,

nhà nghiên cứu lẫn sự quan tâm của bậc phụ huynh và báo chí. Vì hiện nay tại Việt
Nam, nhắc đến bạo lực, đa số nghĩ ngay đến bắt nạt học đường với nhiều hành vi
bắt nạt từ thể chất (đánh nhau) đến bắt nạt bằng lời nói, thái độ để đàn áp tâm lý đối
phương. Trong thời gian gần đây, bắt nạt học đường xuất hiện hình thức bắt nạt mới
là bắt nạt qua mạng, qua truyền thơng.
Trước tình hình đó có nhiều cuộc nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong
nước xem xét, khảo sát tình trạng bắt nạt học đường. Và bằng chứng là có nhiều kết
quả nghiên cứu được cơng bố, nhiều luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về tình trạng
này. Có thể kể đến như cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Duyên, “Học
sinh bắt nạt học sinh: Thực trạng và giải pháp” (2016) được tiến hành trên 303 em
học sinh từ lớp 6 đến lớp 112 của tỉnh Bắc Ninh. Các báo chí hay các tin tức thời sự
trực tiếp đều ưu tiên cho các vụ việc về bắt nạt học đường và tác hai của nó.
Như vậy, tại Việt Nam, nhắc đến bắt nạt, người ta bị “đóng khung” suy nghĩ
vào tình trạng bắt nạt tại môi trường học đường thay cho các môi trường khác.
Tuy nhiên, trong thực tế, bắt nạt có thể diễn ra tại bất kỳ mơi trường nào, trong
đó, có cả mơi trường làm việc.
Tại các nước châu Âu và châu Mỹ, tình trạng bắt nạt tại nơi làm việc đã nhận
được sự quan tâm nghiên cứu và tìm hướng giải quyết tình trạng của nhiều nhà nghiên
cứu về tâm lý học, về nhân sự. Kể từ năm 1990, khái niệm “bắt nạt công sở” được nhắc
đến đầu tiên bởi bác sĩ người Thụy Điển Heinz Leymann, nó đã trở thành đề tài nghiên
cứu của những năm 1990 (dẫn theo tác giả Nguyễn Ngọc Anh, 2016). Thế nhưng, các
nghiên cứu trong nước chưa có nhiều những nghiên cứu theo hướng nghiên cứu về
hành vi bắt nạt tại nơi làm việc. Về báo chí, có rất nhiều những bài báo viết về lý do bị
bắt nạt tại công sở, về những dấu hiệu của kẻ bắt nạt công sở hay dấu


2

hiệu bản thân đã bị bắt nạt, có những bài báo sẽ tập trung viết về các giải pháp
phòng chống lại tình trạng bị bắt nạt tại cơng sở. Nhưng, đến nay, vẫn chưa có nhiều

những cơng trình nghiên cứu về hiện tượng bắt nạt tại nơi làm việc và ảnh hưởng
của nó đến đời sống tinh thần của người lao động trong mơi trường có bắt nạt.
Một nghiên cứu về mức độ chấp nhận bắt nạt tại nơi làm việc trên qui mô cả 6
châu lục được thực hiện năm 2013 của tác giả David Holman và cộng sự đã chỉ ra,
Việt Nam là một trong quốc gia chấp nhận hành vi bắt nạt tại nơi làm việc như một
hành vi thông thường. Điều này đã phần nào lý giải vì sao, đến thời điểm hiện tại,
có rất ít các nghiên cứu hay bài báo tại Việt Nam tập trung khảo sát, tìm hiểu về
hành vi bắt nạt trong môi trường làm việc.
Sinh viên trong thời đại hiện nay không chỉ dành thời gian cho việc học trên
trường, mà đa số sinh viên dành thời gian để đi làm thêm và dần sống tự lập hơn. Môi
trường làm thêm của sinh viên vẫn là một dạng môi trường làm việc đúng nghĩa. Do
đó, có thể có tình trạng bắt nạt diễn ra trong môi trường làm thêm của sinh viên.

Đã có nhiều những luận văn tốt nghiệp, những thống kê do sinh viên thực hiện
về đề tài sinh viên với việc làm thêm. Tuy nhiên, các nghiên cứu hay thống kê này
chỉ tập trung vào lợi ích - tác hại của việc làm thêm đối với hiệu quả học tập của
sinh viên. Có rất nhiều những bài báo viết về đề tài sinh viên và việc làm thêm,
nhưng nội dung chính vẫn xoay quanh những lợi ích - tác hại có thể có của việc đi
làm đối với việc học của sinh viên. Như vậy, tình trạng bắt nạt tại nơi làm thêm của
sinh viên đang thiếu hụt về mảng nghiên cứu, thống kê.
Có ý kiến cho rằng: đi làm thêm của sinh viên là việc làm khơng chính thức, nếu
sinh viên bị bắt nạt và không thể tiếp tục, có thể xin nghỉ tại nơi đó, khơng nhất thiết
phải cần nghiên cứu về vấn đề này. Thế nhưng, người nghiên cứu nhận ra rằng, việc
sinh viên nghỉ làm tại nơi có hành vi bắt nạt đối với mình chỉ là giải pháp tạm thời, vì
tùy theo tính cách và mức độ của hành vi bắt nạt, mà hậu quả sẽ khác nhau. Sẽ có
những sinh viên dễ dàng vượt qua tác động của hành vi bắt nạt, nhưng ngược lại, có
sinh viên sẽ bị tác động mạnh mẽ từ hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm và có sự thay


