Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự,kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tại tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VŨ ĐỨC HẢI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT KINH TẾ

NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ, KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN

VŨ ĐỨC HẢI

2018 - 2020

HÀ NỘI – NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ, KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN
VŨ ĐỨC HẢI


NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI – NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tơi là: Vũ Đức Hải học viên khóa 2018- 2020 xin cam đoan đây là
cơng trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu
nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận văn
đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ quan
cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả nghiên cứu
của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan.Tơi xin
chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu cũng như
các thơng tin sử dụng trong cơng trình nghiên cứu của mình.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Đức Hải



LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của Trường
Đại học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tơi trong suốt thời
gian tơi học chương trình Cao học luật tại cơ sở đào tạo.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn đến TS. Đặng Vũ Huân, Tổng biên tập
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật- Người thầy đã tận tình hướng dẫn để tơi hồn
thành tốt bản luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Luật, phòng
Đào tạo Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tơi trong suốt q
trình học tập. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một
cách hoàn chỉnh nhất, nhưng khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định
mà tự bản thân không thể tự nhận thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp
ý của Q thầy, cơ giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Đức Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI
SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ, KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI ........................................................................................................... 7

1.1. Một số vấn đề lý luận về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại .............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ................................................................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ............................................................................................... 11
1.1.3. Phân loại kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ............................................................................................... 15
1.1.4. Vai trò của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ............................................................................................... 17
1.2. Nội dung pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại .................................................................................... 20
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản trong kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại................................................................. 20
1.2.2. Thẩm quyền kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ............................................................................................... 21
1.2.3. Trình tự, thủ tục kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại.................................................................................... 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................... 27
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ, KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN ................ 28
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay................................. 28
2.1.1. Căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản ........................ 28


2.1.2. Các trường hợp thực hiện kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án ..... 31
2.1.3. Thủ tục kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án................................. 36
2.1.4. Xử lý tài sản kê biên để bảo đảm thi hành án .................................... 39

2.2. Thực thi pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Điện Biên ........................................... 40
2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Điện Biên ....................... 40
2.2.2. Thực trạng thực thi pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại ở tỉnh Điện Biên ....................................... 43
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Điện Biên ........................ 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.......................................................................... 56
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN ................................ 57
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự, kinh doanh, thương mại .................................................... 57
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại phải trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về
Chiến lược xây dựng pháp luật và Chiển lược cải cách tư pháp .................. 57
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại phải trên cơ sở hoàn thiện pháp luật về thi hành án
dân sự ...................................................................................................... 58
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kê
biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại phải
đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.......................................... 59
3.1.4. Cần phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức trong hệ
thống chính trị trong giáo dục thuyết phục, hồ giải trong hoạt động kê biên
tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại ................. 60
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành
án dân sự, kinh doanh, thương mại ............................................................ 60


3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản

pháp luật có liên quan............................................................................... 61
3.2.2. Hoàn thiện các quy phạm pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự, kinh doanh, thương mại trong Luật Thi hành án dân sự năm
2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành ................................................... 61
3.2.3. Tăng cường bồi dưỡng, trao đổi nghiệp vụ trong công tác áp dụng và
thực thi pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án ...................... 64
3.2.4. Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án và nâng cao năng lực
hoạt động của đội ngũ chấp hành viên, cán bộ giúp việc ở các cơ quan thi
hành án dân sự ......................................................................................... 65
3.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với
các cơ quan hữu quan trong việc kê biên tài sản ........................................ 67
3.2.6. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành
án dân sự các cấp ..................................................................................... 68
3.2.7. Tăng cường công tác động viên thuyết phục đối với người phải thi hành
án trong quá trình kê biên ......................................................................... 70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.......................................................................... 72
KẾT LUẬN.............................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kê biên tài sản là một trong những biện pháp cưỡng chế của pháp luật
thi hành án dân sự và là biện pháp nghiêm khắc nhất mà chấp hành viên áp
dụng trong quá trình giải quyết thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại.
Kê biên tài sản thể hiện quyền lực nhà nước một cách rõ ràng nhất khi người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành các khoản nghĩa vụ của mình trong
bản án, quyết định của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật. Theo đó, Nhà nước đã
trao cho chấp hành viên quyền kê biên, định đoạt tài sản của người phải thi
hành án để đảm bảo các nghĩa vụ thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại.

