Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Chính sách bảo hộ hợp lý để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.38 KB, 15 trang )

Chính sách bảo hộ hợp lý để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển,
khuyến khích người tiêu dùng dùng hàng nội địa.
Toàn cầu hoá, khu vực hoá và tự do hoá kinh tế Thương mại tuy mâu thuẫn với
bảo hộ sản xuất trong nước nhưng đây chính là tồn tại thực tế mà hầu hết các nước
đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện. Ở Việt Nam, trước những đòi hỏi bức bách của
tiến trình hội nhập nhưng ý thức vươn lên trong cạnh tranh còn yếu, khuynh hướng
phổ biến của các ngành, các cấp và các DN còn nặng về ỷ lại hàng rào bảo hộ để
tránh sức ép cạnh tranh. Hàng rào bảo hộ cao không những làm mất đi động cơ
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam mà còn làm cho tiêu dùng bị thiệt
hại do phải mua với giá cao trong khi thu nhập của dân cư ở nước ta còn thấp Theo
ông Trần Đình Thọ- PGĐ Sở Thương Mại Thành phố Hồ Chí Minh: "Bảo hộ phải
tuỳ theo từng ngành nghề cụ thể, tuỳ theo mặt hàng chứ không phải mạnh ai tự đề
xuất tràn lan, không có tính quốc gia. Khi bảo hộ, các công ty sản xuất theo chủ
trương Nhà nước thì mới bảo hộ. Ngược lại việc bảo hộ sẽ làm lá chắn khiến cho
những ngành nghề được bảo hộ liên kết thành một khu vực lợi ích cản trở chính
sách hội nhập của Nhà Nước, Chẳng hạn như bảo hộ ngành đường trong nước, bảo
hộ nông dân trồng mía, các nhà máy đường có thể sống được nhưng còn 80 triệu
người tiêu dùng thì sao? Vì vậy Đảng và Chính phủ cần phải có chủ trương điều
chỉnh chính sách bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng có lựa chọn, có thời hạn
và có điều kiện.
Về bảo hộ có sự lựa chọn:Bảo hộ sản xuất trong nước bao gồm xây dựng và
củng cố các hàng rào thuế và phi thúê để ngăn cản sự tấn công của hàng hoá ngoại
nhập và các biện pháp hỗ trợ, điều chỉnh và nâng đỡ sản xuất trong nước. Ở Việt
Nam, chỉ nên bảo hộ sản xuất trong nước đối với các ngành và lĩnh vực sau:
+ Các ngành công nghiệp non trẻ mũi nhọn thuộc hướng ưu tiên trong chiến
lược phát triển của đất nước như: công nghiệp điện tử- tin học, công nghệ sinh học
và công nghệ sản xuất vật liệu mới. . . vì vào thời kỳ đầu, sản xuất đang ở mức chi
phí cao hơn so với giá cả các sản phẩm cùng loại nhập khẩu.
+ Các ngành nghề truyền thống ở các làng nghề như đồ gốm, thảm, đồ gỗ chạm
khảm, sơn màu. . . để bảo vệ giá trị văn hoá Quốc gia, bảo vệ truyền thống dân tộc.
+ Các ngành nghề sử dụng lực lượng lao động lớn và mật độ tập trung quá