3


đổi sau khi bị bắt nạt (có nhiều nghiên cứu ngoài nước đã cho thấy hành vi bắt nạt tại
nơi làm việc có tác động tiêu cực đến sức khỏe tinh thần của nạn nhân bị bắt nạt).
Nhận thấy được một tình trạng đang diễn ra trong giới sinh viên và thiếu hụt các
nghiên cứu khoa học về tình trạng này, xuất phát từ sự quan tâm của bản thân người
nghiên cứu, nên đề tài “Hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm của sinh viên một số
trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” được chọn thực hiện.

2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu thực trạng sinh viên của một số trường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh bị bắt nạt tại nơi làm thêm. Trên cơ sở đó một số kiến nghị nhằm hỗ trợ sinh
viên hạn chế tình trạng bị bắt nạt tại nơi làm thêm.
3. Đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hành vi bắt nạt sinh viên tại nơi làm thêm.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên có đi làm thêm hiện đang học tại 2 trường đại học: Khoa học Tự
nhiên TpHCM và Đại học Sư phạm TpHCM.
4. Giả thuyết nghiên cứu.
4.1. Sinh viên một số trường ĐH trên địa bàn TPHCM khi đi làm thêm thỉnh
thoảng bị bắt nạt tại nơi làm thêm
4.2. Các hình thức bắt nạt sinh viên tại nơi làm thêm chủ yếu trên phương diện
bắt nạt tâm lý của sinh viên.
4.3. Bắt nạt tại nơi làm thêm có ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân sinh viên bị
bắt nạt và công việc của sinh viên đó.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.Hệ thống các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài


4


5.2. Khảo sát thực trạng sinh viên của 2 trường Đại học Khoa học Tự nhiên và
Đại học Sư phạm TpHCM bị bắt nạt khi đi làm thêm. Và đề xuất một số kiến nghị
hỗ trợ sinh viên hạn chế tình trạng bị bắt nạt khi đi làm thêm.
6. Phạm vi nghiên cứu:
6.1.

Về nội dung:

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về hành vi bắt nạt thông qua nghiên cứu các biểu
hiện bắt nạt từ nhóm sinh viên bị bắt nạt và nhóm người chứng kiến hành vi bắt nạt.

Đề tài chưa tập trung nghiên cứu về nhóm chủ thể thực hiện bắt nạt.
6.2.

Về thời gian:

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11/2018 đến đầu tháng 04/2019.
6.3.

Về mẫu nghiên cứu:

Nghiên cứu khảo sát trên 247 sinh viên các năm 1, năm 2, năm 3 và năm 4 có đi
làm thêm thuộc 2 trường trên địa bàn TPHCM là: Đại học Khoa học Tự nhiên và
Đại học Sư phạm.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1.

Phương pháp nghiên cứu lý luận:


Phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận có liên quan để xây dựng khung lý
thuyết cho đề tài như: bắt nạt, các biểu hiện của bắt nạt, bị bắt nạt, người chứng
kiến. Bắt nạt tại nơi làm thêm, biểu hiện bắt nạt tại nơi làm thêm….
7.2.

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Mục tiêu phương pháp: Đây là phương pháp chính của đề tài nhằm mục đích
khảo sát thực trạng bị bắt nạt khi đi làm thêm của sinh viên thuộc 2 trường đại học
trên địa bàn thành phố.


5

Đối tượng khảo sát: Sinh viên năm 1, 2, 3 và năm 4 thuộc 2 trường đại học
Khoa học Tự nhiên TpHCM và đại học Sư phạm TpHCM và có đi làm thêm.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn:
Mục tiêu phương pháp: Tìm hiểu cụ thể hơn về thực trạng bắt nạt sinh viên tại
nơi làm thêm và nguyên nhân dẫn đến cách phản ứng của nhóm sinh viên chứng
kiến vụ băt nạt.
Đối tượng được phỏng vấn: Sinh viên tham gia khảo sát và có câu trả lời là
chứng kiến vụ bắt nạt sinh viên tại nơi làm thêm.
7.2.3. Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 để xử lý thống kê như: tần số, tỉ lệ
phần trăm, trung bình, phương sai, kiểm định T-test, kiểm định ANOVA,…làm cơ
sở để bình luận số liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.