Do nghĩa vụ thi hành án được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa
án phần lớn là nghĩa vụ bằng tiền, cho nên, biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản của người phải thi hành án được chấp hành viên áp dụng phổ biến trong
quá trình tổ chức thi hành án. Trên thực tế, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế
này sẽ làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi
hành án, người có phần tài sản sở hữu chung với người phải thi hành án,
người đang nhận bảo đảm bằng tài sản của người phải thi hành án hoặc tài sản
bảo lãnh của người thứ ba… nên việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên
tài sản của người phải thi hành án được quy định cụ thể, chặt chẽ trong Luật
Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được Quốc hội sửa đổi, bổ sung
năm 2014 đã có nhiều quy định cụ thể hơn về kê biên tài sản, nhưng trong
thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại cho thấy, vẫn
cịn nhiều bất cập, kẽ hở, quy định khơng rõ ràng hoặc chồng chéo, mâu thuẫn
với các quy định pháp luật về đất đai, pháp luật về nhà ở... dẫn đến quá trình
áp dụng gặp nhiều vướng mắc, dễ dẫn đến sai phạm. Mặc dù đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về pháp luật thi hành án dân sự đối với vấn đề này, song vẫn
chưa phản ánh toàn diện, đầy đủ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng biện pháp kê biên tài sản để thi hành án. Cho nên, việc tiếp tục nghiên
cứu những vấn đề lý luận về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hiện nay vẫn mang tính thời sự và cấp
thiết.
1


Về mặt thực tiễn, việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự, kinh doanh, thương mại ở tỉnh Điện Biên những năm qua đã
đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong giải quyết những vụ án khó, kéo
dài, án tồn đọng lâu năm, đảm bảo tình hình an ninh, chính trị xã hội được giữ
vững, các quan hệ dân sự được pháp luật bảo vệ, thể hiện tính răn đe và

nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, vấn đề
áp dụng kê biên tài sản để bảo đảm thi hành bản án dân sự, kinh doanh,
thương mại từ thực tiễn tỉnh Điện Biên vẫn còn những vướng mắc, bất cập,
như nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng chậm tổ chức thi
hành; việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên còn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc..., các nguyên nhân chủ quan và khách quan liên quan đến vấn đề
này có thể xuất phát từ những bất cập của pháp luật về kê biên tài sản hoặc do
công tác phối hợp kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại chưa được các cấp chính quyền địa phương chú trọng phối hợp;
điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành thi hành
án dân sự chưa được quan tâm tốt...
Từ thực trạng lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản để
bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại nêu trên, cần phải có
những phân tích, đánh giá nhằm khắc phục những bất cập và nâng cao hiệu
quả công tác kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh thương mại
theo pháp luật thi hành án dân sự. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Kê biên tài
sản để đảm bảo thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại từ thực tiễn
tại tỉnh Điện Biên” để làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên qua đến biện pháp kê biên tài
sản để thi hành án dân sự được công bố, trong số đó có các cơng trình nghiên
cứu đáng chú ý, bao gồm:
- Luận văn Tiến sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân
sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy - Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2010;

2


- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản

thi hành án dân sự ở Việt Nam”, của tác giả Trần Thị Lan Hương - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự” của tác giả Nguyễn Long - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự"
, của tác giả Phan Huy Hiếu – Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Kê biên tài sản để thi hành bản án kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Gia Lai”, của tác giả Nguyễn Văn
Phượng - Học viện Khoa học Xã hội, năm 2014;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Kê biên tài sản là quyền sử dụng đất
trong thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng”
của tác giả Nguyễn Bá Nam - Học viện Khoa học Xã hội, năm 2015;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp
luật thi hành án dân sự từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh” của
tác giả Lê Văn Hoàn - Học viện Khoa học Xã hội, năm 2019;
Ngoài các luận án, luận văn được dẫn ra ở trên, cịn có rất nhiều bài viết
trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như: Bài viết “Vấn đề đổi mới thủ tục
thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay”, của tác giả Nguyễn Thanh Thủy đăng
trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về Thi hành án dân sự - năm
2006; Bài viết “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án
dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Khanh đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 05/2010; Bài viết “Áp dụng pháp luật thi hành án về kê biên tài sản
chung” của tác giả Đinh Thị Thanh Mai đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 10/2011, tr. 55 - 56); Bài viết “Một số vướng mắc trong áp dụng pháp
luật về kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác giả Vũ Hịa
đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2012 tr. 61 - 64; Bài viết “Kê
biên, xử lý tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án – Một số
vấn đề từ thực tiễn” của tác giả Hồ Quân Chính đăng trên
www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ke-bien-xu-ly-tai-san-thuoc-so-huuchung-cua-nguoi-phai-thi-hanh-an-mot-so-van-de-tu-thuc-tien, tháng 8 năm
2018; Bài viết “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án”


