Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

LÝ LUẬN VỀ KẾ HOẠCH SẢN XUẤT TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.54 KB, 24 trang )

LÝ LUẬN VỀ KẾ HOẠCH SẢN XUẤT TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về kế hoạch trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm chung về kế hoạch trong doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về kế hoạch
Hiểu theo nghĩa chung nhất, kế hoạch là sự thể hiện mục đích, kết quả cũng như
cách thức, giải pháp thực hiện cho một hoạt động tương lai. Cách hiểu tổng quát này đúng
cho các loại kế hoạch, có thể là kế hoạch cho một hoạt động, một công việc hay một dự
án sắp sửa làm gọi là kế hoạch hoạt động. Cũng có thể đó là kế hoạch cho sự phát triển
trong tương lai của một cá nhân, gia đình hay của một tổ chức kinh tế, xã hội gọi là kế
hoạch phát triển một đơn vị, một địa phương hay cả quốc gia. Nhưng dù là kế hoạch hoạt
động hay kế hoạch phát triển thì bản chất của công tác này chính là sự hướng tới tương
lai.
Cụ thể hơn, kế hoạch là công việc xác định xem một quá trình phải làm gì? Làm
như thế nào? Khi nào làm? Ai sẽ làm? Và sâu hơn nữa là làm như thế để làm gì?. Vì vậy
để có kế hoạch cần phải tiến hành quá trình soạn lập. Tùy theo quy mô, mức độ và tính
chất của hoạt động để tổ chức quá trình soạn lập với các mức độ khác nhau. Từ việc hình
thành kế hoạch trong đầu óc, suy nghĩ, cũng có thể là một cuộc trao đổi tập thể đến việc
thể chế hóa quá trình soạn lập với các bước khác nhau. Nhưng một kế hoạch ở bất kỳ quy
mô, hình thức nào cũng hàm chứa hai nội dung cơ bản là mục tiêu và cách thức, giải pháp
thực hiện. Đối tượng lập kế hoạch có thể là hoạt động của một cá nhân, gia đình, tập thể
hay doanh nghiệp, địa phương hoặc phạm vi lớn nhất là toàn bộ nền kinh tế.
Trên thực tế thường hay có sự nhầm lẫn giữa kế hoạch và kế hoạch hóa, thậm chí
còn đồng nhất hai khái niệm này và cho rằng kế hoạch hóa là quá trình soạn lập kế hoạch,
kết quả của quá trình kế hoạch hóa là tạo ra các văn bản dự thảo về những dự định và
giải pháp thực hiện trong tương lai. Nhưng thực chất, kế hoạch và kế hoạch hóa là hai
khái niệm hoàn toàn khác nhau. Kế hoạch hàm chứa những dự định về kết quả và giải
pháp thực hiện trong tương lai, nhưng việc xây dựng kế hoạch không được coi là mục
đích của kế hoạch hóa, nó chỉ được coi là bước đầu tiên của quy trình kế hoạch hóa. Mục
đích của kế hoạch hóa là làm thế nào để thực hiện được các mục tiêu đặt ra trong kế
hoạch, biến những giải pháp, chương trình hành động đặt ra trong kế hoạch thành thực tế.
Điều đó có nghĩa là kế hoạch hóa còn nhấn mạnh đến các quá trình khác nữa, đó là quá