6


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI BẮT NẠT TẠI NƠI LÀM
THÊM CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành vi bắt nạt sinh viên tại nơi làm
thêm.
1.1.1. Nghiên cứu ngoài nước về hành vi bắt nạt sinh viên tại nơi làm
thêm
Vấn đề về bắt nạt tại nơi làm việc là đối tượng nghiên cứu của nhiều tác giả tại
nước ngoài. Cụ thể như:
Khái niệm “bắt nạt công sở” hay bắt nạt tại nơi làm việc được đề cập đầu tiên
bởi bác sĩ tâm thần người Thụy Điển Heinz Leymann vào những năm 1990 (Namie,
2003). Kể từ đó khái niệm về bắt nạt tại nơi làm việc đã nhận nhiều sự quan tâm
trong giới học thuật. Một loạt những sách và bài báo cũng như nghiên cứu khoa học
viết về nó đã được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng châu Âu. (Einarsen, 2011).
Hướng nghiên cứu đo lường vấn đề bắt nạt tại nơi làm việc:
Cơng trình nghiên cứu mang tên “Measuring workplace bullying” (Tạm
dịch: Đo lường về bắt nạt tại nơi làm việc) của tác giả Helen Cowie và cộng sự tiến
hành năm 2002 đã chỉ ra thực tế rằng, khó khăn trong nghiên cứu về bắt nạt trong
các tổ chức là thiếu kỹ thuật đo lường thích hợp. Nhóm tác giả đã xem xét các
phương pháp nghiên cứu hiện tại đang được sử dụng để nghiên cứu về hành vi bắt
nạt trong các tổ chức. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả chỉ ra rằng, phương
pháp tiếp cận đa phương pháp (bao gồm cả nghiên cứu trường hợp) có thể là
phương pháp nghiên cứu hữu ích cho các nhà nghiên cứu về tình trạng bắt nạt.
Nghiên cứu “Workplace bullying: measurements and metrics to use in the NHS”
(Tạm dịch: Bắt nạt tại nơi làm việc: Các phép đo lường và số liệu để sử dụng trong
NHS) của nhóm tác giả Prof Jan Illing, Mr Neill Thompson, Dr Paul Crampton, Mrs
Charlotte Rothwell, Ms Amelia Kehoe, Dr Madeline Carter tiến hành vào vào



7

năm 2015 - 2016 đã cố gắng xác định hành vi bắt nạt tại nơi làm việc làm thế nào có
thể tồn tại theo thời gian, từ đó chỉ ra các biện pháp để thay đổi thực trạng bắt nạt tại
nơi làm việc và cung cấp số liệu có thể phục vụ cho các ngành khác tại Anh và quốc
tế.
Hướng nghiên cứu về bản chất của bắt nạt và các yếu tố liên quan đến bắt
nạt tại nơi làm việc
Trong một bài báo khoa học có tên “Automatic sources of aggression” (Tạm
dịch: Nguồn gốc tự động hóa của sự gây hấn) năm 2002 của tác giả Alexander
Todorov và cộng sự, đã nghiên cứu mối liên hệ đặc biệt giữa tính tự động trong vơ
thức được kích hoạt bởi các yếu tố mơi trường và tính gây hấn ở con người.
Một nghiên cứu khác của tác giả Jane Goodman và cộng sự vào năm 2007 có
tên gọi “Defining workplace bullying behaviour professional lay definitions of
workplace bullying” (Tạm dịch: Xác định hành vi bắt nạt công sở chuyên nghiệp
đặt trong việc định nghĩa về hành vi bắt nạt công sở). Đây là cuộc nghiên cứu với
mục đích xác định một định nghĩa mới cho thuật ngữ bắt nạt tại nơi làm việc, các
biểu hiện của chúng tại môi trường làm việc chuyên nghiệp và tác động tiêu cực của
hành vi này đến nhân viên.
Nghiên cứu “Workplace bullying and its relation with work characteristics,
personality, and post-traumatic stress symptoms: an integrated model” (Tạm dịch:
Bắt nạt tại nơi làm việc và mối quan hệ của nó với tính chất cơng việc, cá tính và
triệu chứng cẳng thẳng sau chấn thương: một mơ hình tích hợp) của nhóm tác giả
Cristian Balducci, Franco Fraccaroli và Wilmar B. Schaufeli được tiến hành vào
khoảng năm 2009 - 2010, đã nghiên cứu về mối liên hệ giữa hành vi bắt nạt tại nơi
làm việc với tính chất cơng việc, cá tính và các triệu chứng căng thẳng sau chấn
thương. Nghiên cứu này cịn đưa ra một mơ hình thử nghiệm tích hợp, trong đó, yếu
tố về mơi trường và cá tính được xem là tiền đề của hành vi bắt nạt và triệu chứng
stress sau chấn thương.



