Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH LỚP 9 KHI HỌC PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.67 KB, 18 trang )

1

ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ PHÁT HUY TÍNH
CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH LỚP 9 KHI HỌC PHẦN LỊCH
SỬ THẾ GIỚI
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việc dạy và học Lịch sử luôn là vấn đề rất được chú trọng trong trường phổ
thơng, vì Lịch sử là một mơn khoa học khơng chỉ dạy cho học sinh về những
kiến thức đơn thuần của những trận đánh, những nhân vật, sự kiện… mà cịn là
một q trình giáo dục về lịng u nước, niềm tự hào dân tộc, kinh nghiệm
trong quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Lịch sử cịn để lại những
bài học vơ cùng q báu cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trên con
đường xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay khi mà Chương trình giáo dục phổ thơng mới đang
trong q trình hồn thiện thì việc áp dụng các bài dạy theo hướng phát huy tính
chủ động, tích cực của học sinh trong chương trình giáo dục hiện hành là việc
làm cần thiết và cấp bách, vì đây là cầu nối và là một bước đệm để khi Chương
trình giáo dục phổ thông mới đi vào thực hiện sẽ được thuận lợi hơn.
Là một giáo viên nói chung và là một giáo viên Lịch sử nói riêng, bản thân
tơi thấy rằng cần phải có những đóng góp để việc thực hiện Chương trình giáo
dục phổ thơng mới đạt được kết quả cao nhất. Đặc biệt là góp phần giúp cho học
sinh dần dần làm quen với cách học mới khi mà các em vẫn cịn thói quen học
theo cách học truyền thống.
Trong quá trình nghiên cứu soạn giảng theo hướng phát triển năng lực, bản
thân tôi cũng đã rút ra được một số kinh nghiệm. Mà trong đó tơi thấy hài lòng
nhất là những dạng bài tập lịch sử nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của
học sinh lớp 9 phần Lịch sử thế giới. Khi tôi sử dụng những bài tập này trên lớp
đã có những hiệu ứng tích cực hơn trước như: lớp học ln có khơng khí vui
tươi, học sinh rất tích cực hoạt động, chủ động hơn trong quá trình làm việc, các




2

em đã bắt đầu “nói nhiều hơn” và có sự tranh luận nhiều hơn… Kết quả học tập
của các em cũng vì thế mà khơng ngừng nâng cao. Chính vì những lí do trên mà
tơi đã chọn đề tài: MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ
PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH LỚP 9 KHI
HỌC PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhằm giúp học sinh phát huy tính chủ động, tích cực trong các hoạt động tự
học, tự rèn dựa theo các nội dung bài học trong sách giáo khoa để học sinh tiếp
nhận, vận dụng kiến thức mới thông qua các nhiệm vụ học tập đặt ra trong từng
bài học, đồng thời giúp học sinh dành nhiều thời gian trên lớp để luyện tập, thực
hành, trình bày, thảo luận, sáng tạo, bảo vệ kết quả học tập của mình.
Xây dựng các dạng bài tập lịch sử mang tính tích hợp, liên mơn, thiết kế tiến
trình tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, chủ động cho học sinh, phù hợp với
các hoạt động đặc thù của môn Lịch sử. Từng hoạt động được thiết kế rõ ràng
theo con đường hình thành kiến thức, định hướng sản phẩm, tạo không gian cho
học sinh hoạt động, sáng tạo dựa trên các tư liệu lịch sử đa dạng, phong phú để
phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù trong môn Lịch sử của học sinh.
3. Đối tượng, phạm vi:
Đối tượng là: một số dạng bài tập nhằm tăng cường và phát huy tính chủ
động, tính tích cực của học sinh lớp 9 khi học phần Lịch sử thế giới.
Đối tượng khảo sát là học sinh những lớp 9 mà tôi đang dạy tại Trường Trung
học phổ thông An Lạc Thôn.
Phạm vi: môn Lịch sử lớp 9 phần thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Lý thuyết.
Tham khảo các tài liệu do Bộ giáo dục ban hành, các tài liệu thông qua các

đợt tập huấn của Sở Giáo dục trong thời gian vừa qua, các loại sách báo tham
khảo khác.


