Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN KẾ TONĂNG SUẤT TIÊU THỤ HÀNG HÓA VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY CHẾ BIẾN VÀ KINH DOANH THAN HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.82 KB, 22 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN KẾ TONĂNG SUẤT TIÊU
THỤ HÀNG HÓA VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI
CÔNG TY CHẾ BIẾN VÀ KINH DOANH THAN HÀ NỘI
I. NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG KẾ TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HÓA VÀ XÁC
ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY KINH DOANH VÀ CHẾ BIẾN THAN HÀ
NỘI
Từ khi nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng CHCN, công tác kế toán tại Công ty đã chứng tỏ được vai
trò của mình như là một công cụ quản lý kinh doanh hữu hiệu, góp phần quan
trọng giữ vững và thúc đẩy sự phát triển không ngừng của Công ty hiện nay cúng
như trong tương lai.
Công tác kế toán nói chung và kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hóa nói riêng
đã có nhiều sự thay đổi để thích ứng với cơ chế tài chính và chế độ kế toán hiện
hành. Qua thời gian thực tập tai Công ty chế biến và kinh doanh than Hà Nội, tôi
nhận thấy Công ty đã đạt được một số ưu điểm và tồn tại một số nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Về vận dụng cơ chế tài chính:
Công tác tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ đã đảm bảo tính thống nhất về
phạm vi, phương pháp tính toán các chỉ tiêu kinh tế giữa kế toán và các bộ phận có
liên quan cũng như đảm bảo cho số liệu kế toán phản ánh một cách trung thực, hợp
lý, rõ ràng, dễ hiểu.
Mọi chi phí phát sinh trong quá trình bán hàng và quản lý Công ty, đều được
tập hợp đầy đủ trên nhật ký chứng từ số 7 và chỉ sử dụng duy nhất một tài khoản để
tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh. Điều này góp phần thuận cho việc
xác định đúng đắn, tránh sai sót trong công việc tính toán kết quả kinh doanh của
Công ty.
Mặt hàng than là mặt hàng rất đa dạng. Công ty có rất nhiều chủng loại than,
đồng thời phải quản lý nhiều trạm và nhiều cửa hàng nhỏ nên việc theo dõi việc
tiêu thụ hàng hóa không phải là dễ. Song trên thực tế, Công ty đã hạch toán khâu
tiêu thụ một cách linh hoạt, kịp thời, phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế tài chính.
Mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh về tiêu thụ được kế toán phản ánh, ghi


chép đầy đủ giúp cho việc hạch toán tiêu thụ hàng hóa và xác định kết quả tiêu thụ
chính xác, dễ dàng.
Về tổ chức công tác hạch toán ban đầu:
Các chứng từ ban đầu, được lập tại Công ty đều phù hợp với các yêu cầu
quản lý kinh tế và pháp lý của nghiệp vụ. Việc mua bán than đều có hóa đơn tài
chính. Các chứng từ được lập đều có đầy đủ chữ ký của người có liêu quan, sử
dụng đúng mẫu của bộ tài chính.
Các chứng từ được sắp xếp phân loại hệ thống theo nghiệp vụ kinh tế tài
chính phát sinh theo thứ tự thời gian trước khi đưa vào lưu trữ. Chứng từ được
đóng thành lập, sắ xếp theo nội dung, theo tháng, quý khi cần có thể tìm được ngay
thuận tiện cho việc sử dụng lại chứng từ.
Công ty tổ chức hạch toán ban đầu tại các trạm, là tập hợp phân loại chứng
từ ban đầu, và định kỳ 3 ngày gửi về phòng kế toán Công ty. Cách làm này tuy
phức tạp nhưng đảm bảo độ trung thực cao. Thực hiện theo cách làm này sẽ làm
cho việc lập bảng kê, ghi sổ chi tiết, sổ tổng hợp không bị dồn vào cuối tháng. Do
đó sẽ đảm bảo việc cung cấp số liệu kịp thời cho lãnh đạo Công ty.
Về vận dụng tài khoản kế toán:
Kế toán Công ty áp dụng hệ thống tài khoản kế toán ban hành theo quyết
định số 1141/TC/QĐ/KT ngày 01/11/1995 của Bộ tài chính. Để phù hợp với tình
hình và đặc điểm kinh doanh, kế toán Công ty mở thêm một số tài khoản cấp 2,3
để thuận tiện cho việc theo dõi và hạch toán, tăng hiệu quả công tác kế toán tại
Công ty.
Do khối lượng nghiệp vụ kinh tế phát triển sinh nhiều, liêu tục trong tháng
nên để hạch toán tình hình biến động kinh doanh, Công ty áp dụng phương pháp kế
toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên là rất hợp lý. Vì vậy
công việc ghi chép nhanh chóng, chính xác, kịp thời thuận tiện cho việc kiểm tra
đối chiếu sau này thông qua đó giúp cho kế toán trưởng nắm bắt được chi tiết,
nhanh chóng kết quả hoạt động kinh doanh.
Về sổ sách kế toán:
Hình thức số kế toán mà Công ty áp dụng là Nhật ký chứng từ, đã làm giảm