8

Nhóm tác giả D.Zapf, Hole, Einarsen, Cooper đã cho xuất bản tập sách
“Bullying and Harassment in the Workplace” (Tạm dịch: Bắt nạt và Quấy rối tại
nơi làm việc) vào năm 2011. Đây là tập sách tập hợp các nghiên cứu của chính
nhóm tác giả về hành vi bắt nặt tại nơi làm việc tại các môi trường làm việc ở châu
Âu và Bắc Mỹ, các nghiên cứu về hành vi quấy rối tại nơi làm việc, các lý giải
nguyên nhân của hành vi bắt nạt tại nơi làm việc, các bằng chứng thực nghiệm về
hiện tượng bắt nạt tại nơi làm việc.
Cuộc nghiên cứu “Acceptability of workplace bullying: A comparative study
on six continents” (Tạm dịch: Việc chấp nhận bắt nạt tại nơi làm việc: Một so sánh
trên sáu châu lục) được tiến hành bởi David Holman và 21 cộng sự khác năm 2013.
Nghiên cứu được tiến hành trên phạm vi 6 châu lục để khám phá lần đầu tiên mối
liên hệ giữa yếu tố văn hóa và khả năng chấp nhận bắt nạt tại nơi làm việc. Cuộc
nghiên cứu cho thấy rằng nền văn hóa châu Á dễ chấp nhận hành vi bắt nạt liên
quan đến công việc hơn là cụm quốc gia châu Phi, Mỹ Latinh và các quốc gia châu
Phi thuộc vùng cận Sahara.
Như vậy, các nghiên cứu về tình trạng bắt nạt tại nơi làm việc ln thu hút sự
quan tâm của số đông những nhà nghiên cứu. Các nghiên cứu về bắt nạt không chỉ
quan tâm tìm hiểu về tình trạng bắt nạt đang diễn ra trong các tổ chức làm việc, mà
còn quan tâm đến tác động của nó đến đời sống tinh thần của nhân viên, mối quan
hệ của nó với mơi trường của tổ chức. Một số nghiên cứu cố gắng tìm kiếm một
phương pháp thích hợp để đo lường về hiện tượng này.
Các nghiên cứu đã góp phần giúp người nghiên cứu có cái nhìn trọn vẹn hơn
về hiện tượng bắt nạt tại nơi làm việc. Trong đó, có một vài nghiên cứu đã giúp
người nghiên cứu thêm ý tưởng cho đề tài này, chẳng hạn, việc hình thành định
nghĩa mới trong đề tài, nhìn nhận các ảnh hưởng của bắt nạt đến phương diện tâm
lý của nạn nhân.
1.1.2. Nghiên cứu tại Việt Nam về hành vi bắt nạt sinh viên tại nơi làm

thêm


9

Hiện nay, các nhà nghiên cứu trong nước đang đang dành nhiều sự quan tâm về
bắt nạt, nhưng chủ yếu là hướng nghiên cứu hiện tượng bắt nạt diễn ra trong môi
trường học đường.
Hướng nghiên cứu bắt nạt xảy ra trong học đường
Nguyễn Thị Nga ( 2011) với luận văn thạc sĩ “Tìm hiểu hiện tượng bị bắt nạt
ở học sinh phổ thông”, được tiến hành trên học sinh cả 3 cấp học từ tiểu học đến trung
học phổ thông. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh trung học phổ thông bị bắt nạt
chiếm tỉ lệ khá lớn, và hình thức biểu hiện lẫn mức độ của hiện tượng bị bắt nạt thay

đổi theo từng độ tuổi, cấp học.
Nguyễn Thị Duyên với đề tài “Học sinh bắt nạt học sinh: Thực trạng và giải
pháp” được tiến hành trong vòng 1.5 năm trên học sinh cấp 2. Kết quả nghiên cứu tìm
hiểu mức độ và hình thức của hành vi bắt nạt học sinh; địa điểm các em bị bắt nạt và
cảm xúc - thái độ - phản ứng của các em khi đối diện với hành vi bắt nạt. Một nghiên
cứu khác của Nguyễn Thị Duyên “Nghiên cứu mối liên hệ giữa đặc điểm nhân cách và
hiện tượng bắt nạt ở học sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, được tiến hành
trong vòng 6 tháng (từ 09/2011 đến 02/2012) trên khách thể nghiên cứu là