3

Thực tiễn thơng qua q trình quan sát, khảo sát và áp dụng vào thực tế giảng
dạy.
5. Tính mới của đề tài
Vấn đề dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
học sinh đã được thực hiện trong một vài năm vừa qua, tuy nhiên việc thực hiện
cịn mang nặng tính hình thức, lý thuyết đơn thuần chưa tạo được nhiều hoạt
động cho học sinh, đôi khi trong các tiết học giáo viên chỉ chú trọng dạy sao cho
hết nội dung bài học chứ chưa có những bài tập thực hành cho học sinh.
Trong thời gian qua bản thân tơi cũng đã có sự đổi mới trong dạy theo phát
triển năng lực học sinh và cũng dần dần hoàn chỉnh được những bài soạn giảng
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và nhận thấy rằng nếu
ta chỉ chú trọng nhiều vào lý thuyết mà khơng có những bài tập để học sinh thực
hiện thì cũng khơng thể nào thật sự giúp học sinh phát huy được tính tích cực và
chủ động của các em.
Khi nói đến hai từ “bài tập” đôi khi các em học sinh sẽ nghĩ rằng: “lịch sử mà
cũng có bài tập sao?”, “khơng phải Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng là được hay
sao?”. Đây là một thực tế đã tồn tại từ rất lâu và là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến việc học sinh sợ Lịch sử, khơng thích học Lịch sử. Chính vì
vậy tơi đã mạnh dạn đưa các bài tập lịch sử vào trong các tiết dạy của mình
nhằm giúp học sinh có hướng tiếp cận mới, có cách nhìn mới đối với bộ mơn
Lịch sử. Qua đó cũng giúp các em phát huy được tính tích cực và chủ động hơn
để khi Chương trình giáo dục phổ thơng mới được thực hiện các em sẽ dễ dàng
thích nghi hơn. Và trong q trình giảng dạy tơi tâm đắc nhất là khi áp dụng đối
với học sinh lớp 9 vì đây là những học sinh mà tôi đã cho các em học thực hiện

học theo hướng phát triển năng lực từ năm trước. Chính vì đã có sự làm quen
trước đó nên trong q trình thực hiện đã có một số kết quả rất tích cực như: các
em đã tự biết phải thực hiện những hoạt động của cách học mới, khả năng trình
bày có nhiều tiến bộ, thực hiện các nhiệm vụ được giao một cách nhanh chóng,
việc tìm các tài liệu cho bài mới cũng phù hợp hơn so với trước…


4

II.NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
- Ngày 3 tháng 10 năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn
số 4612/BGDĐT-GDTrH, hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ
thơng hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ
năm học 2017-2018.
- Theo Công văn 2167/SGDĐT-GDTrH về tổ chức quản lí và các hoạt động
chun mơn trong nhà trường năm học 2017-2018 và Công văn 1938/ SGDĐTGDTrH về việc tổ chức và quản lí dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng
phát triển năng lực và phẩm chất học sinh năm học 2018-2019. Nhằm đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy năng lực của học sinh.
- Ban giám hiệu Trường Trung học phổ thông An Lạc Thôn cũng đã có
những sự chỉ đạo về chun mơn trong việc dạy và học theo hướng phát triển
năng lực học sinh.
- Trong năm học 2018-2019 và 2019-2020, tôi được phân công giảng dạy ở
bộ môn Lịch sử lớp 9. Trong q trình giảng dạy tơi thấy rằng đối với những học
sinh của năm học 2019-2020, khi cho các em làm những bài tập mà tơi đề ra thì
các em đã thực hiện và có kết quả tốt hơn so với năm học 2018-2019. Chính vì
vậy mà tơi đã mạnh dạng đưa vào nhiều hơn nữa các dạng bài tập mới đối với
học sinh lớp 9 trong năm học này mà đặc biệt là ở phần thế giới.
2. Cơ sở thực tiễn (Thực trạng của đề tài):
Hiện nay trong hoạt động dạy và học ở các bộ môn khoa học xã hội nói

chung và ở bộ mơn Lịch sử nói riêng vẫn cịn mang nặng tính lý thuyết, mang
tính truyền đạt một chiều từ người dạy sang người học. Trong các tiết học vẫn
thường diễn ra theo kiểu thầy hỏi trò trả lời, thầy đọc trò chép, cuối tiết là thầy
hỏi lại trị nhớ được gì thì nói đó. Đơi khi cũng có những hoạt động vào cuối tiết
như khoanh trịn câu trả lời trắc nghiệm, nối cột… tuy nhiên những hoạt động đó
chỉ mang tính hình thức chứ chưa thật sự là đổi mới, chưa thật sự phát huy được
tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.