cao như: dệt may, mía đường, chế biến thực phẩm. . . để tránh hậu quả nghiêm
trọng do tỷ lệ thất nghiệp cao.
+ Các mặt hàng thuộc nhu cầu quốc tế dân sinh như an toàn về lương thực,
về nguyên liệu cho các ngành sản xuất quan trọng, về an ninh quốc gia.
+ Các mặt hàng có sự chênh lệch lớn giữa sản xuất và tiêu dùng mà nhà sản
xuất và kinh doanh không đủ khả năng dự trữ hoặc dự trữ phải chi phí quá cao sẽ
gây ra các đột biến lớn về giá cả trên thị trường.
Về mức độ và thời hạn áp dụng chính sách bảo hộ: Việt Nam là thành viên
chính thức của ASEAN, tham gia AFTA, APEC và đang chuẩn bị để gia nhập vào
VVTO, do vậy trước hết chúng ta phải thực hiện các cam kết trong các quy định
của chương trình CEPT về cắt giảm thuế, hạn chế định lượng và các hàng rào phi
thuế quan. Đồng thời, phải thiết lập công khai hoá và từng bước thực hiện lộ trình
cắt giảm thuế và phi thuế của VVTO.
Để khuyến khích đẩy mạnh chương trình "Người Việt Nam dùng hàng Việt
Nam" Nhà nước nên có chương trình thưởng cho người tiêu dùng trong trường hợp
người tiêu dùng phát hiện hàng giả, hàng lậu để đảm bảo uy tín, chất lượng cho
hàng hoá của doanh nghiệp trong nước. Đồng thời các cơ quan quản lý phải phối
hợp đồng bộ để hướng dẫn thực hiện nghiêm chỉnh " Pháp lệnh bảo vệ người tiêu
dùng ". Có như vậy người tiêu dùng mới tin tưởng vào chất lượng, uy tín của hàng
nội địa".

III. 4. Biện pháp tài chính, giá cả
Trong khi hàng hoá còn ứ đọng quá nhiều thì việc kích thích tiêu thụ quả là khó
khăn. Doanh nghiệp cần phải hạ giá bán hàng hoá đang ứ đọng (hạ đến mức có thể
bán được) để kích thích tiêu dùng, nhất là kích cầu đầu tư cho việc xây dựng cơ sở
hạ tầng nông thôn. Nhà nước phải có biện pháp xử lý tài chính về thua lỗ do hạ giá
bán gây ra đối với doanh nghiệp nhà nước và có những biện pháp phòng, ngăn
chặn sự lợi dụng việc cho phép hạ giá để cho phép chuyển lỗ sang Nhà nước (Ngân
sách) một mặt làm thiệt hại ngân sách, mặt khác làm mất đi áp lực buộc các DN
phải tự xem xét lại chính mình.

Tỷ giá hối đoái: cần phải điều chỉnh ở mức độ cần thiết để tăng cầu với nước
ngoài nhưng có bước đi thận trọng nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng
và các thể chế tài chính khác, đồng thời kiểm soát được sự ổn định của kinh tế vĩ
mô phù hợp với sự biến động của giá cả trong nước và thế giới. Hiện nay, giá cả
đang có xu hướng giảm, đây là thời cơ thuận lợi cho việc giữ ổn định giá cả khi
điều chỉnh tỷ giá góp phần kích cầu, điều này cũng phù hợp với tinh thần NĐ. 08
của Chính phủ "Theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường trong và ngoài nước để điều
chỉnh tỷ giá linh hoạt, bảo đảm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng
giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ".
Hạ lãi xuất đối với vay đầu tư ở nông thôn và vay đầu tư chiều sâu, đồng thời
kiểm soát ngặt nghèo vay đầu tư mới. Vừa qua ngân hàng đã hạ lãi xuất từ 1, 15%
xuống 1, 05% nhưng xem ra vẫn chưa "đủ độ" so với chỉ số lạm phát và so với tỷ
xuất lợi nhuận mang lại của nền kinh tế và vì vậy chưa có khả năng kích thích
mạnh việc vay vốn để đầu tư nhất là khu vực nông thôn.
Để động viên kịp thời tinh thần, vật chất cho những đóng góp về trí tuệ sáng
tạo, về hiệu quả của doanh nghiệp vào sự nghiệp đẩy mạnh XK, Bộ Thương Mại
đã dùng đòn bẩy kinh tế "Thưởng xuất khẩu ". Nếu đợt I mới có 10 DN được
thưởng theo 2 tiêu chuẩn và 90% nằm ở tiêu chuẩn 5. 1(Xuất khẩu mặt hàng mới,
mở thị trường xuất khẩu mới ) thì thưởng đợt II có 62 DN đặc biệt đã "phủ sóng"
toàn bộ 5 tiêu chuẩn khen thưởng đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy "Thưởng
xuất khẩu " tuy là một công cụ mới mẻ nhưng cũng đã phát huy tác dụng và có
hiệu quả cao. Những phần thưởng khuyến khích xuất khẩu đã hướng DN sáng tạo
mặt hành mới, mở thêm thị trường xuất khẩu, ssản xuất mặt hàng xuất khẩu có chất
lượng cao, ưu tiên hàng hoá gia công chế, biến chủ yếu bằng nguyên liệu trong
nước, có kim ngạch xuất khẩu cao và những mặt hàng ngoài hạn ngạch hoặc ngoài
chỉ tiêu được phân giao. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận thức được rằng thưởng
xuất khẩu là một hình thức trong cả một hệ thống cơ chế, chính sách nhằm thực
hiện chiến lược hướng mạnh nền kinh tế vào XK được thể hiện qua các văn bản
như luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài tại VN, luật thuế
XNK, thuế VAT, thúe thu nhập, NĐ 57/CP. . . Trong thời gian tới, Bộ Thương mại