303 học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Nghiên cứu cho thấy
hiện tượng bắt nạt bao gồm cả bắt nạt và bị bắt nạt có tương quan với nhân cách học
sinh, có sự khác nhau giữa nhân cách thủ phạm và nhân cách học sinh. Nghiên cứu
này không dừng lại ở mức độ mô tả thực trạng mà bắt đầu nghiên cứu sâu hơn về
bắt nạt thơng qua tìm hiểu mối liên hệ giữ bắt nạt với đặc điểm nhân cách.
Trần Văn Công và cộng sự (2015) tìm hiểu mối quan hệ giữa bắt nạt trực tuyến
và cách ứng phó của học sinh trung học khi các em bị bắt nạt trực tuyến được trình bày

trong bài báo khoa học “Chiến lược ứng phó của học sinh với bắt nạt trực tuyến”.
Nghiên cứu được thực hiện trên 736 học sinh của 8 trường THCS và THPT ở Hà Nội,
Hà Nam và Hải Dương. Kết quả cho thấy 183 học sinh (chiếm 24% tổng số khách thể
nghiên cứu) là nạn nhân của ít nhất một hình thức bắt nạt trực tuyến. Mức độ và hình
thức bị bắt nạt ở nạn nhân có sự khác biệt xét về mặt giới tính, khu vực sống, độ


10

tuổi và cấp học. Nạn nhân thường ít chia sẻ việc mình bị bắt nạt, và lảng tránh vấn
đề này, tuy vậy các em nhận thức được sự nghiêm trọng của bắt nạt trực tuyến, coi
đó khơng phải chuyện bình thường chỉ xảy ra trên mạng.
Lê Thị Hải Hà và cộng sự ( 2016) với nghiên cứu “Giá trị và độ tin cậy của
thang đo bị bắt nạt học đường và qua mạng: Kết quả nghiên cứu với học sinh đô thị
Hà Nội và Hải Dương”. Nghiên cứu khảo sát bằng bảng hỏi tự điền với 1.424 học
sinh phổ thông cơ sở và phổ thông trung học ở Hà Nội và Hải Dương năm 2014,
bảng hỏi được tham khảo từ bộ câu hỏi của Olweus và Ybarra. Kết quả khẳng định
bảng hỏi đảm bảo chất lượng
Trần Văn Công (2017) thực hiện nghiên cứu “Thực trạng bắt nạt học sinh ở
Việt Nam” trên 955 học sinh của 7 trường tiểu học và trung học cơ sở trên địa bàn
nội và ngoại thành Hà Nội, độ tuổi trung bình là 11,3. Kết quả cho thấy 344 học
sinh (chiếm 36% tổng số khách thể nghiên cứu) thường xuyên bị bắt nạt bởi ít nhất
một loại hình. Trong đó, có 122 em (chiếm 12,8% tổng số khách thể nghiên cứu) bị
bắt nạt bởi 2 đến 5 hình thức. Đề tài cũng nêu ra một số yếu tố có ý nghĩa dự đốn
mức độ học sinh khi bị bắt nạt ở từng loại hình khác nhau.
Tóm lại, hướng nghiên cứu về bắt nạt học đường tập trung nghiên cứu về mức
độ bị bắt nạt, hình thức biểu hiện của bắt nạt, phản ứng với hành vi bắt nạt, mối liên
hệ giữa hành vi bắt nạt với nhân cách học sinh, đã cung cấp một số hiểu biết về bắt
nạt học đường về lý luận và thực trạng bắt nạt học đường hiện nay. Những nghiên
cứu này cũng giúp người nghiên cứu tham khảo về cơ sở lý luận và một số biểu hiện

của bắt nạt để xây dựng cơ sở lý luận về bắt nạt nói chung cho đề tài, đồng thời giúp
tham khảo ý tưởng để soạn thang đo về bắt nạt tại nơi làm thêm.
Hướng nghiên cứu về bắt nạt công sở, nơi làm việc, làm thêm
Khi tìm hiểu hướng nghiên cứu về bắt nạt tại nơi làm việc hoặc nơi làm thêm,
trong giới hạn tìm hiểu, người nghiên cứu chưa thấy nhiều nghiên cứu một cách bài
bản về vấn đề này trong nước. Mà chỉ tìm thấy một số kết quả là những bài viết liên
quan đến bắt nạt công sở. Điển hình như: Nguyễn Thị Ngọc Anh (2016) “Workplace