3


của tác giả Lê Anh Tuấn, trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề
Thi hành án dân sự, năm 2010; Bài viết “Về kê biên, xử lý tài sản” của TS.
Nguyễn Thanh Thủy và ThS Lê Thị Kim Dung trong cuốn “Xử lý tình huống
trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự”,
Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2010; Bài viết “Kê biên xử lý tài sản của người
phải thi hành án đã chuyển quyền sở hữu kể từ thời điểm có bản án, quyết
định sơ thẩm” của Nguyễn Ngọc Thủy Phúc trên />Các cơng trình nghiên cứu khoa học trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận về thi hành án dân sự nói chung, kê biên thi hành án nói riêng nhưng
chưa có đề tài nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng biện
pháp kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại
từ thực tiễn tỉnh Điện Biên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về kê
biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại và đặc
biệt là qua khảo cứu thực tiễn công tác thi hành án tại tỉnh Điện Biên, từ đó,
đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật trong công tác kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn được xác định là:
- Làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự kinh doanh, thương mại, như khái niệm, đặc điểm và trình tự,
thủ tục áp dụng pháp luật để kê biên tài sản bảo đảm thi hành án kinh doanh,
thương mại trong thi hành án dân sự.
- Phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên

tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại trên địa bàn
tỉnh Điện Biên, từ đó, đi sâu phân tích những kết quả đã đạt được và những
hạn chế, tồn tại, làm rõ những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Xây dựng quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
4


và nâng cao hiệu quả việc áp dụng kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân
sự, kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp luật về kê biên tài sản để bảo
đảm thi hành án kinh doanh, thương mại; hệ thống các quy định pháp luật liên
quan đến kê biên tài sản để thi hành án và thực trạng áp dụng pháp luật về vấn
đề này tại tỉnh Điện Biên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại theo pháp luật về thi hành án dân sự, (cụ thể là Luật Thi hành án
dân sự năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành).
Về không gian và thời gian, Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc áp
dụng biện pháp kê biên tài sản để thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại
từ thực tiễn tại tỉnh Điện Biên trong 3 năm (từ năm 2017 đến năm 2019)
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử
dụng một số nguyên lý, quy luật và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật
biện chứng để phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn và đề xuất các kiến
nghị phù hợp với tình hình và yêu cầu mới.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã sử dụng các phương pháp

nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương
pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp để tổng hợp các tri thức khoa học và
luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, trong chừng mực nhất định, luận văn đã hệ thống hóa
các vấn đề lý luận gắn với thực tiễn vấn đề kê biên tài sản bảo đảm thi hành
án dân sự, kinh doanh thương mại từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Điện Biên,
cung cấp một góc nhìn mới và để tạo cơ sở sau này có thể phát triển lên các
đề tài ở mức cao hơn. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ
5


thêm một số vấn đề lý luận pháp luật về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại.
Về mặt thực tiễn, Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan
thi hành án dân sự trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác kê biên tài sản bảo
đảm thi hành án kinh doanh thương mại. Đối với các cơ quan có liên quan đến
thi hành án dân sự, luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong việc thực hiện
trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật, trong việc phối hợp trong
hoạt động kê biên tài sản bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh thương mại.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu được chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về kê biên tài sản để bảo
đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về kê biên tài
sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh
Điện Biên.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê
biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh

Điện Biên.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN
TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ,
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Một số vấn đề lý luận về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại
1.1.1.1. Khái niệm về kê biên tài sản
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thơng tin, thì “kê”
được hiểu là viết lần lượt vào từng tên, từng thứ một [39; tr. 224], còn “biên”
được hiểu là ghi chép, viết vào sổ, biên tên vào sổ [39; tr. 38]. Theo Từ điển
tiếng Việt của Nhà xuất bản Thời đại năm 2014, thì “kê” được hiểu là để đặt
vào chỗ nào đó [40; tr. 235] cịn “biên” được hiểu là chép, biên ghi vào sổ
[40; tr. 52]. Như vậy có thể hiểu, kê biên là tính toán và ghi chép lại theo một
thứ tự nhất định.
Theo Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản bao gồm: “Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên, theo Điều
105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khái niệm về tài sản được mở rộng hơn, bao
gồm: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và
tài sản hình thành trong tương lai”.
Ở một góc độ khác thì kê biên tài sản được hiểu là sự hạn chế hoặc cấm
chủ sở hữu, sử dụng không được thực hiện các hành vi như tẩu tán, phá huỷ
hay các hành vi khác làm thay đổi hiện trạng đối với tài sản đó để đảm bảo

cho việc xét xử và thi hành án.
1.1.1.2. Khái niệm về các loại án dân sự, kinh doanh, thương mại
Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm
2014), những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được thi hành theo
Luật này bao gồm:

7


(i) Bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu
tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định
dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định
hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan
đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định);
(ii) Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi
hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị bao gồm: (a) Bản án,
quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ
cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
(b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Về khái niệm kinh doanh, thương mại, hiện nay chưa có sự thống nhất
về cách hiểu cũng như có sự tách bạch giữa kinh doanh và thương mại. Theo
quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các tranh chấp thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định theo hướng mở rộng hơn
bao gồm:
(i) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận.

(ii) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
(iii) Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên cơng ty nhưng có
giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với cơng ty, thành viên cơng ty.
(iv) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp
giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của cơng ty, chuyển
đổi hình thức tổ chức của công ty.

8


(v) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, ta có thể hiểu án kinh doanh, thương mại là văn bản pháp lý
được Tồ án có thẩm quyền, theo một trình tự tố tụng do luật định có nội
dung tun bố về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp của hành vi hoặc quan
hệ pháp luật phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại mà ít nhất một
bên chủ thể trong tranh chấp có đăng ký kinh doanh và có mục đích lợi nhuận.
1.1.1.3. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại
Kê biên tài sản đang tranh chấp theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 là một biện pháp khẩn cấp tạm thời, do Toà án quyết định theo
yêu cầu của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong vụ án dân
sự, nhằm mục đích để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo
vệ chứng cứ, bảo tồn tình trạng hiện có và tránh gây thiệt hại khơng thể khắc
phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. Từ khái niệm này cho thấy, kê biên

tài sản đang tranh chấp trong tố tụng dân sự là biện pháp mang tính chất khẩn
cấp và tạm thời. Nó được Tồ án ra quyết định ngay khi nhận đơn và xét thấy
có đủ điều kiện, đồng thời quyết định này có hiệu lực ngay khi ban hành
(được tổ chức thi hành ngay), tính chất tạm thời được thể hiện ở chỗ nó không
phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ án dân sự cũng như đối với tài
sản bị kê biên và có thể bị thay đổi trong q trình giải quyết vụ án, tài sản bị
kê biên không bị xử lý ngay (bán hoặc giao cấn trừ vào nghĩa vụ thi hành án)
mà phải chờ đến khi bản án, quyết định của Tồ án có hiệu lực, cơ quan thi
hành án dân sự thụ lý mới tiếp tục tổ chức thi hành [2, tr. 20].
Trong giai đoạn thi hành án dân sự, việc kê biên tài sản của người phải
thi hành để đảm bảo thi hành án là biện pháp cưỡng chế thi hành án do chấp
hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ trả
tiền theo bản án, quyết định có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện
thi hành. Kê biên tài sản của người phải thi hành án có những đặc điểm chung
của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là thể hiện quyền năng đặc
biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước,
được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không
9


tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo
bản án, quyết định của Tòa án. Đối tượng của kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự là tài sản. Người bị áp dụng thi hành án ngoài việc phải thực
hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa án tun họ cịn phải chịu
mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự.
Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người phải thi hành án chỉ
được áp dụng khi có đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của Tòa
án, người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án;
người phải thi hành án có tài sản để thi hành nghĩa vụ trả tiền cho người được
thi hành án; đã hết thời gian tự nguyện do chấp hành viên ấn định, nhưng

người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian
tự nguyện nhưng cần ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản... Ngồi ra, biện
pháp kê biên tài sản cịn phải tn thủ những nguyên tắc riêng như: Mọi tài
sản của người phải thi hành án đều có thể bị kê biên để thi hành án trừ những
tài sản mà pháp luật quy định không được kê biên; người phải thi hành án có
quyền thỏa thuận với người được thi hành án về tài sản được kê biên để đảm
bảo thi hành án; trong trường hợp khơng thỏa thuận được thì người phải thi
hành án có quyền đề nghị thứ tự kê biên tài sản và chấp hành viên phải chấp
hành để nghị đó nếu đề nghị đó khơng cản trở việc thi hành án. Nếu người
phải thi hành án khơng có đề nghị kê biên tài sản nào trước thì tài sản thuộc
quyền sở hữu riêng của người phải thi hành án được kê biên trước; nếu người
phải thi hành án khơng có hoặc khơng đủ tài sản riêng để thi hành án thì mới
kê biên đến tài sản chung của người phải thi hành án với người khác. Trong
số những tài sản thuộc diện kê biên, thì kê biên bất động sản trước, sau khi kê
biên hết các động sản mà vẫn khơng đủ để thi hành án thì kê biên các động
sản. Chấp hành viên chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án tương
ứng với nghĩa vụ thi hành án và các chi phí liên quan. Nếu người phải thi
hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thực hiện
mà tài sản đó khơng thể phân chia được hoặc nếu phân chia sẽ làm giảm đáng
kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản đó. Nếu
tài sản của người phải thi hành án đã được cầm cố, thế chấp cho người khác
nhưng tài sản đó có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm bằng việc cầm cố,
thế chấp hoặc người phải thi hành án khơng cịn tài sản nào khác thì chấp

10


hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản này để thực hiện thi hành án. Đây là
biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán
tài sản thông qua một giao dịch dân sự khác.

Với những phân tích ở trên, có thể hiểu: “Kê biên tài sản để đảm bảo
thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại là một biện pháp cưỡng chế thi
hành án do chấp hành viên áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (người
phải thi hành án) phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa
án về dân sự, kinh doanh, thương mại đã có hiệu lực pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại
Thứ nhất, hoạt động kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại có tính chất cưỡng chế
Cưỡng chế là một tích chất cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế
làm cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo V.I. Lênin, thì pháp
luật sẽ khơng cịn là gì nữa nếu khơng có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức
người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng
như khơng [5, tr. 63]. Các quy tắc đạo đức, phong tục được con người tuân
theo, chủ yếu nhờ vào sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và tác động của
xã hội; còn quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thi hành, nếu ai
khơng chấp hành thì Nhà nước sẽ cưỡng chế thi hành. Cưỡng chế nhà nước
được áp dụng vì lợi ích của Nhà nước, xã hội và cơng dân do các cơ quan nhà
nước và người có thẩm quyền nhân danh, đại diện cho quyền lực nhà nước áp
dụng. Như vậy, cưỡng chế nhà nước mang tính giai cấp và xã hội là một
thuộc tính vốn có của Nhà nước.
Cưỡng chế thi hành án là một dạng cưỡng chế nhà nước thông qua cơ
quan thi hành án dân sự áp dụng để khôi phục các quan hệ dân sự bị xâm
phạm buộc các cơ quan, tổ chức nhà nước, xã hội, tổ chức kinh tế thực hiện
các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp
luật, đảm bảo pháp chế, trật tự xã hội và xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật.
Thứ hai, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản là chấp hành viên
của cơ quan thi hành án dân sự