trình tổ chức, triển khai các hoạt động trên thực tế theo kế hoạch.
Trong cuốn “Giới thiệu về kế hoạch phát triển kinh tế trong thế giới thứ ba” của
Diana Conyers và Peter Hills thì cho rằng: kế hoạch hóa là một quá trình liên tục bao gồm
việc đưa ra các mục tiêu cần đạt tới trong tương lai; lựa chọn và quyết định các phương
pháp khác nhau trong tổ chức, sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có nhằm hướng tới việc
thực hiện mục tiêu đặt ra cho tương lai.
Theo quan điểm của OECD thì: “kế hoạch hóa được hiểu là các hoạt động nhằm
tạo ra và thực thi kế hoạch, bao gồm thiết kế ra, vạch ra từ trước một kế hoạch để xây
dựng và thực thi” (OECD, 1971)
Theo PGS.TS Ngô Doãn Vịnh viện trưởng viện chiến lược phát triển (bộ KH&ĐT)
cho rằng: “ Nói một cách đơn giản kế hoạch hóa chính là làm cho công việc diễn ra một
cách có kế hoạch. Cụ thể hơn, nói kế hoạch hóa tức là nói đến lập kế hoạch và biến kế
hoạch thành thực tế cuộc sống đối với một công việc cụ thể hay đối với một hệ thống
nhất định”.
Các nhận định trên đề phản ánh: (1) kế hoạch hóa chính là một phương thức quản
lí nền kinh tế bằng mục tiêu; (2) Kế hoạch hóa kinh tế quốc dân bao gồm ba mặt công tác:
công tác xây dựng kế hoạch; công tác lãnh đạo và tổ chức thực hiện kế hoạch, công tác
theo dõi kiểm tra, đánh giá thực hiện kế hoạch.
Trong từ điển bách khoa Việt Nam “kế hoạch hóa là phương thức quản lý vĩ mô
nền kinh tế quốc dân của nhà nước theo mục tiêu, là hoạt động của con người trên cơ sở
nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là các quy luật kinh tế để
tổ chức quản lí các đơn vị kinh tế, các ngành, các lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc
dân theo những mục tiêu thống nhất, dự kiến trước phương hướng, cơ cấu, tốc độ phát
triển và có những biện pháp tương ứng đảm bảo thực hiện, nhằm đạt hiệu quả kinh tế xã
hội cao”. (trang 469 từ điển Bách khoa Việt Nam 2 – NXB từ điển Bách khoa, Hà Nội
2002)
Với khái niệm này kế hoạch hóa nền kinh tế được hiểu theo góc độ thực hiện, bao
gồm các hoạt động: (1) soạn lập kế hoạch (xác định mục tiêu, chỉ tiêu phát triển và hệ
thống giải pháp chính sách áp dụng trong thời kì kế hoạch); (2) tổ chức thực hiện kế
hoạch (quá trình tổ chức phối hợp hoạt động của các bên, sử dụng các chính sách, giải

pháp nhằm khai thác, huy động và sử dụng nguồn lực trong quá trình thực hiện mục tiêu
kế hoạch); (3) theo dõi, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch với nhứng yếu tố mới
phát sinh trong môi trường kinh tế (quá trình theo dõi thường xuyên hoạt động của hệ
thống kinh tế quốc dân, đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu kế hoạch và tác động của
kế hoạch đến phát triển kinh tế xã hội, bổ sung và điều chỉnh kế hoạch trong kỳ hoặc kỳ
kế hoạch sau).
Như vậy, kế hoạch và kế hoạch hóa là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Các đối
tượng liên quan đến công tác lập kế hoạch cần phải hiểu rõ vấn đề này để tránh cho công
tác kế hoạch kết thúc bằng sự ra đời của một bản kế hoạch trên giấy, còn các mục tiêu kế
hoạch thì không thực hiện được.
1.1.1.2. Khái niệm về kế hoạch cấp doanh nghiệp
Kế hoạch là hoạt động của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật
xã hội và tự nhiên đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức, quản lý các đơn vị kinh tế –
kỹ thuật, các ngành, các lĩnh vực hay toàn bộ nền sản xuất xã hội theo mục tiêu thống nhất.
Kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một phương thức quản
lý doanh nghiệp theo mục tiêu, nó bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ
định của các nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
của đơn vị mình nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Như vậy, Kế hoạch trong doanh nghiệp là thể hiện kỹ năng tiên đoán mục tiêu phát
triển và tổ chức quá trình thực hiện mục tiêu đề ra.
1.1.1.3. Nguyên tắc, chức năng của kế hoạch doanh nghiệp.
a. Chức năng của kế hoạch doanh nghiệp
Kế hoạch doanh nghiệp là một công cụ ra quyết định nên nó luôn giữ một vị trí quan
trọng trong hệ thống quản lý ở tầm vĩ mô, vị trí của nó được thể hiện trong các chức năng
tiềm ẩn sau:
Thứ nhất, là chức năng ra quyết định. Kế hoạch cho phép xây dựng quy trình ra quyết
định và phối hợp các quyết định. Kế hoạch tạo nên một khuôn khổ hợp lý cho việc ra quyết
định, chức năng này là một trong những điểm mạnh của hệ thống kế hoạch hoá trong doanh
nghiệp.
Thứ hai là chức năng giao tiếp: Kế hoạch tạo điều kiện cho việc giao tiếp giữa các