11

Bullying (Bắt nạt cơng sở ) - Liệu bạn có đủ can đảm để làm điều đúng?”. Trong bài
viết này, tác giả trình bày những lĩnh vực nghề nghiệp hay xảy ra bắt nạt, khái niệm
bắt nạt công sở, các hình thức của bắt nạt cơng sở, đặc điểm của bắt nạt cộng sở, đặc
điểm của nạn nhân bị bắt nạt công sở, định nghĩa chủ thể bắt nạt, nguyên nhân gây
bắt nạt công sở, ảnh hưởng của bắt nạt cơng sở và đối phó với bắt nạt cơng sở.
Ngồi ra, khi tìm kiếm trên google với từ khóa “ bắt nạt nơi làm việc ” người
nghiên cứu tìm được 1.020 kết quả bài viết về vấn đề này. Các bài viết dưới cung
cấp nhiều thông tin, hiểu biết liên quan đến bắt nạt tại nơi làm việc, công sở. Điển
hình như:
Bài viết “Những dấu hiệu bắt nạt nơi cơng sở” trên trang NCBlog – NanaPet
Community Blog (2015) đã nêu khái niệm bắt nạt nơi công sở, nêu 20 dấu hiệu
chung cho biết bắt nạt đang diễn ra tại nơi làm việc, 11 dấu hiệu công khai cho thấy
bắt nạt đang diễn ra rõ ràng hơn
Báo Dân trí có bài đăng ngày 12/04/2008 với tựa đề “Bạn đang bị bắt nạt nơi
công sở?” đã chỉ ra tác hại của việc bị bắt nạt nơi công sở và 10 dấu hiệu chứng tỏ
một các nhân bị bắt nạt tại nơi làm việc của họ.
Bài đăng của báo Thanh niên ngày 2/12/2018 có tựa đề “Nạn nhân của baọ
lực, lạm dụng dễ bị đau tim, đột quỵ” đã đề cập đến kết quả của một cuộc nghiên
cứu đăng trên chuyên san European Heart Journal. Theo đó, bài báo viết rằng “nếu

loại bỏ được tình trạng bị bắt nạt tại nơi làm việc có thể giúp chúng ta tránh được
5% nguy cơ mắc bệnh tim”.
Lê Thương (2008) trong bài viết tiêu đề “ Kiệt sức nghề nghiệp” đã chỉ ra
mối liên hệ giữa tình trạng căng thẳng nghề nghiệp với bắt nạt cơng sở “bạn đang bị
bắt nạt công sở, bạn cảm thấy bị tổn thương bởi các cộng sự hoặc sếp quản lý quá
khắt khe. Điều này có thể góp phần vào căng thẳng nghề nghiệp”
Như vậy, có thể thấy bắt nạt tại nơi làm việc là một lĩnh vực được đề cập đến
nhiều dưới dạng những thông tin phổ thông, nhưng chưa phổ biến các nghiên cứu bài


12

bản khoa học về vấn đề này ở nước ta, nó cần phải được quan tâm hơn để bổ sung
những kết quả nghiên cứu mang tính khoa học về vấn đề này ở nước ta.
Hướng nghiên cứu về bắt nạt trên khách thể là sinh viên
Nguyễn Thị Hường ( 2014) với luận văn “ Tìm hiểu thực trạng sinh viên nữ bị
bạo hành” tìm hiểu trên 250 sinh viên nữ ở hai trường cao đẳng, đại học đã cho kết
quả: tỷ lệ sinh viên bị bạo hành tương đối cao. Sinh viên bị bạo hành nhiều nhất là
bạo hành về tinh thần, sau đó là bạo hành về thể chất. Bạo hành về tình dục và bạo
hành về kinh tế có tỷ lệ thấp hơn. Sinh viên có nguy cơ bị bạo hành thể chất, tinh
thần, tình dục là nhóm sinh viên sống cùng người yêu/ chồng, sống ở kí túc xá hoặc
nhà trọ, kết hơn, có người u hơn nhóm sinh viên sống cùng cha mẹ, chị em ruột,
bạn bè, sống trong nhà của cha mẹ.
Bài viết của tác giả Âu Việt (2018) “Sinh viên đi làm thêm: Lương đã thấp rồi
cịn dễ bị bắt nạt vì thiếu kinh nghiệm sống” đăng trên trang docbao.vn, đã đề cập
đến những tình huống mà sinh viên đi làm thêm bị o ép, bắt nạt về lương bổng, về
cách ứng xử với đồng nghiệp, vấn đề thiếu kinh nghiệm dẫn đến bị bắt nạt. Những
bài viết này là nguồn tư liệu để giúp người nghiên cứu có những ý tưởng nghiên cứu
cụ thể về những vấn đề liên quan đến việc sinh viên bị bắt nạt tại nơi làm thêm cho
đề tài này.

Tóm lại, trong giới hạn tìm hiểu của người nghiên cứu chưa thấy có nhiều
nghiên cứu về bắt nạt ở sinh viên, đặc biệt là bắt nạt tại nơi làm thêm. Do đó, đề tài
nghiên cứu tập trung vào vấn đề là một hướng nghiên cứu mới và cần thiết ở nước
ta để khái quát cơ sở lý luận và cung cấp kêt quả thực trạng bắt nạt tại nơi làm thêm
của sinh viên để làm phong phú thêm kết quả nghiên cứu khoa học về lĩnh vực này.
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến hành vi bắt nạt tại nơi làm thêm
của sinh viên
1.2.1. Lý luận về hành vi
1.2.1.1.