đáng kể việc ghi chép trùng lặp, tăng năng suất lao động, phát huy óc sáng tạo của
nhân viên.
Ở phòng kế toán Công ty có sự phân công trách nhiệm cho mỗi kế toán viên
theo dõi và lập một số sổ nhất định, giúp cho việc ghi sổ thống nhất, đảm bảo
thuận tiện cho việc kiểm tra, đối chiếu các sổ giữa các bộ phận kế toán.
Doanh thu bán hàng của Công ty, kế toán đã mở sổ chi tiết theo dõi cho từng
trạm, theo từng chủng loại, theo từng phương thức (bảng kê số 10 chi tiết cho từng
trạm, theo từng phương thức thanh toán tiền mặt hay séc). Mặt khác trong quá trình
bán hàng Công ty không có các khoản giảm trừ doanh thu nên giúp cho việc hạch
toán kế toán đơn giản, không gây nhầm lẫn. Doanh thu bán hàng luôn được phản
ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác.
Giá vốn hàng bán được tính toán một lần vào cuối tháng dựa trên các sổ chi
tiết nhập, xuất, tồn kho hàng hóa (Bảng kê số 8), bảng cân đối nhập, xuất, tồn kho
của các trạm. Giá vốn bán than được tính cho từng chủng loại than, giúp cho lãnh
đạo Công ty thấy được tình hình kinh doanh của từng chủng loại than, Qua đó ban
lãnh đạo thấy được chủng loại than nào bán được nhiều nhất, chủng loại than nào
bán được ít nhất, lý do tại sao, tìm nguyên nhân và cách khắc phục nhằm giúp cho
hoạt động kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển.
Về báo cáo kế toán:
Báo cáo kế toán mà Công ty sử dụng hầu hết là các báo cáo tài chính, đã đáp
ứng được yêu cầu thông tin cho các đối tượng sử dụng khác nhau, đảm bảo các yêu
cầu về tính kịp thời, khách quan, trung thực, mức độ tin cậy cao. Ví dụ như báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty có mẫu khác với mẫu quy định nhằm
cung cấp đầy đủ các thông tin phù hợp với đặc điểm kinh doanh của Công ty.
Nhược điểm:
Về vận dụng cơ chế tài chính:
Hiện nay, chi phí bán hàng tại Công ty bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh
trong quá trình kinh doanh. Như vậy việc xác định nội dung và phạm vi của chi phí
bán hàng tại Công ty là không đúng, vi phạm cơ chế quản lý tài chính hiện hành.
Điều này gây khó khăn cho việc kiểm soát các khoản chi phí phát sinh cũng như