5

Nguyên nhân của thực trạng trên là do:
Thứ nhất là do một bộ phận giáo viên cịn mang tâm lí ngại đổi mới vì đổi
mới là phải làm nhiều hơn, phải chuẩn bị kỹ hơn và đòi hỏi người giáo viên phải
thực sự đổi mới bản thân từ trong tư tưởng đến hành động thì mới thực sự làm
được. Mà điều đó là khơng hề dễ dàng một chút nào, khi mà cách dạy theo
truyền thống đã được hình thành từ lâu đã hình thành một lối mịn trong khơng ít
giáo viên của chúng ta hiện nay.
Thứ hai là một bộ phận giáo viên mặt dù cũng có sự thay đổi nhưng sự thay
đổi đó là chưa thật sự đáng kể, đơi khi sự đổi mới chỉ mang tính hình thức, đối
phó trong các tiết dạy khi có dự giờ và trong các tiết dạy hàng ngày vẫn như cũ
không có gì đổi mới.
Thứ ba là do chương trình lịch sử lớp 9 có rất nhiều nội dung, thời lượng kiến
thức rất lớn nên đôi khi giáo viên cho rằng thời gian giảng dạy nội dung kiến
thức cịn khơng đủ thì lấy đâu ra thời gian để làm bài tập thực hành. Và đôi khi
giáo viên cho rằng bài tập hay thực hành là của các môn tự nhiên chứ Lịch sử thì
cần gì phải như vậy cho phiền phức.
Thứ tư là từ cấp độ người quản lí cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động dạy
và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Ví
dụ như người quản lí có muốn thực sự đổi mới thì họ sẽ sâu sát hơn trong vấn đề

này từ đó sẽ có tác động tích cực đến giáo viên trong q trình đổi mới, cịn
ngược lại thì thật khó khăn cho giáo viên trong việc thực hiện dạy học theo
hướng phát triển năng lực của học sinh. Và một thực tế hiện nay là việc đổi mới
từ cấp quản lí cịn chưa thật sự sâu sát dẫn đến việc thực hiện của giáo viên chỉ
dừng lại ở chỗ đối phó mà thơi.
Thứ năm là cơ sở vật chất của chúng ta hiện nay còn chưa đáp ứng các điều
kiện để dạy và học theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh vì:
số học sinh q đơng, các phương tiện dạy học còn nhiều hạn chế…
- Kết quả là dù đã thực hiện đổi mới dạy học theo định hướng phát triển năng
lực hơn 2 năm nhưng kết quả còn rất hạn chế. Chính vì vậy mà hiện nay cịn


6

nhiều học sinh vẫn chưa thực hiện được các yêu cầu trong q trình học, thậm
chí có một số học sinh vẫn chưa được dạy và học theo hướng phát huy tính tích
cực và chủ động.
* Số liệu minh chứng: Ở đây tôi xin đưa ra một vài con số thống kê về chất
lượng học tập ở lớp 9 tôi đã giảng dạy trong các năm học 2018-2019 (tôi chỉ lấy
kết quả ở học kì 1 của các năm để tiện làm phép so sánh với các năm học sau)
Năm học/ xếp loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém

2016 - 2017
1
17

14
9
2

2017-2018
0
11
20
6
0

3. Biện pháp và giải pháp chủ yếu để thực hiện đề tài.
* Cở sở đề xuất các giải pháp:
Dựa vào tình hình học tập thực tế của những học sinh lớp 9 mà tôi đang dạy,
ở giai đoạn này các em đã có sự trưởng thành hơn và có ý thức cao hơn trong
quá trình học tập. Hơn nữa đây là những học sinh đã được học theo hướng phát
triển năng lực từ năm trước, đây là một thế mạnh khi tôi áp dụng nhiều hơn các
biện pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và
nhất là cho các em làm nhiều dạng bài tập hơn.
Căn cứ vào tình hình học tập thực tế của học sinh từng lớp mà tơi có những
dạng bài tập khác nhau sao cho các em có thể phát huy hết năng lực của mình
mà khơng gây tâm lí chán nản do khơng hồn thành được cơng việc được giao.
Nếu là học sinh có học lực tốt thì ta có thể cho ở mức vận dụng và vận dụng cao
nhiều hơn so với phần biết, hiểu và ngược lại ta chỉ nên cho ở mức độ biết và
hiểu nhiều hơn còn vận dụng thì ít đi.
* Các giải pháp chủ yếu:
Dạng bài tập thứ nhất: thảo luận với bạn và viết
Đối với dạng bài tập này địi hỏi các em phải có sự chủ động nghiên cứu bài
học mới trước khi đến lớp, sau đó các em sẽ dựa trên những tư liệu mà mình thu



7

thập được để cùng nhau tìm kiếm và chọn ra một vấn đề mà các em cảm thấy
hứng thú nhất để cùng nhau thảo luận, từ đó làm cho sự hiểu biết của các em về
nội dung học tập của mình thêm phong phú hơn. Đồng thời ta yêu cầu các em
đưa ra một nội dung mà các em muốn biết nhất về nội dung của bài học vừa qua.
Vì đây là dạng bài tập mở chứ không theo một nội dung mặc định mà giáo viên
đề ra như trước đây nên các em sẽ làm việc thoải mái hơn và đạt kết quả tốt hơn.
Từ đó ta sẽ tạo được sự tích cực, chủ động hơn trong q trình học tập của các
em.
Ví dụ:
+ Khi dạy bài 1. Liên Xô và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những
năm 70 của thế kỉ XX. Ta có thể cho bài tập với nội dung như sau: em hãy thảo
luận với bạn và viết
- Vào cột K (Know): một điều thú vị nhất về Liên Xô và các nước Đông Âu
sau năm 1945 mà em biết.
- Vào cột W (Want): một điều em muốn biết về Liên Xô và các nước Đông
Âu từ năm 1945 đến những năm 70 của thế kỉ XX.
- Vào cột L (Learn): câu trả lời cho câu hỏi ở cột W.
K
………………………

W
L
…………………………. …………………….....

………………………

…………………………. ……………………….


………………………
………………………… ……………………….
+ Hay khi dạy bài 5. Các nước Đông Nam Á. Ta có thể cho bài tập với nội
dung như sau: Em hãy thảo luận với bạn và viết
- Vào cột K (Know): một điều thú vị nhất về các nước Đông Nam Á mà em
biết.
- Vào cột W (Want): một điều em muốn biết về các nước Đông Nam Á.
- Vào cột L (Learn): câu trả lời cho câu hỏi ở cột W.
K
………………………

W
L
…………………………. …………………….......

………………………

…………………………

………………………..


8

………………………

………………………

………………………


Dạng bài tập thứ hai: Tìm ý nghĩa của các từ khóa
Việc xác định từ khóa là rất quan trọng trong quá trình học tập và để làm
được điều này trước tiên từ nội dung của bài học các em cần tìm ra được cụm từ
quan trọng nhất sau đó sẽ tiến hành phân tích để nắm được nội dung bài học.
Với bài tập dạng này ta có thể yêu cầu các em thực hiện ở đầu tiết học hoặc
trong phần luyện tập đều được (nếu thực hiện ở đầu tiết học cần lưu ý về mặt
thời gian).
Dạng bài tập này nhằm mục đích giúp các em có sự chủ động hơn trong quá
trình thảo luận vì khi nắm được những nội dung của các từ khóa sẽ giúp các em
mạnh dạng hơn trong việc trình bày các ý nghĩ và suy luận của bản thân mình.
Qua đó giúp các em có được sự khái quát về mặt kiến thức, đồng thời giúp các
em hiểu sâu hơn và nhớ lâu hơn về nội dung học tập của mình.
Ví dụ:
+ Khi học bài 2. Liên Xô và các nước Đông Âu từ giữa những năm 70 đến
đầu những năm 90 của thế kỉ XX. Ta có thể yêu cầu các em cùng thảo luận và
nêu ý nghĩa của các từ khóa theo dạng phiếu học tập (có gợi ý) sau:
Từ khóa
Đơng Âu