Khái niệm về hành vi


13

Hiện nay, thuật ngữ hành vi chưa được định nghĩa một cách rõ ràng và dứt
khoát. Tùy vào từng trường hợp sử dụng mà thuật ngữ hành vi, hoạt động, cách ứng
xử, cách phản ứng được dùng thay thế nhau .
Theo tác giả Hồng Phê (2000) thì hành vi được định nghĩa là: “là tồn bộ nói
chung những phản ứng hay cách cư xử biểu hiện ra bên ngồi, có thể quan sát được
của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định”. Như vậy, tác giả Hồng Phê
nhìn nhận hành vi là cách ứng xử được thể hiện ra bên ngoài, diễn ra trong một hoàn
cảnh cụ thể và người khác có thể quan sát được hành vi đó.
Theo tác giả Vũ Dũng (2000) thì hành vi là sự tác động qua lại giữa cơ thể sống
và môi trường xung quanh, do tính tích cực bên ngồi (kích thích) và bên trong (nhu
cầu) thúc đẩy.
Trong cách nhìn nhận của trường phái Tâm lý học hành vi do nhà tâm lý học
người Mỹ J.B.Watson khởi xướng, thì hành vi được xem là tổng số các phản ứng
(Response) của cơ thể đáp lại các kích thích (Stimulus) từ mơi trường bên ngồi.
Trường phái tâm lý học hành vi cịn nổi tiếng với công thức về mối quan hệ tương

ứng giữa hành vi và môi trường sống : S → R. Về sau, nhà tâm lý học Skinner đã bổ
sung thêm vào công thức trên một yếu tố C (Consequence), là kết quả của hành vi
được thực hiện. Lúc này công thức được phát triển thành: S → R → C. Như vậy,
tâm lý học hành vi đã máy móc hóa hành vi của con người, xem nó đơn thuần là
cách phản ứng của con người trước các tác nhân của môi trường, mà không xem xét
đến các yếu tố bên trong của tâm lý người.
Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn (2014), khi phân tích sơ đồ cấu trúc hoạt động của
A.N.Leontiev, đã chỉ ra hoạt động cụ thể được hợp thành bởi nhiều hành động. Nói
cách khác, một hoạt động được thực hiện bởi một chuỗi các hành động. Mỗi phương
tiện sẽ qui định cách thức hành động khác nhau ứng với những thao tác cụ thể khác
nhau. Có hai dạng phương tiện chính ứng với thao tác của con người là vật chật và
ngơn từ. Vì vậy, hành động được cấu tạo từ hai dạng chính là hoạt động với vật chất
và hoạt động với ngôn từ.


14

Theo tác giả Nguyễn Thị Diễm My (2014) thì hành vi đươc định nghĩa “là mặt
bên ngoài của hoạt động, bao gồm một chuỗi các hành động được biểu hiện ra bên
ngoài nhưng lại thống nhất với cấu trúc tâm lý bên trong của nhân cách, là sự thống
nhất giữa hình thức bên ngồi và nội dung tâm lý bên trong. Các hành động cấu
thành nên hành vi tồn tại dưới hai hình thức là hành động vật chất và hành động
ngôn từ. Hành vi là biểu hiện của một đời sống tâm lý bên trong và được điều chỉnh
bởi cấu trúc tâm lý bên trong của nhân cách”. Như vậy, tác giả Nguyễn Thị Diễm
My nhìn nhận hành vi là mặt bên ngồi của hoạt động, có thể quan sát được và có
sự thống nhất với nội dung tâm lý bên trong của con người.
Sau khi tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau về hành vi, trong phạm vi đề
tài này, người nghiên cứu đồng ý với cách định nghĩa của tác giả Nguyễn Thị Diễm
My về hành vi và chọn cách định nghĩa này cho định nghĩa về hành vi được sử dụng
trong đề tài này.

Như vậy, định nghĩa hành vi trong phạm vi đề tài này như sau: “Hành vi là mặt
bên ngoài của hoạt động, bao gồm một chuỗi các hành động được biểu hiện ra
bên ngoài nhưng lại thống nhất với cấu trúc tâm lý bên trong của nhân cách, là
sự thống nhất giữa hình thức bên ngồi và nội dung tâm lý bên trong. Các
hành động cấu thành nên hành vi tồn tại dưới hai hình thức là hành động vật
chất và hành động ngôn từ. Hành vi là biểu hiện của một đời sống tâm lý bên
trong và được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của nhân cách”.
1.2.1.2.