thành viên của ban lãnh đạo, cho phép lãnh đạo các bộ phận khác nhau phối hợp xử lý các
vấn đề dài hạn, bộ phận kế hoạch cũng thu lượm được từ các bộ phận nghiệp vụ các triển
vọng trung hạn và chuyển tới các bộ phận khác.
Thứ ba là chức năng quyền lực: Việc công bố một quy trình kế hoạch hợp lý và kế
hoạch là một trong những phương tiện để khẳng định tính đúng đắn của các định hướng
chiến lược đã chọn, quy trình kế hoạch có thể được xem là một trong những phương tiện
mà người lãnh đạo nắm giữ để định hướng tương lai của doanh nghiệp và thực hiện sự
“thống trị” của họ.
b. Các nguyên tắc kế hoạch doanh nghiệp.
Nguyên tắc kế hoạch xác định tính chất và nội dung hoạt động kế hoạch của đơn vị
kinh doanh tuân thủ đúng các nguyên tắc của kế hoạch tạo ra điều kiện tiền đề cho việc
nâng cao hiệu quả và giảm thiểu tiêu cực có thể có trong hoạt động của doanh nghiệp.
Các nguyên tắc cơ bản của kế hoạch doanh nghiệp:
Thứ nhất là nguyên tắc thống nhất: Nguyên tắc thống nhất yêu cầu bảo đảm sự phân
chia và phối hợp chặt chẽ trong quá trình xây dựng, triển khai tổ chức thực hiện kế hoạch
giữa các cấp, các phòng ban trong một doanh nghiệp thống nhất.
Thứ hai là nguyên tắc tham gia: Đây là nguyên tắc có quan hệ mật thiết với nguyên
tắc thống nhất. Nguyên tắc này có nghĩa là mỗi thành viên của doanh nghiệp đều tham gia
những hoạt động cụ thể trong công tác kế hoạch hoá, không phụ thuộc vào nhiệm vụ và
chức năng của họ. Công tác kế hoạch có sự tham gia của mọi thành phần trong doanh
nghiệp sẽ mang lại những lợi ích sau:
- Mỗi thành viên của doanh nghiệp có hiểu biết sâu sắc hơn về doanh nghiệp của mình
vì vậy nếu tham gia trong công tác kế hoạch họ sẽ nhận được thông tin một cách chủ động
hơn và việc trao đổi thông tin sẽ dễ dàng hơn.
- Sự tham gia sẽ dẫn đến việc kế hoạch của doanh nghiệp trở thành kế hoạch của
chính người lao động. Người lao động tham gia vào việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch
chính là đem lại sự thoả mãn nhu cầu này cho chính bản thân họ.
- Cho phép người trực tiếp tham gia vào công việc kế hoạch phát huy tính chủ động
của mình với hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ ba là kế hoạch phải mang tính linh hoạt. Do nhiều bất định trong tương lai và sai

lầm có thể có ngay cả trong các dự báo thông thái nhất. Nội dung của nguyên tắc này được
thể hiện
- Cần có nhiều phương án kế hoạch.
- Ngoài kế hoạch chính cần xây dựng những kế hoạch dự phòng, kế hoạch phụ để có
thể tạo dựng trong kế hoạch một khả năng thay đổi phương hướng khi những sự kiện
không lường trước được có thể xảy ra.
- Cần phải xem xét lại các kế hoạch một cách thường xuyên để giúp kế hoạch không xa
dời hiện tại.
1.1.1.4. Quy trình kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
Quy trình kế hoạch có thể hiểu là quy trình bao gồm các bước tuần tự, cho phép
vạch ra các mục tiêu tại những thời điểm khác nhau trong tương lai, dự tính các phương
tiện cần thiết và tổ chức triển khai sử dụng các phương tiện nhằm đạt các mục tiêu.
Một trong những quy trình được áp dụng rộng rãi ở các nước kinh tế thị trường phát
triển có tên là quy trình quy trình P.D.C.A
Điều chỉnh(ACT) Lập kế hoạch(Plan)
Thực hiện các điều chỉnh cần thiết
Xác định mục tiêu và quy trình cần thiết để thực hiện mục tiêu
Đánh giá và phân tích quá trình thực hiện
Tổ chức thực hiện qui trình đã dự định