điều hành hoạt động của Công ty.
Về vận dụng cơ chế tài chính:
Số liệu của kế toán tài chính là số liệu kế thừa của các phần hành kế toán
trước đó. Thông qua các số liệu, số liệu của kế toán bán hàng, kế toán chi phí kinh
doanh… có thể xác định được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, song kế toán
cần phải lập các chứng từ ban đầu để phản ánh các bút toán kết chuyển, làm căn cứ
ghi sổ kế toán. Nhưng kế toán Công ty chưa lập các chứng từ để phản ánh bút toán
kết chuyển khi hạch toán kết quả kinh doanh, làm cho người xem rất khó theo dõi
quy trình ghi chép của kế toán.
Về vận dụng tài khoản kế toán:
Để phát huy đầy đủ vai trò và tác dụng của kế toán tài chính, Công ty cần
phải biết vận dụng hệ thống tài khoản kế toán ở Công ty còn khá đơn giản, kế toán
chủ yếu sử dụng các tài khoản tổng hợp mà không mở các tài khoản chi tiết để theo
dõi doanh thu, chi phí và hạch toán kết quả cho từng trạm kinh doanh.
Kế toán không theo dõi tách biệc các khoản chi phí giữa bộ phận bán hàng
và bộ phận quản lý mà hạch toán chung trên TK 641 “Chi phí bán hàng”. Điều này
là không hợp lý và sẽ gây khó khăn cho công tác dự toán chi phí và kiểm soát chi
phí.
Về sổ sách kế toán:
Công ty tổ chức hệ thống sổ kế toán theo hình thức sổ Nhật ký chứng từ,
nhưng kế toán chủ yếu mở các sổ kế toán tổng hợp mà chưa mở đầy đủ các sổ kế
toán chi tiết để ghi chép, hạch toán cụ thể, chi tiết cho từng mặt hàng kinh doanh,
từng trạm kinh doạn. Kế toán cần mở thêm các sổ chi tiết về doanh thu, chi phí, giá
vốn, sổ chi tiết kết quả kinh doanh của từng trạm và sổ chi tiết chi phí thu nhập của
các hoạt động khác.
Về báo cáo kế toán:
Hệ thống báo cáo kế toán mà Công ty lập chủ yếu là các báo cáo kế toán,
báo cáo tài chính được soạn thảo theo định kỳ, thống nhất về toàn bộ kết quả kinh
doanh của Công ty và đáp ứng nhu cầu thông tin của nhiều đối tượng khác nhau cả
trong và ngoài doanh nghiệp. Hơn nữa, việc tổ chức các thông tin trên các báo cáo

này là chưa khoa học và hợp lý, thiếu tiêu chuẩn so sánh . Do dó hệ thống báo cáo
chưa cung cấp được những thông tin có giá trị và đầy đủ cho yêu cầu của công tác
quản lý doanh nghiệp.
II. SỰ CẦN THIẾT VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KẾ TOÁN TIÊU THỤ
HÀNG HÓA VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI
1. Sự cần thiết của việc thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hóa tại các doanh nghiệp
thương mại
Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh phải quan tâm nhiều hơn về sản phẩm và hoạt động kinh doanh
của họ. Do vậy, các doanh nghiệp rất cần các thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời
về tình hình tiêu thụ lãi lỗ thực tế của doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra
các biện pháp để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp. Những thông tin này có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau nên phải
có sự thu thập và chọn lọc thông tin. Thu thập thông tin từ phòng kế toán là việc
mà chủ doanh nghiệp vẫn thực hiện, bởi kế toán là một công cụ quản lý rất quan
trọng không thể bỏ qua.
Trước hết sự thay đổi căn bản về nội dung và hình thức của các mối quan hệ
kinh tế cũng tạo nên sự thay đổi cách hạch toán. Cho nên sự thay đổi nội dung và
hình thức của các mối quan hệ kinh tế như kinh tế nhiều thành phần cùng với nó là
sự xuất hiện Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty tư nhân… đòi hỏi phải
hoàn thiện công tác hạch toán kế toán để theo kịp sự phát triển và hòa nhập với hệ
thống kế toán của các nước trên thế giới. Từ đầu năm 1994 dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính đã tiến hành xây dựng hệ thống kế
toán áp dụng thống nhất trong cả nước. Như vậy hoàn thiện hệ thống hạch toán kế
toán là một việc làm tất yếu và cần thiết.
Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tiêu thụ
là khâu cuối cùng kết thúc quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nên có đóng vai
trò quan trọng. Thực trạng kế toán nói chung, kế toán tiêu thụ nói riêng tại các
doanh nghiệp ở Việt Nam hầu hết chưa thể hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình. Nói