Phân loại hành vi:

Theo tác giả Nguyễn Thị Diễm My (2014), có nhiều cách phân loại hành vi.
Phân loai theo khía cạnh giá trị thì hành vi được chia thành hai loại sau:
- Hành vi tiêu cực: Theo tác giả Nguyễn Thị Diễm My, hành vi tiêu cực xuất
hiện trong các hành động đối lập với những nhu cầu của cá nhân hoặc các nhóm xã
hội, do sự chối bỏ hoặc chống lại các quan hệ vốn đã hình thành trong tập thể.


15

- Hành vi tích cực: Là hành vi chủ thể có thể làm được và mong muốn làm điều đó.
Hành vi tích cực được thực hiện cũng phải đáp ứng sự mong đợi của người khác.

Phân loại hành vi theo tiêu tính chất của hành vi:
- Hành vi cơng khai: Là hành vi được chủ thể tiến hành trong một môi trường cụ

thể, trước sự chứng kiến của người khác.
- Hành vi che giấu: Là hành vi được chủ thể thực hiện mà không để người khác
chứng kiến.
Phân loại hành vi theo phạm vi tác động của hành vi:

- Hành vi hướng vào chính mình: Là những hành vi ảnh hưởng trực tiếp lên
chính chủ thể.
- Hành vi hướng đến người khác: Là những hành vi ảnh hưởng trực tiếp đến
những mối quan hệ xung quanh, thơng qua đó tác động trở lại chính chủ thể.
Phân loại hành vi theo chuẩn mực hành vi:
- Hành vi hợp chuẩn: là hành vi phù hợp với chuẩn mực của một nhóm, một
cộng đồng xã hội; cũng có thể hành vi hợp chuẩn là hành vi mà mọi người mong đợi
từ một cá nhân nào đó.
- Hành vi lệch chuẩn: Là những hành vi khơng đáp ứng được sự mong đợi của
một nhóm người nào đó và bị lệch so với chuẩn mực của một nhóm, một cộng đồng.
1.2.2. Lý luận về hành vi bắt nạt
1.2.2.1.

Khái niệm hành vi bắt nạt

a. Khái niệm hành vi bắt nạt :
Theo tác giả Hoàng Phê (2003), bắt nạt là “cậy quyền, cậy thế, doạ dẫm để làm
cho phải sợ. Bắt nạt trẻ con. Ma cũ bắt nạt ma mới”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Duyên (2016) thì: “Bắt nạt là hành vi hay lời nói nào
đó lặp đi lại một cách cố tình gây tổn thương về cơ thể hoặc tâm lý của người khác”.


16

Theo tác giả Milton (1989): “Bắt nạt là một hành động lặp đi lặp lại một cách
hiếu chiến để cố ý làm tổn thương về tinh thần hoặc thể xác cho người khác. Bắt nạt
là đặc trưng của một cá nhân hành xử theo một cách nào đó để đặt quyền lực trên
người khác”.
Trong tiếng Anh, bắt nạt được có từ mang nghĩa tương đương là “bullying”.
Theo trang web dictionary.cambrigde.org, khái niệm “bullying” được định nghĩa là

“Ai đó làm đau (về thể lý) hoặc gây tổn thương (về tinh thần) cho người khác,
thường diễn ra trong 1 khoảng thời gian và thường bắt ép người khác làm việc gì đó
mà người đó khơng muốn làm)”
Trong cuốn “BullingCompendium - a”, thì “Bắt nạt là hành vi gây tổn thương
một cách cố ý. Nó có thể là về thể chất hoặc tâm lý. Nó thường được lặp đi lặp lại
và được đặc trưng bởi một sự bất bình đẳng về quyền lực, vì vậy nó gây ra khó khăn
đối với các nạn nhân trong việc tự bảo vệ mình”
Theo tổ chức Act to Change “Bullying (bắt nạt) là sự gây hấn hay hành vi làm
hại nhằm vào một người với mục đích tạo ra cảm giác bị cô lập. Việc bắt nạt có thể
xảy ra dưới nhiều hình thức và với các loại hành vi phổ biến”
Như vậy, khi đề cập đến khái niệm bắt nạt, các định nghĩa trên thường nhắc
đến các yếu tố sau:
Thứ nhất, để thực hiện hành vi bắt nạt, thì quyền lực đã bị lạm dụng bởi cá
nhân nào đó.
Thứ hai, mục đích của hành vi bắt nạt là gây tổn thương về mặt tâm lý hay làm
đau về thể lý của đối tượng mà chủ thể thực hiện hành vi bắt nạt hướng đến.
Thứ ba, tần suất diễn ra hành vi bắt nạt là lặp đi lặp lại và kéo dài trong một
khoảng thời gian nhất định.
Từ sự phân tích các định nghĩa khác nhau về bắt nạt, kết hợp với định nghĩa về
hành vi nói chung, trong phạm vi đề tài này, người nghiên cứu đưa ra định nghĩa về


×