Ý nghĩa
Các nước xã hội chủ nghĩa ở phía đơng châu Âu (phân
biệt với Tây Âu, tức các nước tư bản chủ nghĩa ở phía
tây châu Âu)

SNG
Cải tổ
M. Gorbachev
(Góoc – ba-chốp)
+ Khi học bài 10. Các nước Tây Âu. Ta có thể yêu cầu các em cùng thảo luận

và nêu ý nghĩa của các từ khóa theo dạng phiếu học tập (có gợi ý) sau:
Từ khóa
Tây Âu

Ý nghĩa
Các nước tư bản chủ nghĩa ở phía tây châu Âu (phân
biệt với Đông Âu, tức các nước xã hội chủ nghĩa ở phía


9

đông châu Âu)
Marshall
NATO
Đồng minh
Liên kết
Dạng bài tập thứ ba: Vận dụng kiến thức liên môn để làm bài tập lịch sử
Dạng bài tập này là sự kết hợp các nội dung ở các mơn học có những vấn đề
chung hoặc những vấn đề lớn gần nhau. Thông thường là sự kết hợp của hai
môn hoặc nhiều môn truyền thống gần nhau để hình thành bài tập chung, trong
đó có phần đặc trưng riêng của mỗi mơn và có phần chung cho các môn, mà cụ
thể ở đây là sự kết hợp giữa Lịch sử và Địa lí.
Từ sự kết hợp này sẽ tạo nên sự gắn kết kiến thức của các môn học, giữa nội
dung học tập với thực tiễn cuộc sống, làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa
hơn đối với học sinh. Từ đó góp phần nâng cao năng lực của người học, giúp
đào tạo những con người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn
đề của cuộc sống hiện đại.
Ví dụ:
+ Khi học bài 4. Các nước châu Á. Ta có thể yêu cầu học sinh làm bài tập với
nội dung như sau: Liệt kê tên các quốc gia ở châu Á (theo từng khu vực) mà em

biết thông qua phiếu học tập
Các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á
…………………………………………………………………….……….
Các quốc gia thuộc khu vực Nam Á
…………………………………………………………………….……….
Các quốc gia thuộc khu vực Đông Bắc Á
……………………………………………………………………………..
Các quốc gia thuộc khu vực Tây Á
……………………………………………………………………………..


10

+ Khi học bài 5. Các nước Đông Nam Á. Ta có thể cho bài tập với nội dung
như sau: dựa vào thơng tin trong sách giáo khoa, hãy hồn thành phiếu học tập
về các nước Đông Nam Á (tên quốc gia, tên thủ đô và năm gia nhập ASEAN của
mỗi nước).

Dạng bài tập thứ tư: đọc tư liệu và giải quyết vấn đề
Đây là dạng bài tập mới và có nhiều điều thú vị hơn so với các dạng bài tập
khác vì đây là những vấn đề mới mà giáo viên đưa ra, nó khơng bao hàm các nội
dung mà các em phải học thuộc một cách nhàm chán. Do khơng cần phải học
thuộc lịng hay phải lật lại kiến thức đã học nên việc học của các em sẽ năng
động hơn.Vì khi đó các em phải tiến hành khám phá và làm việc để giải quyết
các vấn đề được nêu.
Qua đó sẽ giúp các em kiểm tra và vận dụng được các kiến thức mà mình đã
được học tập, phát triển các kỹ năng để làm việc nhóm tốt hơn, cải thiện kỹ năng
giao tiếp, giúp các em mạnh dạng khi đưa ra quan điểm và bảo vệ quan điểm của