tiếp tục đưa ra những giải pháp nhằm giải phóng năng lực của các DNXK. Chính
Phủ cũng cần phải xem xét thành lập ngân hàng XNK để hỗ trợ, bảo lãnh tín dụng
góp phần thúc đẩy hoạt động XK cho các DN.

III. 5. Xây dựng hệ thống cơ sở chế biến nhỏ ở nông thôn
Cho đến những năm cuối cùng của thế kỷ XX, nền nông nghiệp (NN) ở nước ta
còn đang bị phân tán, manh mún, bị chia cắt, xé nhỏ, chưa hình thành đồng bộ các
vùng chuyên canh tập trung với khối lượng hàng hoá, nguyên liệu lớn, nước ta hiện
nay chưa tạo đủ các cơ sở công nghiệp để chế biến các sản phẩm có giá trị cao
phục vụ thị trường trong và ngoài nước. Nên mặc dù sản phẩm nông sản hàng năm
kim ngạch XK tăng 16-17% đạt 2, 8-3, 1 tỷ USD chiếm 30-32% giá trị xuất khẩu
cả nước, nhưng nông sản phẩm đã qua chế biến, nhất là chế biến tinh, chiếm tỷ
trọng nhỏ có loại chỉ chiếm 20-25%, còn lại hầu hết là xuất khẩu dưới dạng nguyên
liệu thô hoặc sơ chế.
Vì thế các cơ sở chế biến nhỏ sẽ tận dụng được tối đa nguyên liệu tại chỗ,
không phải vận chuyển đi xa trong điều kiện cở hạ tầng nônh thôn yếu kém, có thể
làm tăng tỷ lệ hư hỏng, thất thoát, làm tăng giá thành sản phẩm, giảm lợi thế cạnh
tranh trên các loại thị trường, làm tăng kim ngạch xuất khẩu.
Về quy mô: Tuỳ theo năng lực sản xuất thực tế khối lượng nông sản hàng hoá
vốn có, tuy nhiên không manh mún, tản mát dễ dẫn đến cạnh tranh không lành
mạnh và "chết yểu" mà có các hình thức khác nhau.
Về công nghệ: các cơ sở chế biến nhỏ phải dùng loại công nghệ thích hợp, nhỏ
không đồng nghĩa với thô sơ, thủ công và chắp vá, tuỳ năng lực tài chính, có thể sử
dụng công nghệ từ thô sơ đến hiện đại. Cùng với các cơ sở chế biến nhỏ này, phải
xây dựng cho bằng được các trungg tâm chế biến nông sản hàng hoá hiện đại, sử
dụng nguyên liệu đã qua sơ chế từ cơ sở sản xuất nhỏ, để cho ra đời sản phẩm tinh,
có khả năng cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn và đúng thị hiếu của người tiêu dùng.
III. BIỆN PHÁP TỪ PHÍA DN.
Hiện nay các DNVN đang phải đối diện với môi trường kinh doanh biến động
không ngừng, diễn biến phức tạp và có nhiều rủi do. Việt Nam đã gia nhập AFTA