Kiểm tra(check) Thực hiện(Do)
Theo sơ đồ này, quy trình kế hoạch trong doanh nghiệp bao gồm các bước:
Bước 1: Soạn lập kế hoạch
Soạn lập kế hoạch là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong quy trình kế hoạch hóa.
Với nội dung chủ yếu là xác định các nhiệm vụ, các mục tiêu chiến lược, các chương trình
cũng như các chính sách, biện pháp áp dụng trong thời kỳ kế hoạch của doanh nghiệp để
thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Trong điều kiện kinh tế thị trường, soạn lập kế hoạch
thường phải là quá trình xây dựng nhiều phương án khác nhau, trên cơ sở đó đưa ra các lựa
chọn chiến lược và các chương trình hành động, nhằm mục đích đảm bảo thực hiện các lựa

chọn này
Bước 2: Triển khai tổ chức thực hiện kế hoạch
Nôi dung của quá trình này bao gồm việc thiết lập và tổ chức các yếu tố nguồn lực
cần thiết, sử dụng các chính sách, các biện pháp cũng như đòn bẩy quan trọng tác động
trực tiếp đến các cấp thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đảm
bảo các yêu cầu tiến độ đặt ra trong các kế hoạch tác nghiệp cụ thể kể cả thời gian, quy mô,
chất lượng công việc. Kết quả hoạt động của quá trình này được thể hiện bằng những chỉ
tiêu thực tế của hoạt động doanh nghiệp.
Bước 3: Tổ chức công tác theo dõi, giám sát, thực hiện kế hoạch
Nhiệm vụ của quá trình này là thúc đẩy thực hiện các mục tiêu đặt ra và theo dõi
phát hiện những phát sinh không phù hợp với mục tiêu. Khi phát hiện những phát sinh
không phù hợp, điều quan trọng là phải tìm được các nguyên nhân dẫn đến vấn đề đó. Đó
có thể là những nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài, cũng có thể là những
nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía các nhà lãnh đạo.
Bước 4: Điều chỉnh thực hiện kế hoạch
Từ những phân tích về hiện tượng không phù hợp với mục tiêu, các nhà kế hoạch
đưa ra các quyết định điều chỉnh cần thiết và kịp thời. Có thể là thay đổi nội dung của hệ
thống tổ chức, thực hiện sự thay đổi một số mục tiêu bộ phận trong hệ thống mục tiêu đặt
ra ban đầu , và khi mà những điều chỉnh này vẫn không đạt hiệu quả thì quyết định cuối
cùng sẽ là chuyển hướng sản xuất kinh doanh.
Quy trình kế hoạch hóa nêu trên không phải là trình tự tác nghiệp tuần tự đơn giản
mà phải được thực hiện đan xen, hỗ trợ nhau trong tất cả các khâu. Quá trình này đòi hỏi
tính linh hoạt và nghệ thuật quản lý rất lớn.
1.1.2. Vai trò kế hoạch doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự thống trị của nhà nước chuyên chính vô sản, kế
hoạch được thể hiện là những quyết định mang tính mệnh lệnh phát ra từ trung ương. Các
chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp chính là các chỉ tiêu pháp lệnh mang tính toàn diện, chi
tiết mà cơ quan quản lý cấp trên giao xuống trên cơ sở cân đối chung toàn ngành và tổng
thể nền kinh tế quốc dân.