11

mình bằng các chứng cứ và lý thuyết, trở nên linh hoạt hơn trong việc xử lý
thông tin và các tình huống giao tiếp.
Ví dụ:
+ Khi học bài 2. Liên Xô và các nước Đông Âu từ giữa những năm 70 đến
đầu những năm 90 của thế kỉ XX. Ta có thể đưa ra yêu cầu như sau: đọc đoạn tư
liệu và thực hiện nhiệm vụ
Tư liệu:
Công cuộc cải tổ ngày càng lún sâu vào khó khăn bế tắc, đất nước Xô viết
lâm vào cuộc khủng hoảng về mọi mặt: sự suy sụp về kinh tế, những rối ren về
chính trị và nhiều tệ nạn xã hội; mâu thuẫn và xung đột giữa các dân tộc dẫn đến
hiện tượng ly khai của một số nước cộng hòa ra khỏi Liên bang Xơ viết…; sự
chia rẽ và hình thành nhiều phe phái trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô và sự
xuất hiện một loạt các đảng phái với nhiều xu hướng chính trị khác nhau trong
xã hội, sự ngóc đầu dậy của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội…
(Nguồn: Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo
dục,H.,1998,tr.456.)
a. Gạch dưới các cụm từ thể hiện nguyên nhân dẫn tới sự khủng hoảng và tan
rã của Liên Xơ.
b. Ngồi những ngun nhân trên, hãy tìm thêm một nguyên nhân khác dẫn tới sự khủng
hoảng và tan rã của Liên Xô, ghi rõ nguồn tham khảo.

Nguyên nhân dẫn tới sự khủng hoảng và tan rã của Liên Xơ:
…………………………………………………………………………………
Nguồn tham khảo: …………………………………………………………….
c. Theo em ngun nhân chính dẫn tới sự khủng hoảng và tan rã của Liên Xô
là gì? Vì sao?
+ Khi học bài 6. Các nước châu Phi. Ta có thể đưa ra yêu cầu như sau: đọc
đoạn tư liệu và thực hiện nhiệm vụ

Tư liệu 1:
Chiến tranh càng làm bi đát thêm tình hình kinh tế - xã hội của lục địa vốn là
khu vực kinh tế phát triển chậm nhất thế giới.Vào những năm 60, châu Phi còn


12

tự túc được lương thực thì hiện tại 2/3 số nước của lục địa này khơng đủ ăn. Số
người đói kinh niên lên tới 120 triệu đến 150 triệu, chiếm ¼ dân số của châu
Phi. Bùng nổ dân số là một trong những nguyên nhân dẫn đến tấn thảm kịch của
châu Phi. Châu Phi cũng là châu lục có tỉ lệ người mù chữ cao nhất thế giới và
còn được gọi là “lục địa của bệnh AIDS”. Các nước châu Phi những năm qua đã
tích cực tìm kiếm những giải pháp khắc phục khủng hoảng với khơng ít những
thử nghiệm cải cách kinh tế, đề ra những chiến lược phát triển đất nước. Đồng
thời, các tổ chức quốc tế và cả cộng đồng quốc tế đã thực sự quan tâm và giúp
đỡ các nước châu Phi.
(Nguồn: Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo
dục,H.,1998,tr.384-385.)
Tư liệu 2:
Những thành tựu ban đầu mà các nước châu Phi đạt được trong những năm
đầu sau khi giành được độc lập chưa đủ để làm thay đổi một cách căn bản bộ
mặt kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, lệ thuộc nặng nề do ách thống trị thuộc địa lâu
đời để lại. Từ chỗ đầy triển vọng, ngày nay tình hình châu Phi lại diễn ra rất khó
khăn. Trong những năm 80, đặc biệt là bước vào thập niên 90, châu Phi trở
thành lục địa của chiến tranh, tụt hậu và đói nghèo. Tình trạng đói nghèo và
chậm phát triển ở châu Phi càng làm cho mâu thuẫn sắc tộc thêm trầm trọng.
(Nguồn: Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo
dục,H.,1998,tr.383-384.)
a. Gạch dưới các chi tiết thể hiện những thuận lợi, khó khăn của châu Phi
trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.