và sẽ phải thực hiện lộ trình giảm thuế CEPT (đối với việt nam: đến năm 2006 thuế
nhập các loại hàng hoá vào việt nam chỉ còn 0%- 5%) nên áp lực cạnh tranh ngày
càng ra tăng và con đường đi lên phía trước của các DN có nhiều chướng ngại và
nhạy bén là xuống vực phá sản.
Ngoài ra đối với một đất nước đang phất triển như Việt Nam, nền kinh tế còn
nghèo nàn, lạc hậu cơ sở vật chất yếu kém, trình độ khoa học công nghệ và trình
độ lao động, trình độ quản lý còn chịu ảnh hưởng của nếp sống “cũ” của thời kinh
tế kế hoạch hoá tập trung thì việc mắc sai lầm trong chỉ đạo, điều hành của Chính
Phủ là khó tránh khỏi. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những nỗ lực
cố gắng vượt bậc của Đảng và Nhà Nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh của các DN. Một đất nước phát triển phải cần sự nỗ lực vượt bậc, sự
đóng góp của toàn dân toàn xã hội mà các DN là thành phần trọng yếu. Vì vậy các
DN phải tự xem xét mình đã chủ động tự vươn lên đỉnh cao trong thương trường
chưa? ở nhiều cônh ty thay vì tìm lối thoát ra khỏi khó khăn bằng chính sự nỗ lực
của bản thân, bằng việc động viên tối đa nội lực thì lại đi theo con đường mòn là
“xin” Nhà Nước cấp vốn mặc dù biết rõ Nhà nước không có vốn để cho.
Vì vậy TTSP của DN sẽ ngày càng khó khăn nếu như DN không đề ra những
chính sách, chiến lược cạnh tranh hợp lý thì hàng hoá ứ đọng, chậm tiêu thụ là điều
khó tránh khỏi mà hàng hoá ứ đọng đồng nghĩa với việc không thực hiện được mục
tiêu của DN đặc biệt là lợi nhuận, không có hoặc ít lợi nhuận DN không đủ trang
trải chi phí, bị lỗ và phá sản DN là khó tránh được. Vậy để tăng tính cạnh tranh của
sản phẩm trong tiêu thụ sản phẩm thì DN cần thực hiện các biện pháp sau:

III. 1. Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hiện nay người Việt Nam có thú “xính đồ ngoại” đây là kiểu “chơi sang” tầng
lớp thượng lưu nhưng không ít khách hàng phàn nàn về chất lượng sản phẩm của
DN đặc biệt là đồ tươi sống, thuốc. . nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ thậm chí
cả tính mạng của người tiêu dùng vậy các DNVN nghĩ gì?
Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không có nghĩa là hướng mọi nỗ lực của mình
vào việc sản xuất ra sản phẩm thật tốt. Nừu vậy DN đã quên đi một yếu tố vô cùng