11


Trong hoạt động thi hành án dân sự, chủ thể được Nhà nước giao trách
nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Toà án là cơ quan thi hành
án dân sự mà người trực tiếp tổ chức thi hành án là chấp hành viên. Đây là
chủ thể chính có nhiệm vụ tổ chức thi hành án với sự hỗ trợ, giúp việc của các
cán bộ, công chức thi hành án dân sự khác như thư ký, thẩm tra viên, chun
viên. Kdụng biện pháp cưỡng chế hoặc
khơng có bất kỳ biện pháp nghiệp vụ nào để tổ chức thi hành án. Một số vụ
việc bản án đã tuyên duy trì lệnh kê biên, tạm giữ tài sản để đảm bảo thi hành

54


án nhưng đến thời điểm thanh tra, kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự vẫn
chưa tiến hành xử lý tài sản.
Hai là, vi phạm về trình tự, thủ tục xử lý tài sản thi hành án: Như
không tiến hành xác minh kỹ lưỡng tài sản của người phải thi hành án đã ra
quyết định cưỡng chế thi hành án dẫn đến cưỡng chế sai đối tượng thi hành
án; không cho các đương sự tự thỏa thuận trước khi ký hợp đồng thẩm định
giá, bán đấu giá tài sản; lấy lý do người phải thi hành án không đồng ý bán tài
sản đã được đưa ra bán đấu giá sau khi tài sản giảm giá lần thứ 3 để quyết
định không bán tài sản cho người tham gia bán đấu giá; không thông báo các
văn bản về cưỡng chế thi hành án cho các bên đương sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan; chậm ký hợp đồng bán đấu giá tài sản; không niêm yết
thông báo cưỡng chế, thông báo bán đấu giá tài sản, vi phạm thời hạn bán đấu
giá tài sản; vi phạm trong việc ký hợp đồng thẩm định giá; căn cứ vào văn bản
không đúng quy định pháp luật của cơ quan liên quan dẫn đến kê biên, bán
đấu giá sai đối tượng phải thi hành án…

Ba là, thực hiện không đúng quy định của pháp luật về cưỡng chế đối
với tài sản thuộc sở hữu chung: Thực hiện việc phân chia tài sản chung của
vợ chồng nhưng không thông báo kết quả phân chia và hướng dẫn cho đương
sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng.
Bốn là, lập biên bản kê biên không đúng với quy định của pháp luật thi
hành án dân sự: Đây là tình trạng vi phạm rất phổ biến, khi lập biên bản kê
biên tài sản các chấp hành viên lập rất chung chung, khơng mơ tả tình trạng
kê biên và khơng đúng diễn biến của q trình kê biên. Ví dụ: Tại biên bản kê
biên tài sản để thi hành án có nội dung giao tài sản cho ơng Lường Văn C
(người đang thuê nhà) bảo quản, nhưng trên thực tế ơng C lại khơng có mặt
tại buổi cưỡng chế và cũng không ký vào biên bản cưỡng chế. Cũng vụ việc
nêu trên, tại biên bản kê biên, xử lý tài sản, mặc dù người phải thi hành án
không có mặt tại hiện trường và khơng ký biên bản, nhưng trong biên bản lại
ghi: “Giao lại các loại tài cưỡng chế kê biên, xử lý cho người phải thi hành án
tiếp tục quản lý… Việc cưỡng chế kê biên được tiến hành cơng khai, khách
quan có sự tham gia trực tiếp của các cơ quan chức năng có liên quan, bên
được thi hành án, bên phải thi hành án và người chứng kiến”, là không đúng
với thực tế, dẫn đến việc giải quyết khiếu nại gặp nhiều khó khăn.
55


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án là một trong những biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự có tính nghiêm khắc nhất trong các biện pháp
cưỡng chế. Theo đó, cơ quan thi hành án đã tước bỏ hẳn quyền tự định đoạt
tài sản của đương sự là người phải thi hành án có nghĩa vụ theo quyết định
của bản án, quyết định của Tịa án. Các trình tự, thủ tục để thực hiện biện
pháp nghiệp vụ này đòi hỏi chấp hành viên phải hết sức chặt chẽ, áp dụng
đúng những quy định của pháp luật để giải quyết công việc.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bảo

đảm thi hành án dân sự nói chung và án kinh doanh, thương mại nói riêng từ
thực tiễn tỉnh Điện Biên cho thấy, còn bộc lộ nhiều vướng mắc, do nhiều
nguyên nhân khác nhau gây cản trở cho việc tiến hành hoạt động thi hành án
dân sự. Bởi vậy, việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn các phương thức, tiến
hành áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự nói
chung và án kinh doanh, thương mại nói riêng nhằm chỉ ra những khó khăn,
vướng mắc là cần thiết. Từ đó, đề xuất giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu
quả áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên trong thực tiễn đảm bảo được
quyền, ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan, tạo tiền đề cho sự pháp
triển của kinh tế, xã hội.