b. Theo em, vì sao châu Phi được gọi là “lục địa đen”?
Dạng bài tập thứ năm: hãy là một Biên tập viên thời sự
Đối với dạng bài tập này giáo viên sẽ yêu cầu học sinh của mình đóng vai
một Biên tập viên thời sự để thực hiện một bản tin ngắn gọn về một nội dung
quan trọng nhất của bài học, để từ đó giúp các em có thể thể hiện hết khả năng
sáng tạo của bản thân. Đồng thời với dạng bài tập này là một biện pháp tốt nhất


13

để chúng ta kiểm tra khả năng viết và trình bày của các em, giúp các em có được
sự tích cực và chủ động hơn trong quá trình học tập. Thơng qua các bài làm của
các em giáo viên có thể lấy điểm vào cột điểm kiểm tra thường xuyên.
Ví dụ:
+ Khi học bài 2. Liên Xô và các nước Đông Âu từ giữa những năm 70 đến
đầu những năm 90 của thế kỉ XX. Ta có thể đưa ra yêu cầu như sau: đóng vai
một Biên tập viên thời sự, em hãy chuẩn bị một bản tin ngắn gọn để đưa tin về
sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.
Với các gợi ý như sau:
Về hình thức: video clip (thời lượng khoảng 1 phút) hoặc tin bài (khoảng 100
từ; có thể sưu tầm tranh ảnh…để bài báo sinh động, hấp dẫn hơn).
Về nội dung:
* Trình bày tóm tắt về q trình sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô gắn với các mốc thời gian lịch sử, đặc biệt là mốc mở đầu và kết thúc.
* Những nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô.
* Tác động của sự sụp chế đổ của độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ đến tình
hình thế giới và quan hệ quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng.
* Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và sự vận dụng bài học kinh nghiệm đó ở Việt Nam (nếu có).

+ Khi học bài 3. Q trình phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và sự
tan rã của hệ thống thuộc địa. Ta có thể đưa ra yêu cầu sau: đóng vai một Biên
tập viên thời sự, em hãy chuẩn bị một bản tin ngắn gọn để đưa tin về một trong
ba giai đoạn của phong trào giải phóng dân tộc từ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai đến giữa những năm 90 của thế kỉ XX.
Với các gợi ý như sau:
Về hình thức: video clip (thời lượng khoảng 1 phút) hoặc tin bài (khoảng 100
từ; có thể sưu tầm tranh ảnh…để bài báo sinh động, hấp dẫn hơn).
Về nội dung:


14

* Hoàn cảnh và nguyên nhân dẫn tới sự bùng nổ của phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
* Các sự kiện chính, tiêu biểu của phong trào giải phóng dân tộc trong giai
đoạn đó.
* Tác động của phong trào giải phóng dân tộc trong giai đoạn đó đến tình
hình chính trị thế giới.
4. Thực ngiệm và kết quả
Về phía học sinh:
Qua việc thực hiện dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực
cho học sinh thơng qua các dạng bài tập đã thu về những kết quả khả quan: các
em rất tích cực và sơi nổi trong q trình làm việc nhất là khi làm việc theo
nhóm, các em đã hình thành khả năng trình bày và bảo vệ ý kiến của mình một
cách rất tự tin, các em đã chủ động hơn trong việc đặt ra những câu hỏi cho giáo
viên thay vì như trước việc đặt câu hỏi hầu như chỉ có mỗi mình giáo viên thực
hiện, đồng thời khả năng suy luận và tổng hợp vấn đề của các em đã có những
tiến bộ vượt bậc.
Thơng qua các bài tập học sinh nắm vững kiến thức bài học hơn, biết liên

hệ với các mơn học có liên quan, biết vận dụng những kiến thức học được áp
dụng vào cuộc sống. Và quan trọng nhất là kết quả học tập của các em đã có một
sự tiến bộ rất lớn.
Kết quả khảo sát cuối học kì I cho thấy chất lượng bộ môn đã được nâng lên so với
năm học trước. (Ở đây tôi chỉ sử dụng kết quả của học kì I của một lớp cho mỗi năm học)

Năm học/ xếp loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Về phía giáo viên