quan trọng là “nhu cầu có khả năng thanh toán và khách hàng không mua sản
phẩm mà họ không có nhu cầu. Một sản phẩm có chất lượng tốt khách hàng rất hài
lòng về nó nhưng liệu họ có mua không? Rất có thể là không vì sản phẩm chất
lượng tốt thì giá phải đắt tuy nhiên không phải khách hàng nào cũng đủ tiền để
mua sản phẩm đó. “khả năng thanh toán” liên quan tới thu nhập và phân bổ thu
nhập cho các nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng. Vậy thì thế nào là một sản
phẩm có chất lượng tốt? Một sản phẩm có chất lượng tốt là sản phẩm có “chất
lượng vừa đủ”. Nghĩa là với tiềm lực của mình DN sản xuất ra sản phẩm phù hợp
với nhu cầu, thị hiếu, sở thích người tiêu dùng với giá cả hợp lý. Nâng cao chất
lượng sản phẩm liên quan đến rất nhiều vấn đề: công nghệ, vốn, con người...
Trước hết về vốn, công nghệ: hiện nay hầu hết các DNVN sản xuất với công
nghệ được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã sử dụng
hàng chục năm, không thích hợp với cơ chế thị trường. Các xí nghiệp kho tàng,
bến bãi, nhà kho, thiết bị…thường quá lớn, cồng kềnh đồ sộ nhưng công suất thấp
nên hoạt đông kém hiệu quả vì phải chịu khấu hao lớn, định mức tiêu hao nguyên
nhiên vật liệu thường rất cao mà sản phẩm sản xuất ra chất lượng lại thấp không
cạnh tranh được với sản phẩm ngoại nhập khó có khả năng xuất khẩu. Trong mấy
năm gần đây tuy một số DN đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thường
là đầu tư chắp vá, không đồng bộ do thiếu vốn. Công suất vẫn chưa cao nên hiệu
quả hoạt động kinh doanh của DN còn thấp. Vẫn biết thiếu vốn là vấn đề nan giải
của các DN Việt Nam hiện nay nhưng trong sự cạnh tranh gay gắt thì hoặc là DN
tồn tại và phát triển hoặc là phá sản. Tất nhiên không DN nào muốn phá sản, vậy
thì DN phải tự cứu lấy mình trước khi chờ đợi vào các chính sách ưu đãi củaNhà
nước. Việc đổi mới công nghệ là rất cần thiết. Nó cho phép DN sản xuất ra sản
phẩm có chất lượng cao phù hợp với khách hàng. Đáp ứng với nhu cầu thị trường,
tiết kiệm nguyên vật liệu, làm giảm giá thành sản xuất. DN hạ được giá bán, góp
phần tăng tính cạnh tranh của sản phẩm DN. Vậy thì đổi mới công nghiệp bằng
cách nào trong khi đa phần các DN Việt Nam đang thiếu vốn? Thiếu vón, các DN
có thể huy động bằng nhiều cách:Vốn vay ngân hàng, ODA, phát hành cổ phiếu
(công ty cổ phiếu )…Đặc biệt là Nhà nước huy động vốn từ dân chúng trong nước

cho DN vay. Hiện nay, lượng tiền vốn tồn tại trong dân chúng khá lớn, khoảng 4-6
tỷ USD sã hầu như là sự lãng phí 100% nếu số vốn đó tồn tại dưới hình thức xe
máy, đất, vàng…mà không đưa vào sản xuất bởi bản thân các hình thức đó không
tạo ra của cải cho xã hội, mà chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
“Cái gốc của sự giầu có là sản xuất”. Người dân không hề có lỗi, bởi vì bất kỳ ai
cũng muốn đem những đồng vốn chắt chiu của mình vào hoạt động có thể sinh lãi
đem lại thu nhập cho bản thân. Về thực chất Việt Nam thiếu cơ hội đầu tư. Trong 3
đợt đIều chỉnh lãi xuất ngân hàng của nhà nước vừa qua nhưng xêm ra các DN vẫn
chưa mạnh dạng đầu tư vào sản xuất. Việc huy động vốn từ dân cư phải thông qua
hệ thống ngân hàng, mặt khác DN cũng có thể tự huy động vốn trong dân bằng
cách bán cổ phiếu công ty (công ty cổ phân) cho dân chúng nhưng một khó khăn
không phảu nhỏ là hình thức đầu tư hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam vì vẫn đề cổ
phần hoá DN còn gặp nhiều rắc rối về xác định giá trị tài sản DN. . trong khi trình

×