chung, công tác kế toán còn thụ động, chỉ dừng ở mức độ ghi chép, cung cấp thông
tin mà chưa có sự tác động tích cực. Nghiệp vụ tiêu thụ là nghiệp vụ quyết định kết
quả hoạt động của doanh nghiệp. Nghiệp vụ này sẽ quyết định sự tồn tại, phát triển
hay suy thoái của một doanh nghiệp. Hàng hóa tiêu thụ nhanh, công nợ ít sẽ tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, ngược lại, nếu hàng hóa
tiêu thụ chậm, công nợ của khách hàng tăng, doanh nghiệp không thu hồi được vốn
kinh doanh sẽ dẫn đến kinh doanh suy thoái. Do vậy, hoàn thiện quá trình hạch
toán tiêu thụ hàng hóa tại các doanh nghiệp thương mại là một vấn đề cần thiết và
có ý nghĩa rất quan trọng.
2. Yêu cầu của hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hóa tại các doanh
nghiệp thương mại:
Để việc hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hóa được tốt thì
phải thực hiện một số yêu cầu chủ yếu sau:
Bảo đảm phù hợp với chế độ quản lý chính và kế toán của Nhà nước do Bộ
tài chính ban hành. Nhà nước đã xây dựng và ban hành những văn bản nhằm mục
đích đáp ứng nhu cầu quản lý đồng bộ hoạt động kế toán tài chính của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước. Đây chính là những văn bản có
tính bắt buộc. Do vậy, khi hoàn thiện công tác kế toán trong đơn vị kinh doanh nhà
quản lý cần phải xem xét sao cho việc hoàn thiện là không vi phạm chế độ. Hệ
thống tài khoản thống nhất dùng cho các doanh nghiệp hiện hành theo quyết định
số 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 đã được sửa đổi, bổ sung một số điểm
nhằm đảm bảo sự phù hợp với chế độ kế toán doanh nghiệp, với cơ chế tài chính
doanh nghiệp Nhà nước ban hành và các thông tư hướng dẫn khác. Tuy nhiên,
trong quá trình sử dụng. Doanh nghiệp thấy điểm nào không phù hợp thì có kiến
nghị sửa đổi trong khuôn khổ nhất định và được sự cho phép của cấp có thẩm
quyền, sau đó sửa đổi.
Bảo đảm phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh
nghiệp có những đặc điểm khác nhau tổ chức sản xuất kinh doanh, loại hình kinh
doanh, mặt hàng kinh doanh, trình độ nhân viên và yêu cầu quản lý… Đây là
những đặc điểm mà không doanh nghiệp nào giống doanh nghiệp nào. Có thể hai

doanh nghiệp cùng kinh doanh một mặt hàng, cùng là doanh nghiệp Nhà nước, bộ
máy quản lý tương tụ nhau… nhưng một bên cán bộ thường xuyên học những lớp
nâng cao tay nghề thì sẽ cho các kết quả khác nếu cùng thực hiện một kế hoạch.
Do vậy, việc vận dụng hệ thống kế toán trong doanh nghiệp phải hợp lý, phù hợp
với đặc điểm riêng của doanh nghiệp.
Đảm bảo quyên tắc tiết kiệm nhân lực và chi phí. Yêu cầu này thực hiện
bằng cách xây dựng cơ cấu sổ sách sao cho khối lượng công việc thực hiện nhiều
nhất mà vẫn đáp ứng được khối lượng của công việc.
Đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác. Kế toán là một
công cụ đắc lực của quản lý kinh doanh. Qua công cụ này sẽ giúp nhà quản ý nắm
bắt toàn bộ thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh toàn doanh nghiệp.
Những yêu cầu trên là những yêu cầu chủ yếu của việc hoàn thiện kế toán.
Ngoài ra, tùy thuộc vào nôi dung hoàn thiện mà các các yêu cầu cụ thể khác.
Nhưng tấc cả các yêu cầu điều nhằm mục đích giúp cho doanh nghiệp tốt hơn.
3. Định hướng chung của việc hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ
hàng hóa tại doanh nghiệp thương mại:
3.1. Hoàn thiện hạch toán ban đầu
Hạch toán ban đầu là quá trình theo dõi, ghi chép, hệ thống hoa các nghiệp
vụ kinh tế phát triển vào các chứng từ kế toán để làm cơ sở cho việc hạch toán tổng
hợp, hạch toán chi tiết. Hạch toán ban đầu bao gồm: Xác định các chứng từ sử
dụng, người lập chứng từ, số liệu chứng từ cần lập, trình tự luân chuyển các chứng
từ đó.
Các chứng từ sử dụng trong hạch toán kế tán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hóa
gồm có:
* Hóa đơn GTGT kiểm phiếu xuất kho
* Hóa đơn GTGT cước vận chuyển
* Thẻ quầy hàng
* Phiếu giao hàng
* Phiếu thu, phiếu chi
3.3. Hoàn thiện vận dụng hệ thống kế toán

Hệ thống kế toán doanh nghiệp hiện hành gồm nhiều tài khoản cấp 1 trong
bảng cân đối kế toán được chia làm 9 loại và 7 tài khoản ngoài bảng cân đối kế

×