2018-2019
3
17
14
8
0

2019-2020
12
12
8
1
0


15


Qua các giờ thao giảng, dự giờ của các đồng nghiệp trong trường và các
tiết thanh tra đột xuất, các giáo viên trong tổ nhóm đều có những đánh giá cao
về những phương pháp mà tôi đã áp dụng trong giờ dạy. Tơi thấy mình cần có
trách nhiệm với giờ dạy của mình hơn. Từ đó càng giúp tơi có thêm động lực và
hứng thú trong việc tìm tịi và áp dụng những hướng đi đúng nhất cho bộ môn
của mình. Tơi tin rằng với sự nhiệt huyết của mỗi giáo viên chúng ta sẽ đưa Lịch
sử về đúng với vị trí của nó.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Với việc áp dụng phương pháp dạy học như trên tơi đã thu về được những kết
quả như mình mong muốn, học sinh của tơi giờ đây khơng cịn là những “chú
vẹt”, các em đã thực sự là trung tâm trong các tiết học. Thành tích học tập của
các em không ngừng nâng cao, năng lực tự học và tự rèn có bước phát triển mới,
sự chủ động và sáng tạo của các em được thể hiện rõ nét qua từng tiết học. Các
em đã được trang bị những kỹ năng mới để có thể hồn thành tốt nhiệm vụ học
tập khi Chương trình Giáo dục phổ mới được triển khai.
Từ những kết quả đã đạt được tôi thấy rằng mình đã khá thành cơng trong
việc giúp học sinh của mình có được sự chủ động, tích cực trong việc học và
trong cuộc sống, đồng thời có được những kỹ năng cần thiết cho một chặng
đường mới ở phía trước. Đặc biệt là giúp các em có đủ điều kiện để được xét
công nhận tốt nghiệp.
Bản thân tôi sẽ mạnh dạn hơn trong việc áp dụng phương pháp học tập mới
này trong học kì hai đối với học sinh lớp 9 và các khối lớp khác mà tôi đang
giảng dạy. Đồng thời không ngừng học tập để khắc phục những hạn chế, thiếu
sót của mình để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục của bản thân và nhà
trường.
Với thời gian và năng lực trình độ hiện tại của bản thân, kinh nghiệm chưa
nhiều nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong q trình thực hiện đề tài.



16

Tơi rất mong được sự góp ý chân thành của quý thầy cô và hội đồng khoa học
các cấp, để sáng kiến kinh nghiệm này được hồn thiện và có tính khả thi.
2. Kiến nghị:
Đối với các cấp quản lí giáo dục
Khi thực hiện các hoạt động tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát triển năng lực cần đi sâu hơn vào từng hoạt động cụ thể của một tiết
dạy, nên có những bài dạy minh họa cho từng hoạt động từ khởi động cho đến
vận dụng và mở rộng. Lớp học nên có số học sinh khơng q đơng vì nếu trong
lớp có nhiều hơn 40 học sinh thì việc quan sát và hướng dẫn học sinh sẽ gặp rất
nhiều khó khăn. Đặc biệt là cần sớm cho giáo viên tiếp cận với sách giáo khoa
của Chương trình Giáo dục phổ thơng mới để khi đi vào thực hiện sẽ cho kết quả
tốt hơn.
Đối với giáo viên
Mỗi giáo viên cần tích cực hơn nữa, mạnh dạng hơn nữa trong việc học tập,
nghiên cứu và ứng dụng việc dạy học theo hướng phát huy năng lực của học
sinh trong quá trình giảng dạy, để giúp các em phát huy được những năng lực
của mình, đồng thời hình thành những kĩ năng cần thiết trong học tập và trong
cuộc sống. Mỗi giáo viên cần có cái nhìn đúng đắn về phương pháp dạy học mới
cũng như về Chương trình Giáo dục phổ thơng mới vì chỉ có nhận thức đúng thì
chúng ta mới có những hoạt động đúng để phát triển nó.
An Lạc Thơn, ngày 19 tháng 3 năm 2020
Người viết

Nguyễn Vũ Linh


17


PHẦN XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG THI ĐUA CƠ SƠ
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………….........
........PHẦN XÁC NHẬN CỦA CẤP TRÌNH KHEN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………....
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………



18

……………………………………………………………………………………
……



×