Như vậy, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là
cơ sở điều tiết mọi hoạt động tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Có thể nói cơ chế kế hoạch hoá tập trung áp dụng ở Việt Nam trong thời gian đầu,
nó đem lại những kết quả đáng kế nhất là trong thời kỳ Việt Nam thực hiện cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Với cơ chế này nhiều doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ nước ta đã ra đời
và cung cấp một khối lượng của cải vật chất đáng kể đảm đương được những nhiệm vụ
nặng nền trong công cuộc phục vụ kháng chiến và quốc kế dân sinh.
Tuy vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, cơ chế kế hoạch hoá theo mô hình tập
trung mệnh lệnh trở nên không còn phù hợp, các doanh nghiệp phải đối mặt với các quy
luật thị trường, vì vậy những dấu hiệu thị trường là cơ sở để các doanh nghiệp thực hiện
hành vi sản xuất kinh doanh của mình. Và kế hoạch hoá vẫn là cơ chế quản lý cần thiết,
hữu hiệu của các doanh nghiệp vì kế hoạch mang một vị trí rất quan trọng trong doanh
nghiệp:
- Tập trung sự chú ý của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục tiêu vì kế
hoạch nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp. Lập kế hoạch là khâu đầu tiên quan
trọng nhất trong quy trình kế hoạch hóa là công việc duy nhất có liên quan tới việc xác lập
các mục tiêu cần thiết.Và trên cơ sở các mục tiêu đã chọn, doanh nghiệp quyết định các
hành động và bước đi tiếp theo để đạt được các mục tiêu cho nên chính các hoạt động của
công tác kế hoạch là tập trung sự chú ý vào những mục tiêu này.
- Công tác kế hoạch với việc ứng phó với những bất định và đổi thay của thị trường vì
lập kế hoạch là dự kiến những vấn đề của tương lai. Thị trường bản thân nó rất linh hoạt và
thường xuyên biến động, kế hoạch và quản lý giúp doanh nghiệp dự kiến được những vấn
đề tương lai. Từ đó tìm ra cách tốt nhất để đạt mục tiêu đặt ra, phân công, phối hợp hoạt
động của các bộ phận trong hệ thống trong quá trình thực hiện các mục tiêu và ứng phó với
những bất ổn trong diễn biến sản xuất kinh doanh.
- Công tác kế hoạch với việc tạo khả năng tác nghiệp kinh tế trong doanh nghiệp.
Công tác kế hoạch doanh nghiệp tạo cơ sở cho việc nhìn nhận logic các nội dung hoạt động
có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình tiến tới mục tiêu sản xuất sản phẩm và dịch
vụ cuối cùng. Trên nền tảng đó, các nhà quản lý thực hành phân công, điều độ, tổ chức các
hoạt động cụ thể, chi tiết theo đúng trình tự, bảo đảm cho sản xuất sẽ không bị rối loạn và ít

bị tốn kém.
1.1.3. Hệ thống kế hoạch trong doanh nghiệp
1.1.3.1. Theo góc độ thời gian:
Theo góc độ thời gian kế hoạch trong doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận cấu thành:
- Kế hoạch dài hạn: Bao trùm lên khoảng thời gian là 10 năm. Quy trình soạn lập kế
hoạch dài hạn được đặc trưng bởi: môi trường liên quan được hạn chế bởi thị
trường mà doanh nghiệp đã có mặt, dự báo trên cơ sở ngoại suy từ quá khứ, chủ yếu
nhấn mạnh các ràng buộc về tài chính, sử dụng rộng rãi các phương pháp kinh tế
lượng để dự báo.
- Kế hoạch trung hạn: Cụ thể hóa những định hướng của kế hoạch dài hạn ra thành
những khoảng thời gian ngắn hạn hơn thường là 3-5 năm.
- Kế hoạch ngắn hạn: thường là kế hoạch hàng năm, kế hoạch quý, tháng. Kế hoạch
ngắn hạn bao gồm các phương pháp cụ thể sử dụng nguồn lực cần thiết để đạt mục
tiêu trong kế hoạch trung và dài hạn.
Ba loại kế hoạch ngắn, trung và dài hạn cần phải được liên kết chặt chẽ với nhau và
không được phủ nhận lẫn nhau. Và để thực hiện được mối quan hệ này thì các nhà lãnh
đạo chủ chốt trong doanh nghiệp nên thường xuyên xem xét và sửa đổi các quyết định
trước mắt xem chúng có phục vụ các chương trình dài hạn hay không, đồng thời các nhà

×