56


Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN DÂN SỰ, KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo
đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại phải trên cơ sở quán triệt quan điểm của
Đảng về Chiến lược xây dựng pháp luật và Chiển lược cải cách tư pháp
Để hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại
nói chung và kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án nói riêng cần phải dựa
trên quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tình hình thực tiễn của đất
nước. Hồn thiện pháp luật về kê biên tài sản để thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại ngoài những nguyên tắc chung thì cần chú trọng các các
nguyên tắc: Phù hợp với các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, sửa

đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự và các quy định pháp luật khác có liên
quan đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong áp dụng. Tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm của các nước phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn, dự đốn
sự phát triển của kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn mới. Đảm bảo hiệu
lực thi hành bản án, quyết định của Tòa án, quyết định thi hành án của cơ
quan thi hành án dân sự; đảm bảo sự tự nguyện thi hành án, tôn trọng quyền
thỏa thuận của các đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không
trái pháp luật và đạo đức xã hội; bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng,
quyền lợi ích hợp pháp của cơng dân, trong đó chú trọng đến các quyền cơ
bản, tối thiểu đã được Hiến pháp ghi nhận; đảm bảo tính độc lập, tuân theo
pháp luật của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình kê
biên tài sản để thi hành án.
Để bản án, quyết định đã có hiệu lực được thi hành trên thực tế, đảm
bảo sự công bằng trong xã hội thì cần đổi mới quan điểm nhìn nhận các biện
pháp cưỡng chế trong đó có biện pháp kê biên tài sản là cần thiết. Những

57


hành vi vi phạm pháp luật từ chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự hay
các cá nhân, cơ quan, tổ chức làm cản trở hoạt động kê biên phải được xử lý
triệt để, nhanh chóng và đúng pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật về thi hành án dân sự trong đó có chế định pháp luật về kê biên tài sản và
các quy định pháp luật có liên quan để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành
án dân sự, đảm bảo công bằng trong xã hội.
Đẩy mạnh cơng cuộc xã hội hố cơng tác thi hành án dân sự thông qua
hoạt động của Thừa phát lại: Trên cơ sở kết quả tổng kết và kiến nghị của
Chính phủ, ngày 26/11/2015, Quốc hội đã thơng qua Nghị quyết số
107/2015/QH13, chấm dứt thí việc điểm và cho thực hiện chính thức chế định
thừa phát lại trong phạm vi cả nước, kể từ ngày 01/01/2016. Ngày

08/01/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP về tổ chức
và hoạt động của Thừa phát lại. Nghị định này quy định về Thừa phát lại, tổ
chức hành nghề của Thừa phát lại; thẩm quyền, phạm vi, thủ tục thực hiện
công việc của Thừa phát lại; kiểm sát hoạt động của Thừa phát lại; giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp và quản lý nhà nước về Thừa phát lại. Nghị định
có hiệu lực từ ngày 24/02/2020 được áp dụng rộng rãi trong toàn quốc, một
mặt giảm tải cho chấp hành viên, các cơ quan thi hành án dân sự đang phải
thụ lý số việc quá lớn, mặt khác huy động được mọi nguồn lực trong xã hội,
giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước cho hoạt động thi hành án dân sự,
đồng thời tạo điều kiện để người dân phát huy quyền tự thoả thuận, định đoạt
của mình trong lựa chọn cơ quan hay tổ chức giải quyết yêu cầu thi hành án.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại phải trên cơ sở hoàn thiện pháp luật về thi
hành án dân sự
Pháp luật về thi hành án dân sự hiện còn tản mạn, hiệu lực pháp lý chưa
cao, việc tổ chức, quản lý thi hành án thuộc các lĩnh vực khác nhau lại do
nhiều văn bản pháp luật khác nhau điều chỉnh, không đồng bộ dẫn đến việc
không thống nhất trong sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý và tổ
chức thi hành án, không phát huy hiệu quả thi hành án. Hoạt động thi hành án
do nhiều cơ quan thực hiện đã tạo ra sự thiếu thống nhất trong quản lý, thiếu
sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa cơ quan thi hành án và các cơ quan hữu
quan, hạn chế hiệu quả của hoạt động thi hành án. Hoàn thiện hệ thống pháp
58


luật về thi hành án dân sự chính là tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công
tác thi hành án dân sự. Vì vậy, Quốc hội cần nhanh chóng ban hành Bộ luật
Thi hành án trên cơ sở hệ thống hóa, pháp điển hóa, mở rộng phạm vi điều
chỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động thi hành án trong tình hình
hiện nay theo tinh thần của Nghị quyết số 17-NQ/TƯ ngày 01/08/2007 về đẩy

mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy
nhà nước và Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhất là Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, “xây
dựng Bộ luật Thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án; xác định
Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất cơng tác
thi hành án; từng bước xã hội hố hoạt động thi hành án”.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương
mại phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa quan điểm cần được
quán triệt mạnh mẽ trong quá trình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
nói chung, pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành bản án kinh
doanh, thương mại nói riêng, là ngun tắc cơ bản của tồn bộ hoạt động thi
hành án dân và hoạt động kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh,
thương mại từ giai đoạn xây dựng pháp luật thi hành án, tổ chức thực hiện
pháp luật kê biên tài sản nghiêm chỉnh, xử lý nghiêm khắc hành vi vi phạm
pháp luật thi hành án. Do đó, các quy định của pháp luật về kê biên tài sản để
bảo đảm thi hành án kinh doanh thương mại phải được tuân thủ, chấp hành
nghiêm chỉnh. Cơ quan thi hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành nghiêm
chỉnh bản án, quyết định của Tòa án. Mọi vi phạm pháp luật kê biên tài sản để
bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại phía cơ quan thi hành án,
chấp hành viên, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án phải bị xử
lý kịp thời.

59


3.1.4. Cần phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức

trong hệ thống chính trị trong giáo dục thuyết phục, hoà giải trong hoạt
động kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương
mại
Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, yều cầu
cần đặt ra là thái độ của Nhà nước, của xã hội và đặc biệt là của các chủ thể
pháp luật thi hành án dân sự đối với công tác kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án kinh doanh thương mại phải như thế nào. Nếu như các cơ quan nhà
nước, các tổ chức, đồn thể và nhân dân có thái độ đúng đắn đối với hoạt kê
biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại, thì họ sẽ
quan tâm đến cơng tác thi hành án dân sự nói chung. Nhờ có sự quan tâm này,
họ sẽ tích cực tham gia vào hoạt động kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại, tạo ra hiệu quả cao cho công tác kê biên tài
sản.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả kê biên tài sản
để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014)
đã xuất hiện nhiều quy định còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn, nhiều
quy định, thủ tục quan trọng nhất là trong kê biên, xử lý tài sản để thi hành án
còn được quy định tại các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư thậm
chí là cơng văn nên thiếu tính đồng bộ, thống nhất, hiệu lực cịn bị hạn chế.
Cần rà sốt lại các quy định pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng và các
quy định pháp luật khác như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Tổ chức Toà án
nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân… có liên quan đến hoạt động
thi hành án dân sự để sửa đổi, bổ sung tạo sự thống nhất, đồng bộ thuận lợi
cho hoạt động thi hành án dân sự và kê biên tài sản để thi hành án. Tăng
cường hơn nữa sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và các cấp
chính quyền đối với cơng tác thi hành án dân sự nói chung và kê biên tài sản
để thi hành án nói riêng nhằm nâng cao vai trò, vị thế của hệ thống cơ quan
thi hành án dân sự; về sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án,
hiệu lực của các quyết định về thi hành án. Cần tăng cường hơn nữa sự đầu tư

nghiên cứu về lý luận và thực tiễn trong công tác thi hành án dân sự; trên cơ
sở lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng của các nước để vận dụng xây dựng
60


×